Một số di tích lịch sử văn hóa của huyện Yên Lạc



tải về 47.98 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu26.07.2016
Kích47.98 Kb.
#6095
Một số di tích lịch sử văn hóa của huyện Yên Lạc
Địa bàn huyện Yên Lạc ngày nay là một vùng đất cổ xưa của tỉnh Vĩnh Phúc. Con người thời đại đồ đá mới đã đến đây cư trú đông đúc từ thời còn hoang sơ. Họ đã cùng cư dân nguyên thuỷ vùng đỉnh tam giác châu thổ đồng bằng Bắc Bộ nước ta sáng tạo ra nghề trồng lúa nước, xây dựng nền văn minh Sông Hồng rực rỡ.

Trải qua hàng ngàn năm lao động đấu tranh, dựng nước và giữ nước, người Yên Lạc các thế hệ trước đã để lại nhiều di chỉ cư trú, nhiều di tích lịch sử văn hóa quý giá. Nhưng do thiên nhiên nhiệt đới khắc nghiệt do chiến tranh chống ngoại xâm tiếp nối liên miên, biết bao di tích không còn nữa. Theo kiểm kê di tích của cơ quan Bảo tàng tỉnh, đến ngày 31/12/2000, huyện Yên Lạc còn 138 di tích các loại trong số này có rất nhiều di tích lịch sử văn hóa đã được xếp hạng bảo vệ, hầu hết đều gắn liền với tên tuổi và công trạng của các nhân vật lịch sử, các danh nhân văn hóa nổi tiếng của huyện.

Đại bộ phận các công trình kiến trúc ở các di tích trên không còn được nguyên vẹn như xưa vì đã qua nhiều lần trùng tu, thay đổi, một số được xây dựng mới hoàn toàn, một số đã mất hẳn, chỉ còn được ghi chép trong tài liệu cũ hoặc trong trí nhớ của nhân dân.

Xin được kể dưới đây những kết quả nghiên cứu bước đầu về một số di tích tiêu biểu nhất.



* Đền Bắc Cung (đền Thính)

Đền ở xã Tam Hồng, thờ Tản Viên sơn thánh. Vị thần Tản Viên là vị thần đứng đầu trong thần thoại Việt Nam. Theo truyền thuyết, thần là con rể vua Hùng thứ 18. Thời loạn (khi nhà Thục đem quân xâm lấn nước Văn Lang), thần đã chỉ huy tướng sĩ đánh tan giặc bảo vệ đô thành Văn Lang.

Thời bình thần chu du khắp nơi trong nước, chăm lo đời sống nhân dân, dạy dân trị thuỷ, làm ruộng, săn bắt muông thú, đánh cá, làm bánh, làm mắm, làm dưa... Các làng, chạ được thần đi qua thường lập đền miếu để thờ thần.

Đền có tên Hán nôm là Bắc Cung vì là một trong bốn đền thờ lớn (Tứ Cung) thờ Tản Viên sơn thánh. Đông Cung (đền Và) ở thôn Vân Gia, xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây; Tây Cung ở xã Đại Nghĩa, huyện Ba Vì, Hà Nội; Nam Cung ở thôn Yên Bảng, xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, Hà Nội; Bắc Cung ở tỉnh Vĩnh Phúc.

Đền có tên dân dã là đền Thính vì tương truyền thần Tản Viên dạy dân ở đây làm thính gạo rang ủ thịt làm chạo, làm nem, một món ăn không thể thiếu trong mâm cỗ hội làng xưa. “Lược ghi về các phong tục tập quán của dân chúng tỉnh Vĩnh Yên” do Tuần phủ Vĩnh Yên chủ biên năm 1933, ghi: “Đền dựng trên đất làng Thư Xá. Truyền thuyết kể rằng: một hôm, Tản Viên Sơn thánh dạo chơi trong vùng và cắm tiên trượng của người xuống làng Thư Xá. Mảnh đất từ đó trở nên rất thiêng. Cho nên dân chúng mới dựng đền Bắc Cung ở đấy. Tất cả các triều vua đều có chiếu chỉ hạ lệnh cho hai tổng Thư Xá và Đông Lỗ phải duy trì công việc thờ phụng”.

Lúc đầu, đền chỉ là một ngôi miếu nhỏ đánh dấu nơi thần núi Tản du ngoạn và lưu trú. Trải qua các triều đại, đều được nâng cấp khang trang hơn.

Thời nhà Nguyễn, năm Thành Thái thứ XII (1900), Tri huyện Yên Lạc đã cho trùng tu đền. Năm Duy Tân thứ V (1911) các nhà chức trách tại địa phương lại tu sửa thêm một lần nữa, có thay đổi một số chi tiết. Năm Khải Định thứ II (1917), địa phương xây cổng Tam quan. Lần tu sửa cuối cùng tiến hành vào năm Khải Định thứ VII (1922).

Từ đó đến nay, đền Bắc Cung gồm một toà nhà chính ba cấp, mỗi cấp ba gian. Cấp cuối cùng tiếp giáp với nhà tiền tế nơi mọi người đến tế lễ. Ngay phía ngoài tiền tế có một tiền sảnh bốn mái. Hai bên chính điện có hai dãy tả mạc cho khách thập phương nghỉ tạm và sửa soạn đồ lễ. Hai đầu tả mạc đằng trước, xây hai cái lầu đối xứng nhau: một lầu treo một quả chuông cao 0,70m đường kính 0,40m, trên khắc ngày đúc chuông là ngày 24 tháng chạp năm Duy Tân thứ V (24/3/1911): Một lầu treo một trống cái đường kính 0,50m cao 0,60m.

Một tam quan lớn có 3 cửa ra vào nối liền với hai ngôi lầu nói trên với nhau, hình thành một bình phong trước đền. Cánh tường bên phải tam quan có gắn một tấm bia có ghi công đức xây đền và những lần tu sửa tiếp theo. Bia đề ngày tốt tháng chạp năm Khải Định VII (1922).

Đền Thính còn là một di tích cách mạng. Tại đây trong thời kỳ Đảng cộng sản Đông Đương hoạt động bí mật, đã diễn hai sự kiện quan trọng. Trong dịp hội đền Thính, đêm giao thừa năm Tân Mùi (16/02/1931) một hội viên Nông Hội Đỏ cơ sở Bích Đại đã rải truyền đơn kêu gọi quần chúng phối hợp đấu tranh chống Pháp với công nông Nghệ Tĩnh. Ngày 21/02/1940, dưới hình thức khách hành hương về lễ đền Thính, các cán bộ toàn tỉnh Vĩnh Yên đã về dự họp Hội nghị do đồng chí Lê Xoay chủ trì để quán triệt chủ trương mới của Đảng và bàn biện pháp thi hành chỉ thị của Xử uỷ Bắc Kỳ.

Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đền Bắc Cung vẫn vững vàng là một trong những công trình kiến trúc nghệ thuật, một di tích lịch sử - văn hoá hàng đầu của huyện. Đền đã được Bộ Văn hoá - Thông Tin (nay là Bộ Văn hóa thể thao - Du lịch) ra quyết định xếp hạng bảo vệ cấp Quốc gia.

* Căn cứ Cẩm Khê của Hai Bà Trưng.

Sau khi đem đại quân tiến đánh Mã Viện và thất trận ở Lãng Bạc (Vùng Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh bây giờ), Hai Bà Trưng lui về giữ các thành Hạ Lôi, Cự Triền (nay còn di tích ở huyện Mê Linh.) Mã Viện đem quân thủy bộ đuổi theo. Cuộc cầm cự kéo dài một thời gian thì thế trận tan vỡ. Hai Bà cưỡi voi về vùng Cẩm Khê quyết một phen sống thác với giặc.

Cuối cùng, Hai Bà gieo mình xuống cửa sông Hát tự trẫm.

Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo

Chị em thất thế phải liều với sông.

(Đại Nam quốc sử diễn ca)

Căn cứ Cẩm Khê có nhiều khả năng là phía Nam huyện Yên Lạc. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Tiền biên quyển 2) cho rằng Cẩm Khê ở địa hạt Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây (xưa huyện Yên Lạc thuộc phủ Vĩnh Tường). Nhà sử học Đào Duy Anh cho rằng Cẩm Khê là xã Cẩm Khê hay còn gọi là Cẩm Viên ở huyện Yên Lạc (Lịch sử cổ đại Việt Nam. Tập VI, trang 15). Theo “Danh bạ các làng ở xứ Bắc Kỳ” của Ngô Vi Liễn (1927), trước 1903, tổng Nhật Chiêu, huyện Yên Lạc có 4 làng: Cẩm Khê, Cẩm La, Cẩm Trạch, Cẩm Viên, Cổ Nha, Đại Tự, Nhật Chiêu; đến năm 1927, Cẩm Khê sát nhập với Cẩm Viên.

Trước năm 1954, làng Cẩm Khê còn di tích “Mả ông voi”, ở gò Am đầu làng Cẩm Viên cũ. Tương truyền đây là một con voi chiến của bà Trưng Trắc bị tử thương và nhân dân chôn ở đấy. Bên cạnh “Mả ông voi” còn một giếng đất là nơi dân làng gánh nước cho “ông voi” uống trước lúc chết. Voi chiến đã bị tử thương thì chủ tướng khó lòng toàn vẹn. Trưng Vương chắc hẳn đã gieo mình xuống sông Cẩm Khê để tuẫn tiết. Ngày xưa ở xã Đại Tự còn vết tích của một con ngòi. Ngòi này nguyên là một nhánh của sông Hồng, xuất phát từ Bạch Hạc chảy qua các xã Bồ Sao, Cao Đại, Vũ Di, Tứ Trưng, Ngũ Kiên, Phú Đa (của huyện Vĩnh Tường), Đại Tự, Liên Châu, Yên Phương, Nguyệt Đức (của huyện Yên Lạc) rồi đổ vào sông Nguyệt Đức. Về sau, sông Hồng đổi dòng, cửa sông phía Bạch Hạc bị phù sa bồi lấp, chỉ còn lại những đầm hồ chạy dài là vết tích của sông Cẩm Khê xưa.

* Đình thôn Nghinh Tiên, xã Nguyệt Đức.

Đình thờ Vĩnh Hoa công chúa. Nội thị tướng quân của Hai Bà Trưng.

Theo truyền thuyết, bà họ Phùng tên Vĩnh Hoa, từ nhỏ được học tập võ nghệ lại giỏi văn thơ, người người biết tiếng. Năm Vĩnh Hoa 18 tuổi, cha mẹ qua đời, Vĩnh Hoa trao tài sản cho ông cậu trông nom rồi một ngựa một kiếm ra đi. Một hôm Vĩnh Hoa đến trang Tiên Nha, thấy địa thế rất đẹp, như con rùa lớn nổi trên dòng sông Nguyệt Đức, có bến có chợ, làng xóm đông vui. Vĩnh Hoa cho rằng nơi đây có thể thỏa được chí mình, mới dừng lại, làm nhà, mua ruộng, mượn người cày cấy để tìm cách chiêu mộ sĩ tốt. Lại nghĩ nơi đây các thuyền buôn qua lại, chợ búa sầm uất, có thể liên kết được các hào kiệt bốn phương, mới mở ngôi hàng nước tự mình bán hàng để tìm gặp những người cùng chí hướng.

Phụ lão trang Tiên Nha biết Vĩnh Hoa là người có chí lớn bảo các trai đinh đến gặp và xin làm thần tử, tôn Vĩnh Hoa làm trưởng trang. Vĩnh Hoa vui vẻ nhận lời.

Từ đó Vĩnh Hoa chiêu dân lưu tán các nơi, đón những người bị bọn đô hộ ức hiếp mà phải rời quê hương, mở rộng trang ấp rèn đúc vũ khí, cất chứa lương thực để đợi thời cơ. Các hào kiệt trong vùng tìm về xin theo, cùng cày ruộng, cùng luyện võ. Nam binh nữ tốt đã có tới ngàn người. Thanh thế ngày càng lẫy lừng.

Một hôm có người tên là Nguyễn Tiến Cơ, sứ giả của Hai Bà Trưng tiến đến, đưa hịch của Bà Trưng cho Vĩnh Hoa. Đọc xong, Vĩnh Hoa nói với những người thân tín: “Nay cả nước phải hợp sức lại dưới cờ của Hai Bà Trưng cùng đánh rắn dập đầu mới mong lấy lại được giang sơn, giành lại được cơ nghiệp của tổ tiên, cứu dân thoát khỏi vùng nước lửa”.

Sau đó Vĩnh Hoa truyền lệnh mổ trâu giã bánh khao quân giao công việc trang trại cho các phụ lão, đem hơn nghìn sĩ tốt về Mê Linh yết kiến Hai Bà.

Hai Bà Trưng thấy Vĩnh Hoa diện mạo khác thường, lại tài kiêm văn võ nên cũng mười phần yêu mến, phong cho làm nội thị tướng quân được theo Hai Bà Trưng ở trung quân dự bàn mọi công việc.

Lệnh khởi nghĩa được truyền đi cả nước. Khắp các châu các huyện, các làng các động gươm giáo dựng lên, cờ bay phấp phới. Các thành trì của giặc Hán lần lượt rơi vào tay nghĩa quân. Tô Định hoảng loạn chạy trốn về nước. Chưa đầy một năm, Hai Bà Trưng đã thu hồi được 65 thành trì cõi Lĩnh Nam, lên ngôi vua và đóng đô ở đất Mê Linh.

Vĩnh Hoa được phong công chúa, được ban cho Trang Tiên Nha làm thực ấp và xây dựng đồn trại bên sông.

Ba năm sau, Mã Viện đem quân sang chiếm lại nước ta. Vĩnh Hoa cùng Hai Bà Trưng chống giặc; nhiều trận đánh lớn diễn ra. Mã Viện hai lần thua to, xin vua nhà Hán cử gấp viện binh sang lời mở trận đánh quyết liệt ở Lãng Bạc. Hai Bà núng thế rút về Mê Linh. Mã Viện đem đại binh đuổi theo.

Quan ta cầm cự không lại, tan vỡ dần. Thế cùng lực tận, Hai Bà tuẫn tiết ở Cẩm Khê.

Thời gian đó, Vĩnh Hoa công chúa rút về trang Tiên Nha cầm cự nhưng biết là không giữ nổi, mới cùng quân thủ tục lên ngựa xông vào trại giặc, chém giết một trận cuối cùng rồi tử tiết theo Hai Bà Trưng ở sông Nguyệt Đức. Hôm đó là ngày 14 - 9 âm lịch.

* Đình Thụ Ích, xã Liên Châu.

Đình thờ Đô Thạch Bát Lang và phu nhân. Đô Thạch Bát Lang là một danh tướng của Triệu Việt Vương, có công đánh quân nhà Lương xâm lược vào thế kỷ VI (546). Theo sách “Xã Chỉ (hiện lưu trữ tại viện Hán Nôm, ký hiệu AJ (1/19) thì trước kia đình có 4 nhà. Cột kèo, câu đầu, cánh cửa đều được đục trạm rất công phu. Ở câu đầu ghi: “Thành Thái bát niên thất nguyệt sơ thập nhật tu tạo” (Được tu tạo năm Thành Thái thứ 8 (1893) tháng 7 ngày l0). Đồ tế khí bên trong có long ngai, một hương án thượng cổ, hai kiện cổ và đôi Hạc thờ cao 8 thước (3,2m) cùng với gươm đao, phủ, việt, võng lọng. . . tất cả đều được chạm trổ rất tinh vi bởi những bàn tay điêu luyện và sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Các di sản văn hoá quý hiếm như vậy nay không còn nữa. Tất cả đều đã bị giặc Pháp huỷ hoại hết, chỉ còn lại cỗ long ngai.

Từ năm 1990, nhân công xã Liên Châu đã tự nguyện góp công sức xây dựng lại đình Nhật Chiêu; năm 1993 thì hoàn thành: hiện nay là một ngôi nhà 5 gian, mái cong, kiểu dáng đẹp. Đình lưu giữ được phần tích thành hoàng làng: “Bản xã thành hoàng huệ diệu” viết bằng chữ Hán, tạm dịch như sau:

“Thần họ Nguyễn, tên Đô Thạch, hiệu Bát Lang Linh Diệu, nguyên người xã Sa Mạc, huyện Yên Lạc (nay thuộc xã Liên Mạc, huyện Mê Linh). Phu nhân người xã Danh Lâm, tổng Hội Phụ, tỉnh Bắc Ninh. Thần người tuấn tú, thân cao 8 thước, lấy hiệu Bát Lang. Năm lên 8 tuổi đã học thông kim bác cổ, tài năng hơn người, theo Triệu Việt Vương làm đại tướng quân. Thời đó nhà Lương ở phương Bắc sai Ty mã Trần Bá Tiên đem quân xâm lược nước Việt. Thần phụng mệnh vua đi dẹp giặc. Giặc Lương thua chạy về nước, đất Việt được thanh bình. Thần cùng phu nhân đi chơi núi Tản Viên rồi hoá ở đó. Ngày sinh của thần là 5 - 8 âm lịch. Ngày hoá của thần là 12 - 11 âm lịch”.

Cũng theo thần tích thì từ đời hậu Lý Nam Đế đến các thời nhà Lê, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều ban sắc phong, tất cả 14 đạo.

* Đền Gia Loan, thôn Vĩnh Mỗ, thị trấn Yên Lạc

Đền thờ Nguyễn Khoan, một tướng của Ngô Vương Quyền (thế kỷ X). Ông còn có tên là Nguyễn Thái Bình, là Quảng Trí Quân (Những tên ông tự xưng thời thập nhị sứ quân). Hiện nay, tại đền Gia Loan còn giữ được cuốn ngọc phả viết năm Lê Vĩnh Hựu thứ VI (1752), được biết lược sử của ông như sau.

Nguyễn Khoan là tướng của Ngô Vương Quyền, có công đánh giặc Nam Hán. Do được phân phong ở vùng Tam Đái nên đã phát triển kinh tế và lực lượng quân sự riêng, với thủ phủ trên gò Biện Sơn (còn có tên là Độc Nhĩ Sơn) và đóng đồn ở gò Đồng Đậu. Ông có hai tướng tài và hai người vợ đều tài giỏi. Ông sống gần gũi, chan hoà với dân, nghĩa tình thắm thiết. Ông luôn khuyến khích và chăm sóc nghề nông, lại chú ý tới việc canh tân tập tục nông thôn. Nhờ vậy mà nhân dân vùng Tam Đái được Thái Bình thịnh trị, ấm no vui vẻ: Bức đại tự “Vĩnh Khang Tiện Dân (mãi mãi yên lành khoẻ mạnh cho mọi người dân) treo ở đền Gia Loan chính là để ca tụng công đức to lớn của ông đối với nhân dân vùng Tam Đái.

Năm 944, Ngô Quyền qua đời. Dương Tam Kha, em vợ Ngô Quyền cướp ngôi của cháu là Ngô Xương Ngập (con cả Ngô Quyền) và xưng vương, con thứ hai của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn, phế truất Dương Tam Kha, lập lên triều hậu Ngô Vương (945 - 965). Ngô Xương Văn và Ngô Xương Ngập cùng giữ quốc chính, tự xưng là Nam Tấn Vương. Ngô Xương Văn mất. Con là Ngô Xương Xí kế vị, nhưng bất lực trước thời cuộc nên tự lui về giữ Bình Kiều (Triệu Sơn, Thanh Hoá), tự coi mình là một sứ quân.

Trong khung cảnh đất nước rối ren như thế, trong nước không có vua trị vì, 12 sứ quân mỗi người cát cứ một vùng, Nguyễn Khoan được nhân dân mến mộ ủng hộ, nghiễm nhiên trở thành một sứ quân mạnh, như câu đối lưu truyền:

Tam Đái tiểu triều đình, cát cứ nam thiên thân vũ trụ.

Ngũ trang lưu thắng tích, đạt bào tây địa trân sơn hà.

(Tạm dịch:

Triều đình nhỏ ở Tam Đái, phân chia cương vực chiếm giữ trời Nam.

Năm trang còn giữ được di tích đẹp cùng trong đất miền Tây vững bền sông núi)

Cuối năm 967, Đinh Bộ Lĩnh dẫn quân lên vùng Tam Đái, Nguyễn Khoan chống không nổi, tử trận. Hai tướng và hai vợ của ông cũng tự vẫn ở Ao Nâu, cạnh gò Đồng Đậu.

Nguyễn Khoan đã có công phò Ngô Quyền đánh giặc Nam Hán, có công xây dựng cơ nghiệp cho cả vùng Tam Đái, nên các triều đại sau này đều sắc phong ông là “Thượng đẳng phúc thần”. Năm trang đều lập đền thờ và tôn làm thành hoàng. Hiện còn đền Gia Loan ở thị trấn Yên Lạc và đình Lác ở xã Tề Lỗ.

* Miếu và đình làng Yên Lạc, xã Đồng Văn

Miếu và đình Yên Lạc đều thờ Đương Đông tả tướng quân. Theo truyền thuyết và Ngọc phả, thời vua Hùng thứ 18 (Hùng Duệ Vương), nước Văn Lang xảy ra cuộc chiến Hùng - Thục. Vua Hùng vời Tản Viên sơn thánh cùng các tướng lĩnh đem quân đi dẹp giặc. Lúc đó Đương Đông tả tướng quân được phong chỉ huy sứ đem 2000 quân đến thẳng vùng Bạch Hạc, ngày đêm tuần phòng chặn đánh quân giặc. Khi đi tuần đến vùng Yên Lạc, Đương Đông thấy thế đất đẹp, đồi gò chênh vênh như long chầu hổ phục, lại có ao hồ tích thuỷ rất thuận tiện, ông liền truyền lệnh cho quân lính lập đồn trại. Đồng thời giúp dân dựng nhà cửa, lập xóm làng sầm uất đông vui. Dẹp yên giặc Thục, Hùng Vương gia phong vùng đất Yên Lạc cho Đương Đông làm thực ấp. Đương Đông cùng hai phu nhân trở về mở mang vùng Yên Lạc. Sau này ghi nhớ công lao của Đương Đông và 2 phu nhân, nhân dân lập miếu thờ ngay trên dinh cơ của ông. Trải qua thời gian, lúc đầu là miếu nhỏ đến thời Lê nhân dân tôn tạo thành đền kiểu chữ nhất (-) 3 gian 2 trái, tường xây, mái ngói mũi, kèo cột bào trơn đóng bén, mộng sàn chặt khít tới nay vẫn còn chắc khoẻ.

Cách miếu khoảng 200m về phía Đông, dân làng xây thêm một ngôi đình, rước bài vị Đương Đông và hai phu nhân về đình thờ làm thành hoàng làng. Hàng năm trong những ngày tiệc lệ, dân làng mở hội, đưa kiệu từ đình ra miếu rước về đình tế lễ 3 ngày.

Đình được xây dựng cách đây 200 năm, kiến trúc kiểu chữ đinh (J) tàu đao lá mái uyển chuyển được gia cố bền chắc. Trong đình còn nhiều mảng điêu khắc chạm trổ tinh vi mang đậm nét nghệ thuật thời Hậu Lê. Đình còn giữ được khá nhiều di vật có giá trị: 2 cỗ kiệu, 3 cỗ long ngai, bài vị, giàn bát bửu, một cuốn ngọc phả do Hàn lâm Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Vĩnh Hưu thứ 6 (1740), 8 đạo sắc phong lễ hội.



* Đền Quan Trạng

Đền thờ Phạm Công Bình, trạng nguyên đầu tiên của tỉnh. Ông đỗ danh sách thứ nhất hàng Đệ nhất giáp khoa thi năm Giáp Thìn, (1124) thời nhà Lý. Ông là một quan văn, đứng vào bậc đại thần của triều Lý Thần Tông. Ông lập nhiều chiến công chống quân Chân Lạp vào cướp phá Nghệ An các năm 1128 và 1136.

Đền Quan Trạng được xây dựng cách đình Yên Lạc khoảng 205m về phía Đông. Đền nằm trên đất “nhị hồ tam chạm” ở trung tâm làng Yên Lạc, cổng đền sát đường liên xã Đồng Văn- Tề Lỗ, hướng Tây nhìn ra cánh đồng trũng thấp gần như ao, hồ, nổi lên 3 gò đất chầu về đền.

Tương truyền đền được xây dựng trên nền đất cũ của gia đình quan Trạng, lúc đầu chỉ là tường đất, mái lá, sau nhân dân đóng góp xây dựng khang trang hơn. Đền làm kiểu chữ đinh (J), cấu trúc đơn giản theo kiểu kẻ truyền quá giang, bào trơn đóng bén. Đền được tu sửa lớn năm 1941 và xây dựng thêm bao loan và cổng đền như ngày nay. Trong đền bài trí đồ thờ uy nghi. Đặc biệt có pho tượng Phạm Công Bình được tạc bằng gỗ sơn son thiếp vàng trong tư thế ngồi oai phong lẫm liệt, thể hiện phong thái của một quan võ cương nghị đúng với sự nghiệp của ông.

Trong đền còn giữ được bức hoành phi: Long đầu trọng vọng (có nghĩa là người đứng đầu nhà Lý được vua trọng vọng), một đôi câu đố:

Sơn tỉnh Vĩnh Tường An Lạc địa

Lý triều trinh khánh trạng nguyên từ

Dịch nghĩa:



Sinh ra ở đất An Lạc phủ Vĩnh Tường tỉnh Sơn Tây đỗ trạng nguyên triều Lý./.
(Nguồn: Yên Lạc- Lịch sử và phát triển- NXB QĐND năm 2010)

tải về 47.98 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương