Mi Tiên Vấn Ðáp (Milinda Panha) Dịch giả: Hòa thượng Giới Nghiêm (Maha Thera Thita Silo) Tỳ kheo Giới Ðức hiệu đính, ấn bản 2003



tải về 2.69 Mb.
trang17/34
Chuyển đổi dữ liệu19.08.2016
Kích2.69 Mb.
#23640
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   ...   34

118. Ai là thầy của Đức Thế Tôn?

Đức vua Mi-lan-đà lại hỏi:

- Thưa đại đức! Trẫm nhớ không lầm là sau khi thành đạo, trên đường về vườn Lộc giả, Đức Phật có tuyên bố với một đạo sĩ thuộc phái Ni-kiền-tử rằng: "Như Lai không có ai là thầy tổ. Khắp trên thế gian này, Như Lai không thấy ai, dầu trong hàng chư thiên, ma vương hay phạm thiên, hay giữa loài người như sa môn, bà-la-môn... lại có thể sánh với Như Lai, hoặc là có ai đó có thể ngang bằng với Như Lai...!"

Rồi sau này, lúc thuyết pháp đến Chư Tăng ở đâu đó, Đức Thế Tôn lại nói rằng: "Này các thầy tỳ khưu, đạo sĩ Àlàrà thuộc dòng Kàlàma là người có học vấn, thông minh, là bậc thiện trí thức, là thầy của Như Lai"!

Thưa đại đức! Tại sao Đức Tôn Sư lại thuyết hai lưỡi? Nếu không thuyết hai lưỡi thì là thuyết hai lời đối chọi nhau? Nếu câu này đúng thì câu kia sai, và nếu thế thì làm sao biết được lời nào là đúng sự thật?

Đại đức Na-tiên đáp:

- Chỉ một hiểu lầm nhỏ thôi mà sinh ra vậy. Nghĩa là sau khi thành Phật rồi, Đức Thế Tôn không có ai là thầy; nhưng khi còn là Bồ Tát, chưa thành Phật, Ngài vẫn có nhiều vị thầy chứ, tâu đại vương!

- À ra thế! Chỉ đơn giản vậy thôi! Trẫm hiểu rồi.

- Cuộc đời Đức Tôn Sư từ nhỏ đến khi thành đạo, Ngài có năm vị thầy tất cả, tâu đại vương!

- Xin đại đức hãy kể cho trẫm nghe.

- Vâng, khi Ngài vừa đản sanh, tám vị thầy bà-la-môn đến làm lễ phúc chúc rồi đoán tướng cho Ngài, đó là những vị thầy đầu tiên. Đến khi tuổi vừa đi học, người bà-la-môn thông thái tên là Sabbanimitta dạy cho Ngài ba bộ kinh Phệ-đà cùng những môn học khác, đó là vị thầy thứ hai. Khi Bồ tát dạo chơi bốn cửa thành, chư thiên hiện hình làm người già, bệnh, chết và vị sa môn trong phẩm mạo xuất gia cao thượng, đó là những vị thầy thứ ba. Đạo sĩ Alàrà thuộc dòng Kàlàma hướng dẫn Bồ tát đắc thiền vô sở hữu là vị thầy thứ tư. Và cuối cùng, đạo sĩ Uddaka con dòng Ràma hướng dẫn Bồ tát thiền chứng phi phi tưởng là vị thầy thứ năm!

Tâu đại vương! Năm vị thầy ấy thuộc về thế gian. Dầu hai đạo sĩ sau cùng dạy Bồ tát chứng đắc thiền định cõi vô sắc giới thì cũng còn nằm trong tam giới. Còn pháp siêu thế, xuất thế gian là tự Đức Thế Tôn chứng nghiệm, tìm ra, quả thật không có ai là thầy Ngài cả. Đại vương đã tỏ tường chưa?

- Vâng! Trẫm đã tỏ tường!

* * *


119. Thế nào gọi là Sa-môn?

- Thưa đại đức! Có phải Đức Tôn Sư có thuyết rằng: "Bậc Thánh nhơn là người đã diệt tận phiền não, người diệt tận phiền não được gọi là sa-môn"?

- Thưa, đúng vậy!

- Ở nơi khác, Đức Thế Tôn lại thuyết rằng: "Này các thầy tỳ khưu! Người nào có đầy đủ bốn pháp:



- có sự nhẫn nhục,
- biết tri túc về vật thực,
- dứt bỏ sự đam mê,
- không vướng bận,

thì Như Lai gọi là sa-môn!"

Thưa đại đức! Ở trên thì diệt tận phiền não gọi là sa-môn; còn ở dưới, chỉ đầy đủ bốn pháp nêu trên cũng được gọi là sa-môn? Đầy đủ bốn pháp ấy thì một phàm tăng có tâm tu học, chưa chứng Thánh quả cũng có thể thành tựu được! Vậy thì biết tin định nghĩa nào là đúng, thưa đại đức?

- Định nghĩa nào cũng đúng cả, tâu đại vương!

- Thưa, không thể như vậy được. Một bên là diệt tận phiền não, một bên thì còn phiền não - sao đều cùng chung một tên gọi cao quý là sa-môn? Trẫm không đồng ý như thế!

Đại đức Na-tiên mỉm cười:

- Tâu đại vương! Trong các loài hoa có mặt trong quốc độ của đại vương, theo ý đại vương thì loài hoa nào quý báu hơn cả?

- Thưa, có lẽ bạch liên hoa là quý phái, sang trọng, tinh khiết và quý báu nhất!

- Quý báu, sang trọng nhất - cũng chỉ được gọi tên là hoa như các loài hoa tầm thường khác thôi sao, đại vương?

- Đấy là tên gọi gom chung lại, có tính tổng quát, thưa đại đức!

- Cũng như thế, sa-môn chỉ là tên gọi gom chung lại, có tính tổng quát như tên gọi hoa vậy, tâu đại vương! Cứu cánh của sa-môn hạnh là diệt tận phiền não, nên những ai diệt tận phiền não thì được gọi là sa-môn. Nhưng những vị tỳ khưu đang đi trên con đường ấy, kẻ thành tựu được bốn pháp, kẻ đang và sẽ thành tựu bốn pháp - đều được gọi là sa-môn cả thảy.

Nếu như trong loài hoa, bạch liên hoa là cao quý nhất, thì cũng thế, trong hàng sa-môn, các sa-môn diệt tận phiền não rồi - là cao quý nhất!

- Trẫm đã hiểu.

- Ví như trong quốc độ của đại vương có rất nhiều loại gạo, nhưng gạo Sàli ngon nhất, thơm nhất, quý báu nhất. Cũng vậy, bậc hữu học sa-môn đang tu tập bốn pháp để diệt phiền não không cao quý bằng bậc vô lậu sa-môn đã diệt tận phiền não - nhưng họ đều có tên chung là sa-môn cả, tâu đại vương!

- Cảm ơn đại đức.

* * *


120. Có nên hoan hỷ không khi người ta tán dương Tam Bảo?

Đức vua Mi-lan-đà hỏi tiếp:

- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn có thuyết ở trong nhiều kinh, nhất là kinh Brahmajàla (Phạm võng), lúc Ngài ngự giữa thành Vương Xá và xứ Na-lan-đà, cố ý dạy cho Chư tỳ khưu Tăng, rằng: "Này các thầy, nếu có ai đó tán dương, khen ngợi Như Lai hoặc khen ngợi và tán dương Pháp và Tăng, các thầy đừng có hoan hỷ, thỏa thích, đừng để tâm rung động, xao động, bởi những lời khen ngợi ấy. Vì sao vậy? Bởi vì nếu các thầy hoan hỷ, thỏa thích, đắm trước vào những sự tán dương, khen ngợi, tâng bốc của người đời - thì tâm các thầy sẽ lao xao, rối loạn; và như thế các thầy khó an trú tâm, khó đắc định, khó chứng ngộ những pháp cao siêu là các đạo và các quả." Điều ấy có đúng không, đại đức?

- Tâu, đúng là lời của Đức Tôn Sư!

- Thưa, nếu đúng là lời của Đức Tôn Sư, thì lại càng khó hiểu khi Đức Thế Tôn lại tự tán dương, khen ngợi mình, có vẻ khoe khoang quá đáng trước mặt người ngoại đạo là bà-la-môn Sela rằng: "Giữa chốn chư thiên, ma vương, phạm thiên và loài người, Như Lai là bậc Tối Thượng Tôn, là bậc pháp vương cao quý. Không có ai có công đức bằng Như Lai. Như Lai đã chuyển Pháp luân toàn hảo ở chặng đầu, toàn hỏa ở chặng giữa và toàn hảo ở chặng cuối để cứu độ tất thảy chúng sanh, trời và người. Không ai có thể so sánh tương tợ với Như Lai, huống nữa là ngang bằng với Như Lai!"

Thưa đại đức! Một đằng thì Đức Thế Tôn cấm Chư tỳ khưu Tăng không được hoan hỷ, thỏa thích bởi những lời tán dương, khen ngợi. Đằng khác, Đức Thế Tôn lại tự khen ngợi, tự tán dương mình! Trẫm nghi lắm. Trẫm nghi rằng có cái gì đó rất mâu thuẫn, không được thích đáng cho lắm ở ngôn và hành của Đức Đạo Sư!

Đại đức Na-tiên mỉm cười:

- Lý do tại sao Đức Thế Tôn giáo giới không cho Chư tỳ khưu Tăng hoan hỷ, thỏa thích trước những lời khen ngợi, tán dương - đại vương có biết chăng?

- Thưa, vì ngại tâm Chư tỳ khưu bị xao động, khó an trú tâm, khó đắc định và khó đắc đạo quả!

- Đúng vậy! Còn đối với những người đã khéo an trú tâm, đã đắc định, đã chứng đắc Thánh quả - thì Đức Thế Tôn có cần thiết giáo giới như thế không?

- Dĩ nhiên là không cần thiết, thưa đại đức! Ví như kiêng cử không nên ăn món này, không nên ăn món kia và uống thuốc để chữa bệnh, nhưng bệnh lành rồi thì uống thuốc và kiêng cử làm gì nữa, đại đức?

- Vâng, Đức Thế Tôn cũng thế. Ngài đã an trú tâm, đã đắc định và đã đắc quả vị Chánh Đẳng Giác - thì lời khen, tiếng chê có ảnh hưởng gì đến tâm Ngài đâu, đại vương!

- À, đúng thế!

- Lại nữa, Đức Thế Tôn thuyết không phải mong được kẻ khác tôn trọng, không phải thuyết để tìm kiếm lợi lộc, danh vọng; không phải thuyết để tìm kiếm kẻ tùy tùng, đệ tử. Ngài thuyết chỉ vì lợi ích cho chúng sanh.

Đại vương! Đại vương có biết rằng, sau thời pháp mà đại vương bảo là Đức Thế Tôn tự khen ngợi và tự tán dương mình ấy, bà-la-môn Sela đã tăng trưởng đức tin, pháp nhãn phát sanh và chứng ngộ Sự Thật. Và ba trăm người nữa có mặt hôm ấy cũng chứng đắc đạo quả cao siêu! Đại vương nghĩ thế nào, thời pháp ấy là thù thắng hay không thù thắng?

- Thưa, rất vi diệu.

Đại đức Na-tiên nhấn mạnh:

- Đức Thế Tôn có "khoe khoang quá đáng" như lời đại vương khiển trách - thì mục đích cũng nhắm vào căn cơ của người đối thoại, nhắm vào lợi ích của chúng sanh thôi, tâu đại vương!

- Trẫm không dám nói thế nữa đâu!

* * *


121. Sao Đức Thế Tôn lại dùng lời ác khẩu, ác ngữ?

Đức vua Mi-lan-đà hỏi:

- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn thường thuyết rằng: "Này các thầy tỳ khưu! Các thầy phải có tâm bi mẫn đối với chúng sanh, nên nói lời từ hòa, mát mẻ, phải thương xót chúng sanh mới xứng giữ phẩm hạnh cao thượng trong giáo pháp của Như Lai."

Một chỗ khác, Đức Thế Tôn lại thuyết: "Này các thầy tỳ khưu! Trong thế gian này cái gì đáng bị ngược đãi thì Như Lai ngược đãi, cái gì đáng được cất nhắc thì Như Lai cất nhắc! Cái gì đáng bị cắt tay, cắt chân thì Như Lai cắt tay, cắt chân! Cái gì đáng bị trói buộc thì Như Lai cho trói buộc! Cái gì đáng giết thì Như Lai bảo giết!"

Sao Đức Tôn Sư lại có thứ ngôn ngữ lạ lùng như thế? Ngôn ngữ ấy có xứng với phẩm hạnh của bậc Thánh? Đấy chính là ác khẩu, ác ngữ mà một hiền nhân trong thế gian này cũng không bao giờ sử dụng, huống nữa là Đức Đại Giác! Xin đại đức hoan hỷ phá nghi điều ấy cho trẫm!

- Tâu đại vương! Khi Đức Tôn Sư dạy rằng các thầy tỳ khưu phải có lòng từ, phải có lòng bi mẫn thương xót chúng sanh, ấy là lúc Ngài dùng thường ngữ, ai cũng có thể hiểu được. Nhưng khi Đức Tôn Sư dạy rằng, cái gì đáng bị ngược đãi thì Như Lai ngược đãi, cái gì đáng được cất nhắc thì Như Lai cất nhắc v.v..., ấy là lúc Ngài dùng Pháp ngữ. Pháp ngữ nghĩa là ngôn ngữ của Pháp! Xin đại vương hiểu cho như thế để khỏi hiểu lầm Pháp nghĩa mà Đức Tôn Sư muốn gởi gắm!

- Pháp ngữ, Pháp nghĩa ấy là thế nào, hở đại đức?

- Xin thưa! Ví dụ như chúng sanh hoặc chư vị tỳ khưu nào có tâm phóng dật, buông lung... thì hãy nên đè nén, ngược đãi, chế ngự, áp chế tâm ấy. Đó là Pháp ngữ, Pháp nghĩa của câu "Cái gì đáng bị ngược đãi thì nên ngược đãi (áp bức, đè nén...)".

Ví dụ, chư tỳ khưu hoặc chúng sanh nào có trạng thái tâm yên tĩnh, không bị lao xao, được vắng lặng thì nên cất nhắc, làm cho tốt hơn, viên mãn hơn, thanh tịnh hơn. Ấy là Pháp nghĩa, Pháp ngữ của câu "Cái gì đáng được cất nhắc thì cho cất nhắc".

Tương tự như thế, các trạng thái tâm bất thiện thì nên đè nén, áp chế...; các tâm thiện thì được cất nhắc. Khi khởi tâm đến đối tượng một cách sai lạc, không chân thực, không đúng với chân lý, sự thật thì nên ngược đãi, đè nén nó. Khi khởi tâm đến đối tượng một cách trong sáng, chân thật, đúng với chân lý, sự thật thì tâm ấy nên được cất nhắc, khen ngợi, làm cho phát triển.

Người nào thực hành giáo pháp sai thì nên đè nén, chế ngự... Người nào thực hành giáo pháp đúng thì nên cất nhắc, khen ngợi, tán dương, làm cho sung mãn v.v...

Tương tự như thế, kẻ ăn trộm thì cho đè nén, người không ăn trộm thì được cất nhắc!

Tất cả những điều ấy đều phải hiểu theo Pháp ngữ, pháp nghĩa cả, tâu đại vương!

Đức vua Mi-lan-đà nhăn mày:

- Thưa, đoạn trên thì trẫm hiểu, nhưng đoạn dưới, nơi chỗ "ăn trộm" thì trẫm không hiểu tới; "đè nén kẻ ăn trộm" phải được hiểu như thế nào, đại đức?

- Tâu, ở đây, phải hiểu thêm lý nhân quả, tùy tội trạng của tên ăn trộm ấy nữa. Ví như có những tên phạm pháp ăn trộm, tùy theo mức nặng hay nhẹ mà đại vương xử phạt. Có tội nhẹ thì khiển trách, tội đáng trói để răn đe thì nên trói để răn đe, tội đáng lưu đày thì lưu đày, tội đáng giết thì nên giết... Không ăn trộm thì không giết. Luật pháp thế gian là vậy, còn luật pháp của bậc thánh, khi nói như thế thì phải được hiểu theo Pháp ngữ, mong đại vương tỏ tường!

- Thưa, "đáng giết thì nên giết, giết phứt" đúng là câu nói của Đức Tôn Sư hay câu nói của đại đức?

- Tâu, Đức Thế Tôn không nói, mà bần tăng cũng không nói thế đâu!

- Vậy chữ "giết" kia do đâu mà có?

- Do nhân quả mà có. Ví dụ người ấy gây nhân quá nặng, đáng bị trọng hình, đáng bị giết - thì chính người ấy phải bị quả báo dữ! Chính quả báo dữ giết người ấy, tâu đại vương!

- Thưa, tạm thời trẫm hiểu, nhưng "không ăn trộm thì không giết" là nghĩa thế nào?

- Đại vương có khi nào sai lính đi lùng bắt những người dân lương thiện, những người vô tội... rồi đem về tra khảo, hành hình không?

Đức vua Mi-lan-đà lắc đầu:

- Có ông vua nào lại làm điều phi lý như thế!

- Cũng thế, những chúng sanh không làm điều sai quấy, không làm điều ác, điều dữ... thì quả báo nào lại đi lùng bắt kẻ ấy, phải thế không đại vương?

- Vâng.


- Tất cả những từ như đè nén, ngược đãi, cất nhắc, giết, ăn trộm... chúng ta phải hiểu theo Pháp ngữ, tâu đại vương!

- Trẫm hiểu rồi, cảm ơn đại đức!

* * *

122. Đức Thế Tôn còn bất bình, sân hận!

- Đức Thế Tôn chắc hẳn không còn sân hận, bất bình, phải không đại đức?

- Tâu, vâng!

- Thế sao có lần khi Đức Xá-lợi-phất và Đức Mục-kiền-liên dẫn năm trăm đệ tử đến hầu thăm Đức Thế Tôn; vì nhóm đệ tử ấy vừa mới xuất gia, thân khẩu ý chưa được kiểm soát, còn rất thô tháo nên đã tạo nên sự ồn ào, huyên náo... Đang độc cư thiền định, nghe thế, Đức Thế Tôn đã không chịu nổi, bảo Ngài Ànanda đuổi họ đi! Hành động ấy không phải do bất bình, sân hận là gì? Đuổi mà đuổi cả hai vị đại đệ tử, hai bậc thượng thủ của giáo hội thì đâu phải là chuyện bình thường? Đâu phải chuyện nói mà chơi? Đâu phải đuổi thế mà bảo là không bất bình, nổi sân một chút nào? Hay là Đức Thế Tôn đã đuổi bằng tâm từ ái, hoan hỷ? Có lẽ vậy mới phải lý, phải lẽ, phải nhân, phải quả chăng?

- Tâu đại vương! Có khi nào đại vương thấy quả đất có tâm bất bình, sân hận? Hoặc giả quả đất có tâm thương yêu hay thù oán chăng?

- Dĩ nhiên là không thể có.

- Vậy, ví như có người đi trên đất, bị té trên đất, gặp đá bị sưng đầu, vỡ trán - thì do người ấy bất cẩn hay do đất tạo tội hở đại vương?

- Chỉ tại người ấy chứ quả đất nào có tội gì!

- Tâm Đức Thế Tôn cũng an nhiên, bình lặng, không hoan hỷ, không thù oán, không bất bình, không hận, không thương, không ghét - ví như quả đất vậy. Người kia bất cẩn bị té sưng đầu, vỡ trán như thế nào thì năm trăm tỳ khưu có tội bị Đức Phật đuổi đi cũng như thế ấy, tâu đại vương!

- Ví dụ ấy không tương hợp rồi, thưa đại đức! Quả đất không khởi tâm, Đức Phật có khởi tâm, làm sao có thể giống nhau được?

- Tâu đại vương! Ngài phải hiểu rằng Đức Thế Tôn thường trú tâm xả. Tâm xả ấy thường bình lặng và an nhiên như quả đất vậy. Còn khi mà Đức Thế Tôn có khởi tâm - là khởi tâm muốn tế độ chúng sanh. Ngài đuổi họ là vì lợi ích cho họ chứ đâu phải do sân hận hoặc bất bình?

Ví như biển lớn không bao giờ dung chứa tử thi dù hàng trăm hằng ngàn tử thi bồng bềnh trôi nổi giữa đại dương, sóng cũng tìm cách đánh dạt những tử thi ấy vào bờ cho bằng được! Biển không hề có tâm hận, tâm hỷ, thương hoặc ghét như thế nào - thì Đức Thế Tôn khi đuổi năm trăm tỳ khưu vì hạnh động sái quấy của họ - cũng y như thế ấy.

- Vâng, nhưng nghe nói rằng, sau đó, Phạm thiên Sahampati và những người Thích tử đã đến qùy lạy xin Đức Thế Tôn đừng đuổi họ nữa.

- Quả vậy, nhờ thế, sau đó họ biết chăm chú nghe Pháp, tinh tấn thiền quán và năm trăm tỳ khưu kia đã đắc Thánh quả cả.

- Ồ! Hy hữu vậy thay. Còn trường hợp hai vị thượng thủ thì sao?

- Hai ngài Đại Đệ tử từ rày phải ý thức thêm trách nhiệm của mình: là phải tìm cách giáo giới nghiêm túc những kẻ sơ tu hơn nữa!

- Vâng, vậy thì trẫm không còn ngờ oan về tâm sân của Đức Thế Tôn nữa. Nhưng như vậy không có nghĩa là không còn mối nghi khác trong câu chuyện này.

Đại đức Na-tiên nói:

- Thôi được rồi, hẹn đại vương hôm khác.

* * *


123. Phải chăng Đức Thế Tôn không có tâm bi mẫn?

Đức vua Mi-lan-đà lại hỏi tiếp:

- Đồng ý là Đức Thế Tôn không có tâm sân hận, bất bình rồi; nhưng người ta có thể nghĩ rằng Ngài không có tâm bi mẫn, thưa đại đức.

- Tại sao đại vương lại nói thế?

- Có chứng cớ hẳn hòi, thưa đại đức. Trẫm còn nhớ, khi Đức Thế Tôn đuổi hai vị thượng thủ cùng năm trăm vị tỷ kheo, thì đại phạm thiên Sahampati và các Thích tử ở Càtuma đã lần lượt đến quỳ bên chân Đức Đạo Sư để năn nỉ, xin xỏ cho họ được ở lại. Họ đã nói rằng, năm trăm tỳ kheo ấy còn non dại, chưa biết gì, thật là tội nghiệp. Họ đã ví von rằng, như hạt mầm non trẻ, nếu thiếu nước, thiếu ánh sáng, thiếu đất tốt thì nó sẽ dần dần bị tiêu hoại; như những con nghé con, nếu thiếu bú mớm, thiếu chăm sóc, nuôi dưỡng thì những nghé con kia sẽ chết; và cũng vậy, năm trăm tỳ kheo kia mới sơ tu, họ cần phải được yết kiến Đức Thế Tôn, cần được nghe Pháp, dạy dỗ..., may ra họ mới được trưởng thành, lớn khôn trong Giáo Pháp của bậc Thánh! Sau đó, họ xin Đức Thế Tôn khởi lòng bi mẫn xót thương cho năm trăm vị tỷ kheo. Thưa đại đức, điều ấy chứng tỏ gì? Chứng tỏ rằng Đức Thế Tôn không có tâm bi mẫn, mà chính vị đại phạm thiên Sahampati và các Thích tử ở Càtuma mới có tâm bi mẫn!

- Tâu đại vương! Đức Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài là thầy của chư thiên và loài người, Ngài đã dạy giáo pháp cho chư thiên và loài người. Vậy thì cái tâm bi mẫn của phạm thiên Sahampati và các Thích tử ở Càtuma, họ học được từ đâu?

- Dĩ nhiên là họ học được từ Đức Thế Tôn.

- Đúng vậy. Họ học được tâm bi mẫn của Đức Thế Tôn, thế sao đại vương dám bảo Đức Thế Tôn không có tâm bi mẫn?

- Khi ấy có lẽ Đức Thế Tôn đã quên tâm bi mẫn của mình, đợi đến khi Đại phạm thiên Sahampati và các Thích tử Càtuna nhắc lại, Ngài mới nhớ chăng?

Đại đức Na-tiên bèn đưa ra ví dụ:

- Ví như có một người chồng vì thương vợ, bèn sắm đầy đủ các loại ngọc quý cho vợ trang sức. Lâu lâu, người vợ muốn làm vui lòng chồng, lấy đồ trang sức ấy trang điểm cho mình. Thấy vậy, người chồng có vui tươi, hoan hỷ không hở đại vương?

- Dĩ nhiên là phải vui chứ!

- Cũng như thế đó, đại vương! Tâm bi mẫn ấy do Đức Thế Tôn giáo huấn, dạy dỗ; và rất nhiều pháp khác nữa, Đại phạm thiên Sahampati và các Thích tử ở Càtuma học được từ Đức Thế Tôn. Lâu lâu, họ lấy giáo pháp ấy nói lại, trang điểm cho mình, làm cho Đức Thế Tôn cũng hoan hỷ, Ngài phải thốt lên rằng: "Sàdhu, lành thay!".

- Hay lắm!

- Lại nữa, ví như có người cận thần thân tín của đức vua, vào kho của đức vua lấy những ngọc ngà châu báu, những vòng kim cương, lưu ly để trang điểm ngai vàng cho đức vua, những mong cho đức vua thỏa thích, vừa dạ. Đại phạm thiên Sahampati và các Thích tử ở Càtuma cũng lấy giáo pháp của Đức Thế Tôn, những đoản ngôn, những ví dụ của Đức Thế Tôn... để nói lại - thì đâu có khác gì vị cận thần thân tín kia của đức vua?

- Vâng, hay lắm!

- Lại nữa, ví như có người học trò hầu hạ một vị hòa thượng, thường đem những lời hay ý đẹp mà vị hòa thượng ấy từng dạy bảo, nói lại cho hòa thượng nghe, làm cho vị hòa thượng vô cùng hoan hỷ, đẹp dạ. Đức Thế Tôn nghe lại giáo pháp của ngài do từ miệng của Đại phạm thiên Sahampati và các Thích tử thì cũng vừa lòng đẹp dạ như vậy đó, tâu đại vương!

Đức vua Mi-lan-đà bất giác mỉm cười:

- Đại đức bênh vực cho Đức Đạo Sư thật là hùng hồn; biết là có cái gì đó không được đúng lắm, nhưng trẫm cũng không biết y cứ từ kẻ hở nào mà tranh luận!

Đại đức Na-tiên cũng mỉm cười:

- Khi mà đấng Minh quân đã nói vậy thì rõ là không có chỗ nào sai sự thật rồi!

- Có lẽ vậy, cảm ơn đại đức!

* * *

124. Phẩm mạo xuất gia cao siêu đến cỡ nào?

Đức vua Mi-lan-đà lại hỏi:

- Thưa đại đức! Trước đây trẫm có cơ duyên hầu chuyện với trưởng lão Àyupala, được biết rằng, bậc xuất gia hay người tại gia đều có thể đắc quả cao thượng giống nhau. Mà chính Đức Tôn Sư cũng có thuyết như thế. Điều này trẫm còn có chỗ hoài nghi.

- Xin đại vương cứ nói.

- Thưa, người tại gia thọ dụng ái dục, ăn mặc bằng những y phục màu trắng có thêu hoa, nằm ngủ với vợ, mưu sinh bằng đủ mọi cách để nuôi vợ con; họ nhồi phấn, thoa vật thơm, trang sức, trang điểm mỹ lệ, chải chuốt mái tóc cho láng lẩy, gom góp tài vật đủ loại... Nghĩa là họ hưởng thụ dục lạc một cách đầy đủ, thỏa mãn...

Còn các bậc xuất gia phải cạo bỏ râu tóc, mặc những thứ vải thô, xấu, lại còn phải nhuộm nước chát cho ố màu đi. Họ còn phải thọ trì nghiêm khắc hai trăm hai mươi bảy giáo điều, mười ba pháp đầu đà khổ hạnh... Nghĩa là họ phải có một đời sống cơ cực, thiếu thốn đủ mọi bề...

Đại đức Na-tiên nói:

- Đúng như thế. Nhưng đại vương nghi ở chỗ nào?

- Thưa, thứ nhất là ai thực hành giáo pháp tốt cũng đắc đạo quả cao siêu. Vậy thì dại gì đi tu cho khổ, cho cơ cực, thà ở nhà hưởng thọ ngũ dục còn hơn vậy?

- Tâu đại vương! Sự thật là thế, nhưng người tại gia thực hành giáo pháp khó khăn hơn nhiều. Có thể nào một người cư sĩ thọ dụng ngũ dục, sống giữa cõi trần luôn luôn bị lửa tham sân thiêu đốt lại có thể chứng ngộ giáo pháp ly dục cao siêu được, hở đại vương?

- À ra thế!

- Còn các bậc xuất gia, do nhờ ghép mình vào các điều học, thọ mười ba pháp đầu đà, thu thúc lục căn thanh tịnh; nghĩa là luôn luôn sống đời lánh xa ngũ trần, tham sân ít có cơ hội thiêu đốt; nên bao giờ cũng dễ dàng chứng ngộ được giáo pháp ly dục, tâu đại vương!

- Vâng, vâng!

- Tuy nhiên, dẫu là xuất gia, nhưng họ buông lung phóng dật, không chịu thực hành những đề mục chỉ tịnh, quán minh - thì làm sao mà thấy được đạo quả hở đại vương?

- Vâng, vâng!

- Do vậy, phẩm mạo xuất gia hay tại gia quan trọng ở chỗ thực hành và không thực hành, tâu đại vương!

- Vâng! Và như vậy rõ ràng là bậc xuất gia vẫn cao thượng hơn tại gia! Nhưng trẫm không rõ là nó cao thượng đến cỡ nào?

- Không ai có thể định giá được ngọc ma-ni, tức ngọc như ý như thế nào, thì sự cao thượng của phẩm mạo xuất gia cũng y như thế, cái đức của bậc xuất gia cũng dường thế ấy!

- Các vị tỳ kheo trong giáo hội của đại đức thường giáo giới đến cận sự nam nữ hai hàng rằng đức của Chư Tăng như biển lớn, là ý đó chăng?

- Vâng, vì rằng biển rộng và sâu đến chừng nào thì chưa có ai đo lường được; thì sự cao thượng, cao siêu của phẩm mạo xuất gia cũng như biển vậy, khó lượng, khó dò!

- Thưa, vậy thì do đâu mà có được cái đức ấy, sự cao siêu, cao thượng ấy?

Đại đức Na-tiên nói:

- Dường như do đâu thì đại vương đã hiểu rồi.

- Xin đại đức cứ nói lại, có phải là do nhờ đời sống ghép mình vào giới hạnh?

- Vâng, sự thành tựu cao siêu ấy, thành tựu các đức lớn ấy là do đời sống viễn ly của chư tỳ khưu, chẳng hạn:

- Thiểu dục (ít ham muốn),
- Tri túc,
- Ưa thích nơi thanh vắng,
- Không thích đám đông, phe nhóm,
- Không chất chứa, không luyến tiếc,
- Sống đời vô trú,
- Đầy đủ giới hạnh,
- Biết rành rẽ giá trị, sự lợi ích trong việc thực hành các pháp đầu đà, v.v...

Tâu đại vương! Khi mà bậc xuất gia thực hành nghiêm túc các điều như đã kể ở trên, họ sẽ thành tựu đạo quả cao siêu rất dễ dàng, mau lẹ...; cũng giống như người kia xuống sông tắm, dễ dàng và mau lẹ kỳ cọ thân thể mình cho sạch sẽ vậy.

- Thật là rõ ràng, trẫm hiểu được do đâu mà cao thượng rồi.

-ooOoo-


 

125. Đời sống Sa-môn vô tru, như nai trong rừng, sao lại xây chùa, tạo thất liêu?

- Đại đức vừa nói là các bậc xuất gia sống đời vô trú, không nên có chỗ ở nhất định, không nên lưu luyến chỗ ở, nên sống nơi thanh vắng, v.v... Đấy cũng là điều Đức Phật thường khuyên răn, giáo giới đến các bậc xuất gia, phải vậy chăng?

- Thưa vâng!

- Thế tại sao, ở chỗ khác, Đức Tôn Sư lại thuyết: "Các hàng thí chủ nên tạo chùa, thất liêu để cho Chư Tăng có chỗ ngụ cư an vui, dễ dàng, vì họ là những bậc đa văn, những bậc nâng đỡ Tam Tạng, những bậc làm cho giáo pháp được hưng thịnh, trường tồn..."?

Đức Đạo Sư đã thuyết lưỡng nghĩa, hai lời, nếu chỗ trên đúng thì chỗ dưới sai hoặc trái lại! Vậy biết đâu là lời giáo giới đúng đắn, chân chính của Đức Đạo Sư?

- Đức Thế Tôn chẳng bao giờ thuyết hai lời, lưỡng nghĩa, mâu thuẫn nhau đâu, tâu đại vương! Trong giáo hội của Đức Tôn Sư, Ngài cho phép Chư Tăng tùy duyên, tùy sở thích mà chọn chỗ ngụ cư cho mình; không nhất thiết là rừng, nghĩa địa, chùa hay thất liêu. Ngài chưa hề cấm Chư Tăng sống ở chùa, thất liêu hoặc khuyến khích nên sống ở rừng hay nghĩa địa. Vấn đề quan trọng là sống sao để khỏi dính mắc, lưu luyến chỗ ở của mình; phải thường xuyên thay đổi từ chỗ này sang chỗ khác. Chính đời sống không dính mắc, không lưu luyến mới là phải lẽ cho Sa-môn, nghiêm trang cho Sa-môn, thích hợp với Sa-môn, là cảnh giới của Sa-môn, nên dành cho Sa-môn, là nơi mong mỏi của Sa-môn.

Tâu đại vương! Ví như loài hươu nai sống ở trong rừng, chúng tự do, thảnh thơi đi từ chỗ này sang chỗ khác, không nhất định ở một nơi nào cả, hoàn toàn theo ý muốn, sở thích của mình, chư tỳ kheo cũng nên sống đời vô trú như hươu nai vậy.

Tâu đại vương! Còn vấn đề xây dựng chỗ ở, tạo chùa chiền, am thất cho Chư Tăng mà Đức Phật thường tán thán là vì lợi ích cho giáo pháp, lợi ích cho hàng cư sĩ tại gia. Công đức, phước báu xây dựng cảnh già lam cho Chư Tăng có chỗ ngụ cư dễ dàng để tu học thật là vô biên vô lượng, là nhân sanh cảnh trời, cảnh người phú túc và sang cả. Ngoài ra, đó còn là nhân để thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, chứng quả Niết bàn Vô sanh.

Lại nữa, tâu đại vương! Nếu mà chư tỳ khưu đều sống ở rừng, nghĩa địa, nơi hoang sơn cùng cốc; ai cũng lìa xa nơi phố thị, làng mạc cả thì cận sự nam nữ hai hàng lấy đâu để nghe giáo pháp, để thọ trì quy giới, để cúng dường, bố thí, để tạo phước báu, để tăng trưởng tín, giới, văn, thí, tuệ cho mình?

Lại nữa, tâu đại vương! Nếu không có chùa chiền, am thất thì vua chúa, các vị đại thần, thương gia, các giáo chủ bà-la-môn, những người có tâm cầu mong thấu hiểu giáo pháp sẽ biết tìm đến đâu để học hỏi, trao đổi, thảo luận? Những người muốn tu sẽ tìm đến nơi nào để tu? Và Chư Tăng làm sao để học hỏi giáo pháp, phổ biến giáo pháp, kế tục giáo pháp để lưu hậu, truyền thừa?

Đại vương! Dám mong đại vương giải đáp dùm cho những câu hỏi ấy của bần tăng!

- Vâng, trẫm không dám nữa đâu! Sở dĩ mà trẫm còn nghe được giáo pháp hôm nay là cũng nhờ có cảnh già lam mà cận sự nam nữ đã dày công kiến tạo!

- Cám ơn đại vương!

- Trẫm không ngờ một câu hỏi bắt bí bình thường - mà lối giải đáp của đại đức lại sâu xa, vi diệu như thế! Ôi! Một câu hỏi tưởng như khó khăn, mà đại đức đã tháo gỡ rất dễ dàng! Ôi! Đại đức đã làm cho phân minh, sáng sủa những điều tối tăm, đã bẻ gãy vỡ vụn những luận điệu mà chúng ngoại đạo có thể xuyên tạc trong nay mai! Quả thật, đại đức đã đem đến ở đây một con mắt của chư Phật để soi tỏ, nhìn ngắm mọi vấn đề, vì lợi ích cho vô lượng nhân thiên trong thời mạt pháp vậy!

* * *



tải về 2.69 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   ...   34




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương