MỘt số VẤN ĐỀ VỀ ĐỊnh hưỚng tiếp cận giải quyết nghèO ĐÓI Ở việt nam



tải về 50.84 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích50.84 Kb.
#35479
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐỊNH HƯỚNG TIẾP CẬN GIẢI QUYẾT NGHÈO ĐÓI Ở VIỆT NAM

Trong những năm qua, Việt Nam được thế giới chú ý bởi những thành tựu trong công tác xóa đói, giảm nghèo và nâng cao mức sống của người dân. Chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo và việc làm là hoàn thành việc phát triển kết cấu hạ tầng cho các xã nghèo vào năm 2010; nâng cao mức thu nhập và mức sống của người nghèo, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 10%-11% vào năm 2010, góp phần đạt được mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Theo tổng kết của Chương trình Phát triển Liên Hiệp quốc (UNDP), trong điều kiện kinh tế - xã hội của mình, so với các nước có cùng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), Việt Nam đã sử dụng những nguồn lực có được một cách hiệu quả vào công tác nâng cao mức sống người dân, trình độ dân trí, tuổi thọ,…Tuy vậy, bên cạnh đó, công tác xóa đói, giảm nghèo vẫn còn nhiều bất cập làm ảnh hưởng không nhỏ tới mục tiêu công bằng xã hội trong tiến trình phát triển bền vững của Việt Nam. Trong bản báo cáo, “Chính sách và tăng trưởng vì người nghèo”, UNDP khẳng định quan điểm: Theo đuổi tăng trưởng phải đi kèm với nỗ lực tăng trưởng vì người nghèo thông qua việc tái phân bổ tài sản và thu nhập trong nền kinh tế. UNDP cũng cảnh báo, sự gia tăng bất bình đẳng ở Việt Nam là trở ngại lớn nhất cho tiến trình xóa đói giảm nghèo và có lẽ cũng kìm hãm sự ổn định chính trị và xã hội.

1- Tình trạng nghèo ở Việt Nam

a- Việc xác định chuẩn nghèo

Về việc xác định như thế nào là người nghèo, hiện có nhiều phương pháp khác nhau. Một phương pháp quốc tế để xây dựng các chỉ số nhất quán giữa các năm là so sánh mức chi tiêu hộ gia đình trên đầu người với ngưỡng nghèo. Ngưỡng nghèo được định nghĩa là chi phí cho một rổ hàng tiêu dùng thực phẩm và phi thực phẩm cần thiết cho một cuộc sống khỏe mạnh. Trong trường hợp Việt Nam, ngưỡng nghèo thông dụng là chi phí cho một rổ hàng hóa cung cấp 2.100 đơn vị calo cho một người trong một ngày. Các chỉ số khác thường được sử dụng là nghèo lương thực và chỉ số khoảng cách nghèo. Một hộ gia đình được coi là nghèo lương thực khi chi tiêu của hộ đó thấp đến nỗi dù họ có chi tất cả tiền cho việc mua lương thực thì cũng không đủ để có 2.100 đơn vị calo mỗi ngày. Bên cạnh đó, là ngay cả các hộ gia đình nghèo nhất thì họ vẫn phải có nhu cầu đối với các khoản chi phi lương thực khác. Chỉ số khoảng cách nghèo là “mức chênh lệch” trung bình giữa chi tiêu của những người nghèo và mức chi tiêu tại ngưỡng nghèo. Thước đo này được sử dụng để mô tả mức độ nghèo là nông hay sâu. Ở Việt Nam, từ năm 1993 đến 2005, chuẩn nghèo được điều chỉnh 4 lần và được áp dụng cho mọi thành phần trong xã hội1.

b- Một số thành tựu trong công tác xóa đói, giảm nghèo

Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam là đi đôi với tăng trưởng kinh tế phải đẩy mạnh giảm nghèo, bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội trong quá trình phát triển giữa các vùng, miền trong cả nước, hạn chế tốc độ gia tăng khoảng cách giàu, nghèo. Thực hiện chủ trương đó, trong những năm vừa qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong công tác xóa đói, giảm nghèo. Theo Báo cáo Phát triển Việt Nam 2008, số liệu điều tra hộ gia đình năm 2006 khẳng định xu hướng giảm nghèo ở Việt Nam đang tiếp tục diễn ra, với tỷ lệ hộ gia đình sống dưới ngưỡng nghèo chỉ còn 16%, so với 28,9% năm 2002, và 58,1% năm 1993. Dựa vào thước đo theo chi phí cho một rổ hàng hóa như đã đề cập ở trên, theo ước tính, trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã giảm nghèo cho hơn 42% dân số, tương đương với 35 triệu người.

Tuy nhiên, tiến bộ đạt được trong xóa đói, giảm nghèo là không đồng đều. Tỷ lệ nghèo ở các nhóm dân tộc ít người vẫn cao hơn nhiều so với mức nghèo của các nhóm người Kinh và Hoa. Số liệu cho thấy, hầu hết những người nghèo đều sống ở các vùng nông thôn, với tỷ lệ nghèo đang tiếp tục giảm. Điều này trái ngược với mức nghèo hầu như vẫn giữ nguyên ở thành thị. Về tỷ lệ người nghèo thành thị không giảm, có nhiều nguyên nhân có thể giải thích hiện tượng này. Đó là do giá cả ngày càng tăng cao ở khu vực thành thị. Sự bùng nổ giá bất động sản làm tăng chi phí bán lẻ và các dịch vụ khác trong thành phố. Giá cả leo thang ở khu vực thành thị có thể dẫn đến mức sống thấp hơn cho những người mà thu nhập của họ không tăng theo một cách tương ứng. Ngoài ra, giá cả tăng có thể khiến cho những người cận nghèo bị tái nghèo.

Sự kết hợp giữa tốc độ giảm nghèo nhanh ở những vùng nghèo hơn của Việt Nam và giảm nghèo chậm hơn ở các tỉnh giầu hơn đã giúp thu hẹp khoảng cách giữa các vùng. Số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ nghèo đã giảm nhanh chóng ở những vùng mà tỷ lệ ban đầu là cao nhất. Bức tranh nghèo giữa các tỉnh cũng tương tự như giữa các vùng. Vẫn còn những khoảng cách lớn những tỉnh giàu nhất và tỉnh nghèo nhất. Tuy nhiên, ngay cả ở những vùng cao nguyên nghèo nhất, một số tỉnh cũng đang giảm nghèo tốt hơn và bắt đầu theo kịp các tỉnh giàu hơn ở vùng đồng bằng. Điều đó là do đối với các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số Chính phủ đã có những chính sách ưu tiên như Chương trình 135, ổn định dân di cư tự do, chính sách trợ giá, trợ cước, Chương trình 173, Chương trình 186... Những chính sách đó đã giúp người nghèo, người dân tộc xóa đói, giảm nghèo, lĩnh hội được các thành quả của quá trình phát triển kinh tế, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Tuy chưa theo kịp tốc độ của vùng đồng bằng, vùng đô thị, song đời sống của người dân nơi đây đã có những thay đổi tích cực, kết cấu hạ tầng phát triển, thị trường hàng hóa đã bắt đầu hình thành, dần dần thay thế nền kinh tế tự cung, tự cấp trước đây.

c- Một số bất cập trong việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo

Thành tựu về xóa đói giảm nghèo trong những năm qua là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, những hạn chế và bất cập trong tiến trình này là không nhỏ, thể hiện ở sự chênh lệch giàu nghèo quá lớn giữa các vùng, các tầng lớp xã hội. Tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng sâu, vùng xa vẫn cao gấp 4-5 lần so với mức bình quân của cả nước. Đa số người nghèo ít có điều kiện tiếp cận với dịch vụ xã hội cơ bản. Bên cạnh đó, những thành tựu xóa đói giảm nghèo đã đạt được còn thiếu tính bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao. Nguy cơ dễ bị tổn thương của người nghèo trước những rủi ro của cuộc sống (ốm đau, thiên tai, mất mùa, biến động thị trường, môi trường ô nhiễm, mất đi người trụ cột của gia đình, thất nghiệp...) cũng vẫn rất lớn. Hệ thống an sinh xã hội chưa phát huy tác dụng ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Đặc biệt nước ta nằm trong vùng thường xuyên xảy ra thiên tai, bão lụt và 80% người nghèo làm việc trong nông nghiệp có thể dẫn đến nguy cơ tái nghèo đói cao. Mặt khác, có không ít hộ tuy không thuộc diện nghèo đói nhưng mức thu nhập không ổn định nằm giáp ranh chuẩn nghèo đói cũng có nguy cơ tái đói nghèo. Ngoài ra, nghèo đói có mối liên quan mật thiết với tình trạng suy thoái môi trường. Nghèo đói có thể khiến cho nông dân khai thác quá mức nguồn tài nguyên vốn đã hạn hẹp và càng làm cho nghèo đói trở nên trầm trọng hơn.



Theo Báo cáo của Dự án VIE, công tác xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam sẽ còn gặp nhiều khó khăn do nguồn lực xóa đói, giảm nghèo hạn chế; số lượng cán bộ làm công tác xóa đói, giảm nghèo còn thiếu, yếu về năng lực. Bên cạnh đó, cơ chế xác định hộ nghèo chưa được thực hiện thống nhất ở các địa phương và chất lượng giám sát theo dõi báo cáo về xóa đói, giảm nghèo chưa cao... Một số nguyên nhân cụ thể dẫn đến những bất cập trong công tác xóa đói, giảm nghèo có thể lý giải như sau:

Thứ nhất, nguồn kinh phí do trung ương bố trí còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được mục tiêu đề ra. Với nguồn kinh phí hằng năm bố trí cho xóa đói, giảm nghèo khoảng 600 - 700 tỉ đồng (bình quân khoảng 100.000 đ/người) khó có thể giúp người nghèo thoát nghèo trong thời gian ngắn. Trong điều kiện nguồn kinh phí hỗ trợ từ trung ương còn hạn hẹp thì nguồn huy động tại chỗ đóng vai trò hết sức quan trọng. Song, nhiều tỉnh gặp khó khăn, không chủ động được việc huy động nguồn lực tại chỗ do không biết chính xác nguồn kinh phí được hỗ trợ từ trung ương là bao nhiêu và thông thường tiêu chí phân bổ kinh phí không được thông tin rõ ràng.

Thứ hai, một số chính sách hỗ trợ chưa thật sự phù hợp với người nghèo ảnh hưởng đến hiệu quả của các chương trình. Ví dụ, như chính sách hỗ trợ khám chữa bệnh cho người nghèo là rất có ý nghĩa, song mức hỗ trợ tối đa tại trạm y tế xã là 10.000 đ/lần khám chữa bệnh, tuyến huyện là 147.000 đ/lần khám chữa bệnh là quá thấp (trong khi các chi phí đi lại, thuốc thang mà người bệnh tự chi trả có thể cao hơn nhiều). Các thủ tục rườm rà khi vay vốn kết hợp với đội ngũ cán bộ tín dụng tại cơ sở thiếu trầm trọng là những lý do khiến người nghèo khó tiếp cận được dịch vụ này. Hệ thống cơ chế, chính sách mang tính bao cấp kéo dài phần nào đã tạo ra tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng của một bộ phận người nghèo, xã nghèo cũng ảnh hưởng đến tính bền vững của công cuộc xóa đói, giảm nghèo.

Thứ ba, hệ thống theo dõi, giám sát chương trình chưa được tổ chức một cách có hệ thống và đồng bộ. Thông thường công tác sơ kết, tổng kết chương trình chủ yếu dựa trên báo cáo của các bộ và các tỉnh gửi về, song tình trạng một số chỉ tiêu trong báo cáo không có số liệu hoặc không gửi báo cáo về vẫn xảy ra thường xuyên. Trong khi đó, các chỉ tiêu được sử dụng để báo cáo, nhìn chung mang tính liệt kê, chưa phân biệt rõ giữa chỉ tiêu đầu vào, đầu ra và vai trò tác động. Điều này đã gây rất nhiều khó khăn cho công tác theo dõi, đánh giá chính xác hiệu quả và tác động của chương trình.

Thứ tư, thiếu đội ngũ cán bộ xóa đói, giảm nghèo có đủ năng lực để thực hiện chương trình. Hiện nay, phần lớn đội ngũ cán bộ làm công tác xóa đói, giảm nghèo ở xã vẫn kiêm nhiệm, trong khi chủ yếu các hoạt động của chương trình được triển khai tại xã. Chưa được đào tạo có hệ thống, khối lượng công việc nhiều là những lý do khiến họ khó thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Năng lực chuyên môn của cán bộ cấp huyện, xã còn yếu, nhiều cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo chưa tốt nghiệp phổ thông trung học. Hơn nữa công tác xóa đói, giảm nghèo đòi hỏi cán bộ ngoài chuyên môn nghiệp vụ còn phải nhiệt tình, nhạy bén, sáng tạo để nắm chắc tình hình đói nghèo trên địa bàn.

2- Quan điểm và một số biện pháp đẩy mạnh hiệu quả của công tác xoá đói, giảm nghèo

a- Quan điểm tiếp cận vấn đề nghèo đói và xoá đói, giảm nghèo

Trong cách tiếp cận vấn đề nghèo đói và xóa đói giảm nghèo, phải có sự nhận thức đúng ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xoá đói, giảm nghèo. Như chúng ta đã biết, đói nghèo là một hiện tượng mang tính toàn cầu; nó không chỉ tồn tại ở những nước nghèo có thu nhập thấp, mà vẫn có ở ngay trong những nước phát triển. Do vậy, xoá đói, giảm nghèo đã được đưa vào chương trình nghị sự của Liên Hiệp quốc. Có thể nói, xoá đói, giảm nghèo là chiến lược của các quốc gia, nhưng đối với Việt Nam, nó càng có ý nghĩa đặc biệt vì đó là mục tiêu hàng đầu của con đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, giải quyết vấn đề nghèo đói không chỉ dựa vào kinh nghiệm trong nước mà đòi hỏi phải có phương pháp tiếp cận giải quyết một cách khoa học - đó là gắn kết tăng trưởng với giảm nghèo, giảm nghèo đói phải bảo đảm tính toàn diện, công bằng, bền vững và hội nhập.

Bên cạnh đó, cần phân tích một cách khách quan và khoa học nguyên nhân của nghèo đói để từ đó có những giải pháp hữu hiệu xoá đói, giảm nghèo. Thực tế cho thấy, nghèo đói xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có các nguyên nhân khách quan từ điều kiện và môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội,…nhưng bên cạnh đó cần chú ý tới các nguyên nhân chủ quan của bản thân người nghèo. Ngoài ra cần phải chú ý tới một nguyên nhân vừa mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan đối với đói nghèo; đó chính là sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của chính quyền các cấp.

Một điều quan trọng là, xóa đói, giảm nghèo cần phải thu hút được sự tham gia đông đảo của các tầng lớp dân cư bởi vì xóa đói, giảm nghèo không phải là vấn đề riêng của người nghèo, hay của Chính phủ, mà là vấn đề chung của cả nước, của toàn xã hội. Các phong trào "Ngày vì người nghèo", các chương trình truyền hình "Những tấm lòng từ thiện"... đã thu hút đông đảo sự quan tâm và giúp đỡ của các cá nhân, cộng đồng, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội trong nước và quốc tế. Do nguồn lực hỗ trợ từ trung ương hạn hẹp, việc bổ sung ngân sách cho chương trình bằng nguồn ngân sách địa phương và huy động đóng góp của cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong việc triển khai thực hiện chương trình. Bên cạnh các hỗ trợ bằng tiền, phải kể đến những đóng góp bằng ngày công lao động và thông qua việc xây dựng các mô hình và kinh nghiệm xóa đói, giảm nghèo. Đây thực sự là những đóng góp rất quý báu góp phần thực hiện thành công và hiệu quả chương trình xóa đói, giảm nghèo.



b- Một số biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh có hiệu quả công tác xóa đói, giảm nghèo

Giải pháp cơ bản và tổng thể về xoá đói, giảm nghèo là sớm hình thành đồng bộ và thực hiện tốt hệ thống thể chế kinh tế, xã hội để thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể, để khắc phục những hạn chế trên, cần đảm bảo thực hiện tốt các biện pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục phân cấp triệt để cho địa phương trong thực hiện các chương trình xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm sự hài hòa giữa trách nhiệm đi đôi với quyền hạn; các bộ, ngành tập trung vào xây dựng cơ chế, chính sách, xây dựng tiêu chí, tạo nguồn lực, đào tạo cán bộ, hướng dẫn và giám sát đánh giá; việc huy động nguồn lực tại chỗ và tổ chức thực hiện là trách nhiệm của xã, huyện và tỉnh. Phát huy sáng kiến, năng động của địa phương, vai trò của các đoàn thể và người dân trong quá trình thực hiện.

Thứ hai, đối với 35 huyện miền núi nghèo nhất cần đưa vào kế hoạch đầu tư tập trung. Kinh nghiệm của Trung Quốc giải quyết vấn đề này rất thành công. Ở nước ta, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Yên Bái... cũng đang có xu hướng giải quyết như trên. Đối với vùng đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên, vận động và giao nhiệm vụ cho các lâm, nông trường quốc doanh; các đơn vị kinh tế của quân đội; làng kinh tế thanh niên giúp đồng bào với các hình thức phù hợp. Cần phát huy được vai trò của người dân địa phương tham gia vào quá trình thực hiện dự án, tạo nên sự liên kết vững chắc giữa chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể và người dân... Đây là cơ sở quan trọng để giảm thiểu tình trạng tái nghèo đang diễn ra tại nhiều địa phương.

Thứ ba, cải tiến cơ chế huy động, phân bổ và quản lý nguồn lực theo hướng đa nguồn, coi trọng tại chỗ của từng địa phương; có chính sách phù hợp để thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào miền núi, nhất là ưu đãi về đất, thuế; kêu gọi sự hỗ trợ của các nước và các tổ chức quốc tế, tạo lực mạnh về tài chính cho các vùng nghèo.

Thứ tư, đổi mới hệ thống cơ chế quản lý theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ, ngành trung ương, các địa phương. Tăng cường năng lực và thẩm quyền trong quản lý và điều hành thực hiện chương trình cho tỉnh; làm rõ quyền và trách nhiệm của người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo, khắc phục tư tưởng ỷ lại. Xây dựng cơ chế khuyến khích hộ, xã tự lực vươn lên thoát nghèo và huy động, sử dụng vốn có hiệu quả. Để xoá đói, giảm nghèo có hiệu quả, cần khuyến khích làm giàu, tạo điều kiện cho mọi người có khả năng đều hăng hái đầu tư, sản xuất, kinh doanh, làm giàu một cách chính đáng

Thứ năm, tăng cường tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức của người dân; Coi trọng công tác cán bộ trong xoá đói, giảm nghèo. Trong công tác này, công tác cán bộ, nhất là những cán bộ trực tiếp lãnh đạo công tác xóa đói, giảm nghèo có vai trò quyết định; nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là ở cơ sở, cán bộ chuyên trách làm công tác giảm nghèo, cán bộ khuyến nông; tiếp tục duy trì cán bộ chuyên trách làm công tác xóa đói, giảm nghèo, cán bộ khuyến nông ở xã nghèo. Thiết lập hệ thống theo dõi, giám sát, đánh giá ở cả 4 cấp, bảo đảm tính khách quan, khoa học, góp phần chỉ đạo chương trình có hiệu quả hơn.

Thứ sáu, kiên quyết chống bệnh hình thức và bệnh thành tích trong xoá đói, giảm nghèo. Chúng ta đều biết xoá đói, giảm nghèo phải đi liền với tiết kiệm, chống lãng phí; nhưng trên thực tế do bệnh hình thức và bệnh thành tích nên những người tổ chức lại thích phô trương, gây lãng phí về công sức và tiền của.


1 Xem thêm “Trợ giúp người nghèo, người cận nghèo và người dễ bị tổn thương trong công cuộc chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô”, Thông tin Chuyên đề, 2008.- Trung tâm TTTL-CIEM.

----------------------------

Trung tâm TTTL-CIEM

Каталог: doc
doc -> Qctđhn 01: 2014/btnmt quy chuẩn kỹ thuật về khí thải công nghiệP ĐỐi với bụi và CÁc chất vô CƠ trêN ĐỊa bàn thủ ĐÔ HÀ NỘI
doc -> 1. MỞ ĐẦu tính cấp thiết của đề tài
doc -> I. Quản lý sâu bệnh ở khu vực dự án Ô Môn – Xà No 4 II. Quản lý thuốc bảo vệ thực vật 12 Chủ sở hữu có trách nhiệm liên hệ với một đại diện phê duyệt của tỉnh để truyền đạt các hướng dẫn và yêu cầu xử lý
doc -> Tr­êng thcs nguyÔn §øc C¶nh Gi¸o ¸n §¹i Sè 7 Ch­¬ngI sè h÷u tØ. sè thùc
doc -> Ban chỉ ĐẠo công nghệ thông tin của cơ quan đẢng giáo trình thiết kế, XÂy dựng và quản trị CƠ SỞ DỮ liệu hà NỘI, 2004
doc -> THỦ TƯỚng chính phủ
doc -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam tỉnh thừa thiên huế Độc lập Tự do Hạnh phúc
doc -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
doc -> Sè: 90/2003/Q§-ub
doc -> Chương 1 Các khái niệm căn bản về mạng và giao thức mạng Mạng máy tính

tải về 50.84 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương