Một đề xuất mới của gs nguyễn Tài Cẩn về việc dịch câu cuối trong bài thơ



tải về 192.45 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích192.45 Kb.
#13361
Cần dịch lại bài thơ Nam quc sơn hà

Nguyễn Hùng Vĩ

 

Một đề xuất mới của GS Nguyễn Tài Cẩn về việc dịch câu cuối trong bài thơ Nam quc sơn hà…rất cần được tiếp tục triển khai. Nhiều khi, một kiến giải khoa học hữu lí nhưng vì phương tiện truyền thông ít thuận lợi nên không đến được với nhiều người và không được góp phần nâng cao tri thức cộng đồng , để cho những ý kiến chưa chính xác tồn tại lâu dài, cái sai này nối tiếp cái sai khác. Tôi viết bài này trong niềm nhớ thương người thầy vừa đi xa, đồng thời nối gót làm rõ ý của thầy hơn  dù biết kiến thức của mình vẫn hết sức nông cạn. Tôi sẽ trích dài một đoạn viết của thầy mà khi đọc thấy rất tâm đắc trên nhiều mặt.



Trong cuốn nh hưởng Hán văn Lí Trn qua thơ và ngôn ng thơ Nguyn Trung Ngn, in năm 1998, GS Nguyễn Tài Cẩn viết:

(Trích) “Cố nhiên, những sự khó khăn, những sự sai lầm trong việc phân tích lại đang có thể thêm một nguyên nhân rất cơ bản, phải kể đến nữa. Đó là sự hiểu biết có hạn của chúng tôi về ngữ pháp tiếng Hán nói riêng, về toàn bộ các mặt của tiếng Hán nói chung. Trước đây chúng tôi có viết một bài, trong đó có đưa ra một cách phân tích mới về hai chữ hành khan trong câu cuối bài thơ Lí Thường Kiệt. Bài in ra, có bạn cho rằng cách ngắt nhịp không đúng, nhưng chúng tôi vẫn giữ ý kiến, bởi lẽ chuyện các nhà thơ phá nhịp là chuyện có thể có (xin xem lại mấy ví dụ của Nguyễn Trung Ngạn đã nêu trên đây). Rồi có bạn phê bình, nếu hiểu như cách chúng tôi hiểu thì phải đọc hàng chứ không đọc hành: một nhận xét hoàn toàn chính xác. Nhưng lập luận của chúng tôi về ngữ pháp thì không vì thế mà thay đổi. Hơn nữa, cách đọc sai thì trước cũng đã có tiền lệ: mng tin, tượng mng các cụ ta trước cũng đọc nhầm rồi thành thói quen, tiếp tục đọc mng tin, tượng mng cho đến bây giờ! Ngay hành với hàng cũng vậy: ở truyện Kiều cụ Đào Duy Anh ghi là hàng, nhưng ở Hán Việt từ điển cụ lại ghi là hành khi nói đến ngọn núi Thái Hàng ở Trung Quốc. Chỉ đến khi hỏi bạn bè quốc tế thì chúng tôi mới thấy chỗ sai cơ bản của mình về ngữ pháp: chữ hàng chỉ đứng sau bổ ngữ chứ không đứng sau chủ ngữ. Rồi đến lúc đọc Thiên h, đế h của Phan Bội Châu chúng tôi lại gặp hành khan với nghĩa bị động, là “nằm ở tình thế chịu hay được”. Đem bàn với anh bạn Hoàng Trung Thông, một nhà thơ có trình độ về Hán học, thì lại được anh cho biết lúc nhỏ anh cũng nghe giảng như vậy: Lí Thường Kiệt làm bài thơ này vào lúc khó khăn, quân ta có phần nao núng, ông phải mượn lời thần nhân kích động ba quân:

“Cớ sao lúc bọn giặc ngang ngược đến xâm phạm

Các người lại chịu nhận lấy sự thua thiệt?!”

Rõ ràng chỉ một câu thôi mà chúng tôi cứ lúng túng mãi, huống hồ là đứng trước gần 600 trăm câu của Nguyễn Trung Ngạn! Phần thiếu sót chắc chắn là có, không thể nào tránh khỏi” (Trang172 – 173. Hết trích).

Qua phần trích trên đây, hãy tạm gác lại nhận thức của GS và của nhà thơ Hoàng Trung Thông về tác giả bài thơ Nam quc sơn hà là Lí Thường Kiệt, ta có thể nhận thấy chính GS Nguyễn Tài Cẩn là người đầu tiên phát hiện ra và tìm cách lí giải về hai chữ HÀNH KHAN trong câu cuối của bài thơ. Ông đã từng giải quyết vấn đề này qua một bài viết tham dự Hội nghị khoa học vào năm 1979 tổ chức tại Trường đại học Tổng hợp. Trong đó ông cho rằng, cách ngắt nhịp của câu thơ cuối là Nh đng hành / khan th bi hư rồi hiểu câu thơ là “Chúng mày s hin nhiên chuc ly tht bi ngay trước mt” và kết luận về tính chất đanh thép của phát ngôn ở câu kết bài thơ. Tuy nhiên, suốt 19 năm sau đó, ông không thôi băn khoăn về kiến giải của mình, tìm cách gặp gỡ trao đổi, đọc thêm tài liệu, lắng nghe các phản biện của đồng nghiệp, thừa nhận sai sót của mình và đưa ra ý kiến mới mà chúng tôi vừa trích dẫn. Ta thấy quả là một tư cách trung thực, cầu thị đáng quý của một nhà nghiên cứu lão luyện. Không phải ai trong giới khoa học hiện nay cũng đủ đức tính quý báu này.

Ý kiến trên của GS Nguyễn Tài Cẩn (với sự đồng thuận của nhà thơ Hoàng Trung Thông) rất tiếc cho đến nay vẫn chưa được những nhà biên soạn sách giáo khoa phổ thông hay giáo trình đại học tham khảo một cách nghiêm túc.  Trong những lần trao đổi học thuật cùng Giáo sư Bùi Duy Tân, người quyết tâm tìm tòi tác giả bài thơ Nam quc sơn hà, chúng tôi nêu ý kiến về vấn đề mà GS Nguyễn Tài Cẩn đã đặt ra. GS Bùi Duy Tân tâm sự: “Cái đúng, cái mới nhiều khi khó được chấp nhận bởi thói quen hình thành lâu ngày. Vả lại, nó cần được khảo cứu và biện luận một cách thuyết phục hơn nữa. Đó là công việc của các anh”.

Tiếp nối công việc của GS Nguyễn Tài Cẩn, chúng tôi tìm tiếp những ngữ liệu để mong hiểu bài thơ, vẫn được ghi trong Đi Vit s kí toàn thư và được phổ biến rộng rãi này, rõ hơn. Thực ra, hai chữ hành khan đã từng xuất hiện trong thi phú Trung Hoa thời trung đại mà từ điển cung cấp cho chúng ta. Hành khan được sử dụng với 2 nghĩa chính:

-Nghĩa 1: Tương tự như th khan, có thể hiểu sang tiếng Việt là v xem, xem ra. Hàn Dũ (768 – 824), nhà thơ đời Đường trong bài Lâm Châu kỳ vũ viết: Hành khan ngũ mã nhp / tiêu táp dĩ tùy hiên. Có thể dịch là Xem ra năm nga vào / Xơ xác da theo xe. Cao Minh (1305?-1359?), nhà soạn kịch đời Nguyên trong Tỳ bà kí, tiết Tài Tun đăng trình viết: Hành khan th, triu t thn phượng trì ngao cm thính ti luân. Có thể dịch là: Xem ra được: chu đn vua, ao phượng, cung ngao, mà nghe chiếu ch.

-Nghĩa 2: Tương tự như hu khan với nghĩa Việt là li xem. Giả Đảo (779 – 843), nhà thơ đời Đường trong bài Tng kh Hoa pháp sư viết Mc thính hng thanh tn / Hành khan dip nh phi. Có thể dịch là Lng nghe tiếng ngng dt / Li xem bóng lá bay.



Chúng tôi quan tâm đến nghĩa 1 ca hai ch hành khan. Đng sau hành khan s mt trng thái, mt hoàn cnh, mt tính cht mà ch t trong ng đon không lường trước, không ch ý đón đi hoc chưa tng mong mun, ch có ch th phát ngôn, bi tm quan sát toàn cc mà nhn ra được. Hai ch này khá tương đng vi hai ch xem ra được dùng trong tiếng Vit. V cu to, chúng đu được to nên bi hai thc t: ra – hành: ch hành vi, trng thái di chuyn: xem – khan: ch hành vi dùng mt nhn thc thc ti. V s dng trong ng đon, chúng đu nm dưới dng như là mt quán ng, trc tiếp biu l s đoán đnh, đánh giá, nhn thc, thái đ ca người phát ngôn v thc ti được miêu t, tc là, vn mt liên kết 2 thc t đang b chuyn thành nghĩa hư t. Trong tiếng Vit ta gp nhiu hin tượng này. V thành giai cú tp biên ca Trn Tế Xương cho ta ng liu Đường mt xem ra ngt hóa cay. Hoc như trong Truyn Kiu Vân xem trang trng khác vi thì din xuôi ra là : Thúy Vân xem ra trang trng khác bn bè đng la. Còn trong nói năng hàng ngày ta vn nghe:

-Hàng cây kia xem ra sắp bị héo.

-Làng xóm xem ra ngập hết rồi.

-Dạo này xem ra hơi bị căng thẳng tiền nong.

-Tình hình xem ra không được ổn.

Rõ ràng là câu thơ cuối của Nam quc sơn hà đã sử dụng nghĩa 1 trên đây:



Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

Phải được hiểu là:



Chúng bay, xem ra lại chịu chuốc lấy bại hư?!

Vy thì đây hai ch hành khan không nm thế b đng (như GS Nguyn Tài Cn quan nim) mà thế b đng nm ch th, to ra mt liên kết lng hành khan th như ví d trong bài kí ca Cao Minh đã dn trên. Chính c liên kết lng này mi ch đnh thế b đng ca phát ngôn. Hán Vit t đin ca Thiu Chu còn cho ta ng liu v ch th này mc Th tiếu vi nghĩa chuc ly tiếng cười ca thiên h, đ cười cho thiên h. Ch th này thì nét nghĩa s tương đương vi tiếng Vitđược / b / phi / chu.

Đến đây, văn bản bài thơ ở bản ghi  Đi Vit s kí toàn thư (bản xưa nay vẫn được coi là bản thông dụng nhất), phải được phiên và dịch là:



Nam quốc sơn hà nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Dịch nghĩa là:



Sông núi nước Nam, Nam đế quản trị

Hiển nhiên đã định phận tại thiên thư

Cớ làm sao bọn giặc ngỗ ngược  đến xâm phạm

Mà chúng bay, xem ra lại chịu chuốc lấy bại hư?!

(nguyên bản trong Toàn thư ghi câu thứ hai là phn đnh, chúng tôi vẫn để là đnh phn theo bản thông dụng lâu nay)



Rõ ràng là li ca Thn Trương Hng Trương Hát nói vi quân ta. Thn nêu ra chân lí hin nhiên, thn nhn rõ tình thế hin ti, thn khích l, kích đng quân ta chiến đu vì đc lp dân tc. đây hoàn toàn không phi hướng đến quân gic đ phát ngôn. Ta hãy xem Đi Vit s kí toàn thư chép: “ Tc truyn rng Thường Kit đp lũy làm rào dc sông đ cố giữ. Mt đêm các quân sĩ cht nghe trong đn Trương tướng quân có tiếng ngâm to rng: Nam quc...”. Vit đin u linh cũng ghi v hoàn cnh tương t như vy.

Quả nhiên có sự nhất quán giữa hoàn cảnh và phát ngôn. Đền ở bên này sông. Người nghe là quân sĩ của chúng ta. Người phát ngôn là Thần, người tiếp nhận là quân sĩ. Tính chất của lập luận cũng sáng rõ nếu ta so nó với Tì tướng hch văn của Trần Hưng Đạo, hướng về nỗi nhục của thất bại, nỗi nhục của vong quốc để khích lệ tì tướng.

Nói thêm rằng, hai chữ nh đng có thể dịch là chúng người, các ngươi, các người, chúng mày, chúng bay… đều được cả. Trong ngôn ngữ cổ, nó không có ý miệt thị để chỉ quân giặc như tiếng Việt hiện đại, mà đó là cách xưng hô thường tình của bậc trên với hạng dưới. Trích một đoạn sau đây trong bức thư chữ Nôm của Lê Lợi gửi quần thần thì sẽ rõ:

“Kẻ làm công thần cùng Trẫm bấy nhiêu! Chúng bay chịu khó nhọc mà được nước ta. Chúng bay đã chịu khó công, cùng Trẫm đói khát mà lập nên thiên hạ, đến có ngày rày mà được phú quý. Chúng bay cũng phải nhớ công Lê Lai hay hết lòng vì Trẫm mà đổi áo cho Trẫm, chẳng có tiếc mình cùng Trẫm, chịu chết thay Trẫm". (La Sơn Yên H Hoàng Xuân Hãn. Tập 2. Trang 600). Lê Lợi gọi công thần khai quốc là chúng bay được thì ắt hẳn Thần cũng có thể gọi như vậy với tướng sĩ phía quân ta. Chúng tôi vẫn chọn chúng bay để dịch nh đng là vì thế.

Tập hợp sự nhất quán nhiều yếu tố:

-Hoàn cảnh phát ngôn: Chiến trận trong tình thế giằng co quyết liệt.

-Không gian phát ngôn: Trong (hoặc trên như dị bản khác) đền ở phía quân ta.

-Chủ thể và tư cách phát ngôn: Thần Trương Hống Trương Hát hiển linh giúp quân ta.

-Hướng phát ngôn: Cho quân ta.

-Đối tượng tiếp nhận phát ngôn: Quân ta.

Lẽ hằng nhiên, hai câu thơ cuối trong bài được chúng tôi dịch như trên là hữu lí.

Tiện đây, chúng tôi cũng nói về hai chữ THIÊN THƯ trong bài thơ. Hai chữ này vốn gây tranh luận từ dăm năm nay trên các diễn đàn, rất tiếc và cũng lạ là, các ý kiến đều chủ yếu dựa trên suy luận mà rất yếu về sở cứ. Hán ng đi t đin cho ta ngữ liệu về 6 cách dùng và cũng là 6 nghĩa của thiên thư:

-Nghĩa 1: Chiếu thư của Hoàng Đế. Bài V Nguyên Châu Triu Trưởng S thnh v vong ph đ nhân biu của Vương Bột (đời Đường) viết: “Thiên thư lũ giáng, thủ sắc nãi tồn”. Nghĩa là: Thiên thư mấy lần giáng xuống, sắc vẫn còn đây [trước mặt].

-Nghĩa 2: Đạo gia gọi kinh do Nguyên thủy Thiên tôn nói ra hoặc sách gửi gắm những lời các thiên thần ban xuống là thiên thư.



Tùy thưKinh tch chí 4: [Kinh do Nguyên thủy Thiên tôn nói ra] tổng cộng tám chữ, trọn cùng sự uyên áo của đạo thể, gọi đó là thiên thư. Chữ vuông một trượng, tám phương phong tỏa hào quang, rực rỡ huy hoàng, hãi lòng chói mắt, tuy các thần tiên cũng không thể chắm mắt nhìn vào. [Nguyên thủy Thiên tôn sở thuyết chi kinh] phàm bát tự, tận đạo thể chi áo, vị chi thiên thư. Tự phương nhất trượng, bát giác thùy mang, quang huy chiếu diệu, kinh tâm huyễn mục, tuy chư tiên thiên, bất năng tỉnh thị].

-Nghĩa 3: Tng s - Chân Tông k nh: Năm đầu niên hiệu Đại Trung Tường Phù (1008), mùa Xuân, tháng Giêng, ngày Ất sửu, có dải lụa vàng phất trên đao nóc (si vĩ) phía nam mái điện cổng Tả Thừa Thiên. Lính gác cổng là Đồ Vinh báo lên, viên quan có chức trách bẩm báo với Hoàng Thượng. Hoàng Thượng bèn hạ chiếu cho quần thần bái nhận (dải lụa) ở điện Triều Nguyên; khi mở xuống thì gọi đó là thiên thư. [ Đại Trung Tường Phù nguyên niên, Xuân chính nguyệt, Ất sửu, hữu hoàng bạch duệ Tả Thừa Thiên môn nam si vĩ thượng. Thủ môn tốt Đồ Vinh cáo, hữu ti dĩ văn. Thượng chiếu quần thần bái nghênh ư Triều Thiên điện, khải phong, hiệu xưng thiên thư].

-Nghĩa 4: Nguyễn Nguyên đời Thanh viết trong thiên Phong Thái Sơn lun (luận về việc làm lễ ở Thái Sơn) trong sách Tiu Thương Lang bút đàm: Việc cầu trường sinh của Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, việc dùng sấm vĩ của Quang Vũ Đế, việc nhận được thiên thư của Tống Chân Tông, đều là loại tà đạo hủy hoại lễ cổ. [Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế chi cầu trường sinh; Quang Vũ Đế chi dụng sấm vĩ, Tống Chân Tông chi đắc thiên thư, giai dĩ tà đạo hoại cổ lễ].

-Nghĩa 5: Dùng để tỉ dụ thứ văn tự khó đọc hoặc thứ văn tự khó hiểu. Như hồi 86 của Hng lâu mng có đoạn viết: [Bảo Ngọc] xem rồi vừa thấy lạ lung, vừa thấy rầu rầu, bèn nói: Em gần đây càng lúc càng tiến, đọc được cả thiên thư rồi.

Trên đây là các nghĩa của hai chữ thiên thư. Bằng cách loại suy ta lược bớt nghĩa 5 vì vừa muộn vừa không hợp nghĩa với bài thơ. Nghĩa 4 chỉ nhắc lại nghĩa 3 nói chuyện Tống Chân Tông, công nhận chuyện nhà Tống bái nhận “thiên thư”.

Nghĩa 3 hơi có vấn đề. Bức thư lụa vàng trời gửi xuống và được nhà vua bái nhận như là bức thiên mệnh vậy. Tuy nhiên, chuyện xẩy ra vào năm 1008, còn Lê Hoàn thắng Tống lại diễn ra trước đó những 27 năm (981). Hai khả năng, một, chữ thiên thư nếu đã xuất hiện trong bài thơ thời Lê Hoàn thì không sử dụng nghĩa này, hai, bài thơ do người đời sau gắn cho sự kiện Lê Hoàn chống Tống. Chúng tôi nghiêng về khả năng thứ hai này hơn vì trong kho Hán Nôm, không ít tài liệu chép nhân vật từ thời Hùng Vương mà đã làm thơ Đường (?!) rất sõi. Vả lại, chưa có văn bản nào ghi bài thơ được xác định là định bản của nó vốn có từ Lí, Trần, Lê sơ. Tình hình văn bản Hán Nôm trung đại của chúng ta thường vậy, cẩn trọng không thừa. Khi Lí Thường Kiệt chống Tống vào năm 1076 thì nghĩa thiên thư đời Tống này chắc đã rất phổ biến trong không gian văn hóa Đại Việt.



Nghĩa 2 thì thuc v Đo giáo và mang hào quang huyn thoi, nếu có nh hưởng đến nghĩa bài thơ thì đó ch là vang bóng hào sng cha đng trong đó mà thôi. Rt có th nghĩa 1 là nghĩa chính mà tác gi bài thơ đã s dng. Hoàng Đế là v vua thi c trong truyn thuyết có công n đnh đa bàn, phát minh nhiu phương pháp chế to xe thuyn l phc, đo đc tính toán. Các sách c như H t truyn, Sơn hi kinh, Đi Đái l, S Tư Mã Thiên đu nhc đến. Vy chiếu ca Hoàng Đế là căn c dĩ đnh, là chân lí tiên thiên cho mi bin lun, bin gii, trong đó có vn đ ch quyn các quc gia. Chúng tôi có mt nim tin rng, bài thơ Thn được sáng to khi nghĩa 1, nghĩa 2 và nghĩa 3 đã được ch th  khuyết danh làm ra nó thông t như mt vn văn chương, vn văn hóa, và ri sau đó nó vn đng qua nhiu hình thc d bn các thi khác nhau.

Vấn đề cuối cùng cũng cần nói là, vậy tại sao khi dịch sử kí, khi làm giáo khoa, các bậc cựu học vẫn thống nhất dịch như xưa nay vậy? Họ là những người thấm đẫm tinh thần Nho học cơ mà. Chúng tôi không ngại nông nổi mà nói rằng, trước hết, việc dịch tác phẩm này ra quốc ngữ chỉ có nhu cầu vào đầu thế kỉ 20, với những người thạo chữ Hán trước đó, họ hiểu thẳng văn bản. Khi dịch, với yêu cầu cần phổ thông, họ chuyển tự giản dị như vua Nam , sách tri hợp với phương châm dân tộc, đại chúng. Cũng vì dịch trong toàn bộ tinh thần yêu nước, tinh thần kháng chiến chống ngoại xâm nên hai chữ nh đng, khi dịch là chúng mày hay chúng bay dễ lôi kéo tinh thần người ta tư duy chĩa thẳng về phía địch và hiểu đó là lời tuyên bố với quân thù. Vả lại, các thế hệ đi trước, dù uyên bác và đầy nhiệt huyết nhưng đều làm việc trong điều kiện thiếu thốn về dữ liệu. Nếu điều kiện cũng đã như hiện nay thì chúng ta khó lòng mà sánh kịp họ. Cũng còn thêm  một điều nữa, ngoài GS Nguyễn Tài Cẩn, cho đến nay, chúng tôi thấy chưa ai băn khoăn giải quyết rốt ráo hai chữ HÀNH KHAN, hay nói cách khác, thậm chí chưa có một chú thích khả dĩ về nghĩa hay dng của 2 chữ này, họ bằng lòng với sự suôn sẻ của bản dịch cũ. Các thế hệ sau, cứ một mực theo thế mà giảng giải. Cũng có người góp ý với chúng tôi rằng, bài thơ đã là một “tuyên ngôn đc lp” thì sẽ có thể vừa công bố cho ta, vừa công bố cho giặc chứ! Chúng tôi mạnh dạn thưa lại rằng, người đầu tiên gọi bài thơ là tuyên ngôn đc lp chính là Kít xing gơ, cố vấn Tổng thống Ních xơn của Mĩ khi sang Hà Nội vào năm 1972. Trước đó, chúng tôi chưa hề gặp một tài liệu của nhà nghiên cứu nào có ý kiến như vậy. Vậy, đây là một nhận định mang tính uyển ngữ, dựa trên tinh thần tác phẩm chứ không dựa trên qui cách văn bản của tác phẩm (có nghĩa là, ý kiến có phong cách phê bình chứ không phải phong cách nghiên cứu). Ai có tư liệu sớm hơn về chuyện này, góp ý giúp chúng tôi để chúng tôi sửa chữa.

Tác phẩm Nam quc sơn hà… có một vị trí rất quan trong trong tâm thức người Việt, trong lịch sử văn học Việt Nam. Rất nhiều vấn đề xung quanh nó đang được dần dần làm sáng tỏ, ở mỗi bản ghi, có những dị bản bài thơ tương ứng với cách kể khác nhau (chính dị bản trong Lĩnh Nam chích quái và ở những tài liệu khác hé mở cho ta điều này), về thời điểm và tác giả của nó cũng đang được tìm tòi. Có những cái dù chúng tôi cũng rất để ý nhưng tư liệu chưa cho phép khẳng quyết.Trong vấn đề đang bàn ở trên, ý kiến và ngữ chứng chúng tôi đưa ra hãy còn mỏng, rất mong nhận được những góp ý, phản biện, cung cấp tư liệu thêm của những ai quan tâm để hằng ý nghĩa tác phẩm ngày càng  sáng rõ hơn, đặc biệt là cho sách giáo khoa đang cần thiết phải tu bổ.

Hà Nội 15 – 3 – 2011.

Tài liệu tham khảo.

-Nguyễn Tài Cẩn : nh hưởng Hán văn Lí Trn qua thơ và ngôn ng thơ Nguyn Trung Ngn. Nhà xuất bản Giáo dục. Hà Nội 1998.

-Lao Tử - Thịnh Lê (Chủ biên) : T đin Nho Pht Đo. Nhà xuất bản Văn học. Hà Nội 2001.

-La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn. Tập 2. Trước tác. Nhà xuất bản Giáo dục. Hà Nội 1998.

-UBKH XHVN – Viện Nghiên cứu Hán Nôm. T đin ch Nôm. Nhà xuất bản Giáo dục. Hà Nội 2006.

-Đào Duy Anh : T đin Hán Vit. Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội 2000.

-Thiều Chửu : Hán – Vit t đin. Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh. 1998.

-Đi Vit s toàn thư. Nhà xuất bản Giáo dục. Hà Nội 2009.

- Lí Tế Xuyên: Vit đin u linh tp.Bản dịch của Lê Hữu Mục trên mạng.

-Vũ Quỳnh – Kiều Phú: Lĩnh Nam chích quái (Đinh Gia Khánh, Nguyễn Ngọc San phiên dịch, chú thích và giới thiệu). Nhà xuất bản Văn hóa- Viện Văn học. Hà Nội 1960.

-T đin Văn hc (B mi). Nhà xuất bản Thế giới. 2004.

-Hán ng đi t đin.



http://khoavanhoc-ussh.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=891:nguyn-hung-v&catid=84:han-nom&Itemid=248

tải về 192.45 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương