Minh triết việt việt Nhân Nhận được thư chuyển có tựa đề: Mối Quan hệ giữa Minh Triết với Quyền lực và Chính trị


II.- Nội dung Văn hóa Việt: Việt Nho



tải về 2.69 Mb.
trang7/25
Chuyển đổi dữ liệu07.06.2018
Kích2.69 Mb.
#39611
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   25

II.- Nội dung Văn hóa Việt: Việt Nho


Nội dụng Việt Nho nằm trong Kinh Điển và Ca dao Tục ngữ tuy rất phức tạp, nhưng theo Triết gia Kim Định thì gồm những điểm chính sau:
1.- Vũ trụ quan Động, Nguồn biến dịch theo Dịch lý ( số 2 ) của các cặp đối cực thành nét Lưỡng nhất ( Dual unit : 2 →1 ) được tổng quát bằng “ Âm Dương hoà “ hay “Thuận Vợ thuận Chồng “. Nét Lưỡng nhất là động lực giúp Tiến bộ trong trạng thái ổn định ( trạng thái quân bình động ).
2.- Một Nhân sinh quan Nhân chủ ( số 3: Tam tài ): Sống giữa Trời Đất, con Người duy trì được vị thế Tự Chủ, nên phải tự Lực, tự Cường. Đó là con người Nhân chủ.
3.- Nguồn Tâm linh ( số 5 ) là : * Nguồn Sống ( Nhân ái hay Bác ái hay Từ bi ): Tình

* Nguồn Sáng ( Lý công chính hay Lẽ Công bằng hay Trí tuệ ): Lý.



4.- Một Lộ đồ Tu, Tề, Trị , Bình để tất cả Cơ chế thì các cặp đối cực riêng phải được vận hành “ đồng bộ “ với nhau để tiến lên mà Dựng và Cứu nước.
5.- Một Đạt quan An nhiên tự tại nhờ sống theo Quả dục ( Chiết trung giữa Diệt dục / Đa dục ) và hành xử theo An hành ( Chiết trung giữa Cưỡng hành / Lợi hành ) .

Nét Lưỡng nhất là nét Nhất quán xuyên suốt nền Văn hoá Việt có bản chất Thái Hòa.

Nét Lưỡng nhất là “ Âm Dương hoà “, là viên Ngọc Long Toại, là “ Tiên Rồng gặp nhau trên cánh đồng Tương “, là “ Thun Vợ thuận Chồng “, giúp “ Thiên sinh, Địa dưỡng, Nhân hòa “ .
Sống thuận với Thiên sinh tức là sống thuận theo Luật Biến dịch trong vũ trụ. Có ba luật lớn: Luật Biến dịch, luật Giá sắc và luật Loại tụ.

Sống thuận với Địa dưỡng là suy tư theo Khoa học để khai thác tài nguyên thiên nhiên mà sống, nhưng không lạm dụng thứ nào làm ô nhiễm môi sinh, làm lỗi «  Tiết nhịp Hòa của Vũ trụ «.

Còn Nhân hòa thì phải làm sao khai thác và sữ dụng nguồn Địa dưỡng thuận với luật Thiên sinh cũng như hành xử sao cho Tâm linh và Khoa học được Lưỡng nhất thì mới có đủ Nội lực để mà Xây dựng nước và cứu nước. Nói gọn muốn sống được công bằng với nhau thì đòi hỏi mọi người phải tu tỉnh cho có Lòng Nhân để thực hiện lẽ Công bằng tức là đức Nghĩa vào đời sống xã hội.

Đó là lối sống theo Minh triết. Minh triết là cách làm sáng tỏ Thiên lý để sống theo mà tồn tại và phát triển, chứ không ai có Minh triết.

E.- MINH TRIẾT TRONG NẾP SỐNG QUẢ DỤC


Chúng ta biết trên Thế giới đại loại có ba nếp sống: Diệt dục, Đa dục và Quả Dục.
Diệt dục là nếp sống Xuất thế, sống khắc khổ để chăm lo cho cuộc Sống đời sau, nên chưa lo sống đã lo chết, quên mất thực tại cần thiết của đời sống Nơi Đây và Bây Giờ. Đây là sự Lạm dụng thiếu, nên nhiều khi đưa tới nạn bị Cưỡng hành.
Đa dục là nếp sống Nhập thế , con Người lăn lưng vào cuộc đời, chăm lo làm cho được nhiều của cải vật chất, có thể đưa tới cuộc sống lạm dụng nhiều thứ, làm cho đảo lộn trật tự Gia đình và Xã hội, và làm ô nhiễm môi trường. Đó là nếp sống Lợi hành.
Quả dục là nếp sống Chiết trung giữa Diệt dục và Đa dục. Con Người Không hoàn toàn theo Diệt dục để giúp làm phát triển toàn diện con người mà lo cho cuộc Sống Nơi đây và Bây giờ được êm xuôi thoải mái. Con Người cũng Không theo lối sống Đa dục để lạm dụng mọi thứ làm tha hóa con người, rối loạn Xã hội và làm ô nhiễm môi trường. Do đó mà con người phải Xử thế theo lối vừa Xuất vừa Nhập, Xuất một phần theo Diệt dục và Nhập một phần theo Đa dục để cho đời sống được điều hòa Tiết độ. Muốn thế phải An hành nghĩa là trong cuộc sống hàng ngày, thấy sự việc hợp với Nhân Nghĩa thì cố làm cho được, còn những điều trái với Nhân Nghĩa thì nhất định không.Chỉ có con Người sống thực sự theo Nhân Nghĩa mới có Dũng lực để An hành được.

Đây Không là cuộc sống ba phải mà đòi hỏi phải có tinh thần Triết học rõ ràng thấu đáo và Nghệ thuật tế vi uyển chuyển như nét cong Duyên dáng của Việt tộc ( xem sau ) mới đạt được.

Đây là nếp sống theo Dịch lý, thuận theoThiên lý để Sống hòa nhịp với Tiết nhịp hòa của Vũ trụ.

G.- MINH TRIÊT VỀ CHẾ ĐỘ




Về Chế độ Chính trị thì chọn Chế độ Nhân trị,

( vì” Nhân giả An nhân, Trí giả Lợi nhân, Úy giả Cưỡng nhân “. Lão ).
Nhân trị gồm Lễ trị và Pháp trị.
Lễ trị: Lễ là “ cung Kỷ kính Tha “ : trọng Mình trọng Người. Không biết trọng Mình thì không thể trọng người khác. Lễ là hàng rảo cản tự nội, giúp con người tự ý không làm chuyện bất Nhân và bất Công. Lễ trị thuộc về lãnh vực Văn hoá và Tôn giáo cùng Giáo dục.
Pháp trị là dùng luật pháp công minh mà trị dân. Vì con người luôn bất toàn, nhiều khi không tự chế được mà làm chuyện phạm pháp, nên pháp luật giúp con ngưòi bất toàn sống theo lẽ công bằng của Hiến pháp. Thiết tưởng chỉ có Pháp trị thì không thể giúp cho xã hội được luôn an vui, vì pháp luật nào cũng có kẻ hở.

Phần này thuộc trách nhiệm Xã hội.
Nền tảng của chế độ Nhân trị: “ Dân duy bang bản, bản cố bang ninh: Dân là Gốc của nước, Gốc có được củng cố nghĩả là mỗi người dân phải được có Ăn có Học để có Tư cách và Khả năng thì Gốc nước mới được vững mạnh, Nước có được vững mạnh thì Dân mới an vui hạnh phúc.

Hạnh phúc cũng đòi hỏi phả Thân an Tâm lạc: Một tinh thần minh mẫn trong một thể xác khỏe mạnh.

Nếu một chế độ chính trị mà tham tàn bạo ngược thì người dân phải trừ khử như giết một những tên phàm phu tục tử ( Trụ bạo quốc chi quân, nhược tru độc phu ).
Chế độ Độc tài và CS rõ là chế đô « Úy giả cưỡng nhân «

tải về 2.69 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   25




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương