Một số mô hình thành công của ngân hàng tài chính vi mô quốc tế Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam



tải về 290.36 Kb.
trang1/2
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích290.36 Kb.
#35356
  1   2
Một số mô hình thành công của ngân hàng tài chính vi mô quốc tế - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

ThS. Hoàng Văn Thành và ThS. Nguyễn Văn Chiến1


Ngoài ngân hàng Chính sách xã hội hoạt động dưới sự bảo trợ của Chính phủ, hiện nay, vẫn chưa có mô hình ngân hàng chuyên cung cấp dịch vụ tài chính vi mô (TCVM). Bài viết này trình bày tổng quan về một số mô hình ngân hàng TCVM thành công trên thế giới, phân tích cơ hội cho hoạt động ngân hàng TCVM ở Việt Nam, nhằm góp phần thúc đẩy xã hội hóa hoạt động TCVM, góp phần xóa đói giảm nghèo hiệu quả.

Bốn thập kỳ gần đây, TCVM trên thế giới có sự phát triển không ngừng, góp phần giải quyết thành công công tác xóa đói giảm nghèo. Bằng khoản vay tín dụng nhỏ đối với người nghèo, năm 2010, TCVM đã cho hơn 205 triệu hộ gia đình nghèo, đặc biệt có tới 137 triệu hộ nghèo nhất đã được tiếp cận các khoản vay, nhiều người đã thoát khỏi đói nghèo và nâng cao thu nhập1, và TCVM xóa đi rào cản cho rằng người nghèo không thể tiết kiệm, và cũng không thể trả được khoản vay với lãi suất cao. Tất cả thành công có sự đóng góp rất lớn của công tác xã hội hóa công tác xóa đói giảm nghèo, sự tham gia của các tổ chức TCVM, và đặc biệt là ngân hàng TCVM.

Theo Ngân hàng Nhà nước, đến ngày 15/6/2012, Việt Nam có 99 ngân hàng các loại. Cụ thể, có 5 ngân hàng quốc doanh, 35 ngân hàng thương mại cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 49 văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài, và chỉ có 01 ngân hàng chuyên về TCVM - Ngân hàng Chính sách xã hội (VBSP). Như vậy, rõ ràng các ngân hàng có sự phát triển mạnh về số lượng trong 4 năm trở lại đây, đặc biệt các ngân hàng được nâng cao từ ngân hàng địa phương thành ngân hàng thương mại, hoạt động của các ngân hàng Việt Nam chủ yếu về thương mại. Tuy nhiên, ngoài VBSP thì chưa có bất cứ ngân hàng nào tham gia sâu vào hoạt động TCVM. Có thể, do sự gia tăng về hoạt động sản xuất kinh doanh những năm qua, các ngân hàng chỉ tập trung vào mảng này. Mặt khác, cùng với suy nghĩ người nghèo không thể trả nợ các khoản vay và do chưa có thói quen cung cấp các khoản vay nhỏ, tiết kiệm nhỏ đã làm cho các ngân hàng chưa sẵn sàng tham gia hoạt động TCVM.

Ngược lại, ngân hàng thương mại Việt Nam vốn đông nhưng không mạnh, do được nâng cấp quá nhanh trong điều kiện các ngân hàng hạn chế về tài chính và năng lực quản trị, lại phải chạy đua theo cơ chế tăng vốn điều lệ bắt buộc theo Nghị định 141/2006/NÐ - CP ngày 22 tháng 11 năm 2006. Theo đó, đến hết năm 2010, các ngân hàng phải tăng vốn điều lệ lên 3000 tỷ đồng (trừ Ngân hàng Chính sách và Ngân hàng Phát triển Việt Nam 5000 tỷ đồng). Ngoài ra, việc chỉ tập trung cho vay khách hàng lớn, trong điều kiện năng lực quản trị rủi ro hạn chế và sự yếu kém điều hành kinh tế vĩ mô, đã đẩy các ngân hàng vào tình trạng khó khăn về thanh khoản và chỉ cần một khoản nợ lớn có thể dẫn ngân hàng lâm vào khủng hoảng, như trường hợp của Habubank đối với các khoản vay của Vinashin (Lưu Hảo, 2012).

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hoạt động ngân hàng vi mô mang lại lợi nhuận tốt và ổn định, một cơ chế cho vay nhỏ đối với khách hàng, nhằm phân tán rủi ro, đặc biệt hiệu quả đối với ngân hàng năng lực tài chính chưa mạnh. Ðể có cái nhìn tổng quan về hoạt động ngân hàng TCVM quốc tế, sau đây, bài viết này trình bày những kinh nghiệm hoạt động và kết quả đạt được của một số ngân hàng TCVM thành công tại châu Á2 và kiến nghị bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Ngân hàng Grameen (GB) - Bangladesh

GB do Giáo sư Muhammad Yunus khởi xướng vào năm 1974 như một dự án cung cấp dịch vụ ngân hàng cho những hộ gia đình nghèo nhất, giúp họ tự tạo việc làm, nâng cao thu nhập, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp tràn lan ở nông thôn Bangladesh. Mục tiêu của dự án là hỗ trợ vốn để người nghèo đầu tư vào các hoạt động kinh doanh nhỏ nhằm tăng thu nhập (GB, 2010).

Ðiểm nhấn sáng tạo của dự án này là mô hình “nhóm tự quản” kết nối những người vay có hoàn cảnh tương tự để họ cùng chia sẻ trách nhiệm, sàng lọc, giám sát và quản lý lẫn nhau, giảm sự bất cân xứng thông tin trong hoạt động tín dụng. Mỗi nhóm vay gồm 5 người, khoản vay đầu tiên dành cho 2 người, rồi tiếp đến người thứ 3, thứ 4 và người cuối cùng. Hàng tuần nhân viên sẽ gặp khoảng 40 người (khoảng 7 - 8 nhóm), ở đây nhân viên tín dụng là cầu nối giữa các nhóm và thành viên, và chia sẻ những kinh nghiệm làm ăn, và/hoặc quản lý chi tiêu. Ðặc biệt, khi 1 thành viên trong nhóm không có khả năng trả nợ thì GB sẽ từ chối tất cả các khoản vay của các thành viên còn lại trong nhóm, do vậy, người vay bị hối thúc buộc phải làm ăn để trả nợ, và nhiều người có thể cảm thấy ngại ngùng nếu không trả được nợ góp phần gia tăng khả năng trả nợ (vì vậy, mà tỷ lệ trả nợ tại tổ chức TCVM thường rất cao).

Dự án đã chứng tỏ sự hiệu quả và được nhân rộng dần ra nhiều khu vực ở Bangladesh. Năm 1983, Chính phủ Bangladesh quyết định chuyển đổi dự án này thành một ngân hàng độc lập. Ðây là mô hình ngân hàng có chế độ sở hữu đặc biệt: 90% thuộc những người nghèo vay vốn của nó và 10% thuộc Chính phủ. Ðến tháng 10/2011, GB có 8.349 triệu người vay, trong đó 97% là phụ nữ, phủ rộng trên 97% tổng số các làng ở Bangladesh (GB, 2011). GB theo đuổi mục tiêu phi lợi nhuận và được miễn thuế trong suốt quá trình hoạt động. Ngân hàng đạt được bền vững tài chính và có quyền nhận tiền gửi từ công chúng.

GB đang duy trì cơ chế cho vay đối với các đối tượng: (1) cho vay người nghèo phục hồi thu nhập với lãi suất 20%/năm với thời hạn vay 1 năm; (2) cho người nghèo vay mua nhà với lãi suất 8%/năm, hoàn trả trong 5 năm, và có 7754 ngôi nhà được xây dựng năm 2010; (3) cho sinh viên vay chi trả cho học phí, chi phí thực phẩm, văn phòng phẩm, ăn và ở với lãi suất 0% trong thời gian học tập, và 5%/năm sau thời gian học tập, có hơn 47 nghìn người được tham gia vay (năm 2010); (4) cuối cùng cho vay gần 113 nghìn đối tượng rất nghèo (như người ăn xin, tàn tật, mù lòa hoặc sức khỏe kém) với lãi suất 0%. Tất cả các khoản vay đều được tính trên số dư giảm dần. Tính đến cuối 2010, tổng số tiền cho vay tích lũy 594 tỷ BDT (10,12 tỷ USD), trong khi số tiền tích lũy của các thành viên hơn 56 tỷ BDT. Ngoài ra, GB còn cho vay các doanh nghiệp quy mô siêu nhỏ, để họ mở cửa hàng tạp hóa, cửa hàng dược, mua xe tải nhỏ, và xây dựng phát triển điện thoại đến với người nghèo…

Mặc dù, phải theo đuổi chính sách cho vay nhiều người nghèo với lãi suất 0%, nhưng lợi nhuận ròng của GB năm 2010 vẫn đạt 757 triệu BDT, năm 2011 đạt 683 triệu BDT và đảm bảo mức chia cổ tức 30% bằng tiền mặt của năm 2010 và 2011, cũng như lợi nhuận giữ lại khác.



Ngân hàng Rakyat Indonesia

Ngân hàng Rakyat Indonesia (BRI) chuyển từ ngân hàng hợp tác (cooperative bank) thành ngân hàng thương mại nhà nước năm 1950. Trong những năm 1970, 3600 đơn vị Desas BRI (ngân hàng làng) được tạo ra để thực hiện chương trình hỗ trợ phát triển nông nghiệp của chính phủ và trở thành đại lý cho các chương trình cho vay có trợ cấp của chính phủ, nhưng các đơn vị này không đạt được tính bền vững. Năm 1984, đơn vị Desas được tái cơ cấu và tiếp cận tài chính vi mô theo hướng thương mại, áp dụng mức lãi suất bền vững, không có trợ cấp, gia tăng hiệu quả quản lý và nỗ lực huy động tiết kiệm, giúp BRI có lợi nhuận tài chính ngay năm sau đó. Năm 2003, BRI niêm yết, và trở thành ngân hàng vi mô lớn về bền vững tài chính hàng đầu Indonexia và khu vực.

Thành công của BRI là xây dựng được mạng lưới hoạt động rộng khắp, BRI có xu hướng tập trung vào thị trấn huyện lỵ và khu vực phát triển tương đối tốt, cho đến cuối năm 2011, BRI có 18 văn phòng giao dịch cấp vùng, 431 chi nhánh văn phòng, 502 chi nhánh phụ, và gần 5000 đơn vị BRI khác trong cả nước (GB, 2011). Hoạt động của BRI được chia ra làm 4 đơn vị kinh doanh gồm: (1) Ngân hàng TCVM; (2) Ngân hàng bán lẻ; (3) Ngân hàng công ty; (4) Ngân hàng Ðầu tư.

Tiết kiệm là chìa khóa thành công đối với hoạt động của BRI, hoạt động tiết kiệm được tiến hành ngay tại đơn vị Desas, tại khu vực đô thị và theo các chương trình của chính phủ. Phương châm cho phép nhận tiền tiết kiệm bằng bất cứ khoản tiền nào, với cơ chế rút vốn linh hoạt và luôn được đảm bảo một lãi suất thực dương, do vậy, chúng được ưa chuộng với các hộ gia đình có thu nhập thấp. BRI có cơ chế khuyến khích và thu hút khách hàng mới, bằng các tích lũy điểm khi gửi tiền, và giải thưởng bằng xổ số cho các khách hàng. Chính vì vậy, nguồn vốn của BRI rất đa dạng, đặc biệt có hơn 32,80% tiền tiết kiệm từ người dân được tiết kiệm theo ngày hoặc tuần và 32,64% tiền gửi có kỳ hạn, điều đó xóa bỏ đi khả năng người nghèo không thể tiết kiệm3, và nguồn tiết kiệm này BRI chỉ phải trả với chi phí rẻ. Ngoài ra, các đơn vị Desas cũng khuyến khích tiết kiệm từ nhân viên, coi mỗi Desas như trung tâm tạo lợi nhuận, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động. (Hình 1, Hình 2)



Hình 1: Nguồn vốn tại BRI Hình 2: Cơ cấu khách hàng ở BRI năm 2011

(Nguồn: Báo cáo thường niên)



(Nguồn: Báo cáo thường niên 2011)


Bằng nguồn vốn dồi dào, năm 2011, BRI đã giải ngân 78,99 tỷ Rupiah khoản vay thương mại vi mô, tăng 13,34% so với 2010. Ðối tượng được phục vụ chủ yếu là doanh nghiệp siêu nhỏ (chiếm 28,60% thị phần) và các doanh nghiệp nhỏ, hoạt động bán lẻ cho người nghèo (chiếm 46,7%). Tuy nhiên, đối với khách hàng là người rất nghèo thì BRI đã bỏ qua, và không sử dụng cơ chế cho vay theo nhóm như GB tại Bangladesh, nhưng BRI có tham gia chương trình của Chính phủ nhằm tạo thu nhập cho người nông dân và ngư dân nhỏ, được giám sát và quản lý bởi các chi nhánh BRI.



Các khoản vay TCVM tại BRI cung cấp vốn lưu động, vốn đầu tư cho người vay với điều kiện bắt buộc người vay phải có thế chấp, được xác định một cách linh hoạt và nới lỏng dần đối với khách hàng có uy tín. Số tiền cho vay dao động khoảng 3$ đến khoảng 5000$ và thời gian vay dao động từ 1 tháng - 36 tháng (tùy khoản vay). Trả nợ vay được chia nhỏ, trả linh hoạt theo từng kỳ, hoặc trả hàng tháng, quý, hoặc nửa năm (tùy theo lựa chọn từ khách hàng), tạo điều kiện cho người vay dễ dàng trả nợ và tránh việc trả nợ gốc và lãi 1 lần vào cuối kỳ, giảm khả năng rủi ro cho người vay. Do vậy, tỷ lệ hoàn trả nợ vay tại BRI trên 98%, tình trạng nợ xấu thấp (NPL năm 2011 chỉ là 2,30%). Các kết quả tài chính đều cho thấy, BRI đảm bảo an toàn, hệ số đủ vốn CAR khoảng 14,96% năm 2011, cao hơn nhiều so với 8% theo tiêu chuẩn Basel II; hệ số thanh khoản LDR thấp hơn 80%, đảm bảo sự an toàn về thanh khoản, giải quyết bài toán vốn cố hữu hoạt động ngân hàng về thanh khoản khi sử dụng tỷ lệ tiền gửi cao (với kỳ hạn ngắn) phục vụ cho vay (dài hạn). (Hình 3)

Каталог: webcenter -> contentattachfile

tải về 290.36 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương