MỐI ÐE DỌA LỚN NHẤT CỦA SÔNG MEKONG VÀ HIỂM HỌA THỰC SỰ
CỦA ÐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Ở VIỆT NAM
Nguyễn Minh Quang
Cửa đập Pak Mun được mở cho cá di chuyển (Ảnh: Internet)
Tác giả là Kỹ sư Công chánh Chuyên nghiệp (Professional Civil Engineer) của Tiểu bang California. Tốt nghiệp Kỹ sư Công chánh tại Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ, Sài Gòn năm 1972; Trưởng ty Kế hoạch của Ủy ban Quốc gia Thủy lợi thuộc Bộ Công chánh và Giao thông đến tháng 4 năm 1975. Tốt nghiệp Cao học Thủy lợi tại Ðại học Nebraska, Hoa Kỳ năm 1985; Chuyên viên Thủy học (Hydrologist) của Sở Quản trị Thủy lợi, Broward County, Florida đến năm 1989. Từ năm 1990, Kỹ sư Giám sát trưởng (Senior Supervising Engineer) của Stetson Engineers Inc., một công ty cố vấn về thủy lợi và ô nhiễm nguồn nước, thành lập năm 1957 ở Los Angeles.
PHẦN DẪN NHẬP
Ảnh hưởng của các đập thủy điện trên dòng chánh ở thượng nguồn sông Mekong trong lãnh thổ Trung Hoa đối với hạ lưu vực sông Mekong đã được nói đến từ lâu, nhưng có lẽ không gây được tiếng vang đáng kể cho đến ngày 21 tháng 5 năm 2009, khi bản tin do biên tập viên môi trường (BTV) Michael Casey của Associated Press (AP) đánh đi từ Bangkok, Thái Lan loan báo rằng một phúc trình của Liên Hiệp Quốc cho biết “hành động xây đập thiếu kiểm soát ở Trung Hoa là mối đe dọa lớn nhất cho tương lai của sông Mekong đang bị quấy nhiễu (a dambuilding spree in China poses the greatest threat to the future of the already beleaguered Mekong)” [1]. Bản tin lập tức được các phương tiện truyền thông khắp nơi trên thế giới phổ biến nhanh chóng. Báo chí Việt ngữ ở trong và ngoài nước cũng chạy tin với những tựa đề “rất đáng lo ngại và kinh sợ,” chẳng hạn như “Trung Quốc xây hàng loạt đập thủy điện làm hại dân hạ lưu sông Cửu Long” [2], “Vn [Việt Nam]: Tq [Trung Quốc] Giết Mekong, Sông Thành Sa mạc” [3], “’Bức tử’ sông Mekong với đập cao 292 m” [4], “Ðập Tiểu Loan đe dọa đồng bằng sông Cửu Long” [5], hoặc “TQ [Trung Quốc] khai thác sông Mê Kông và nguy cơ giết chết ÐBSCL” [6]. Một số người có quan tâm ở ngoài nước, chẳng hạn như Nhóm bạn Cửu Long và Viet Ecology, và chuyên viên trong nước cũng phổ biến các bài viết cho thấy cái “thảm họa trước mắt” do các đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong gây ra.
“Có dịp đến thăm đập Hoover trên sông Colorado gần Las Vegas, con đập tưởng như vĩ đại cao 221 mét, công suất 2080 MW, nhưng thực ra chỉ lớn hơn con đập Mạn Loan [Manwan] 1500 MW và chưa bằng nửa công suất của con đập Tiểu Loan [Xiaowan] 4200 MW. Do Mỹ đã tận dụng nước khúc thượng nguồn nên con sông Colorado đã cạn dòng không còn nước để ra tới biển, gây thảm cảnh cho bao nhiêu triệu cư dân Mễ sống nơi cuối nguồn. Phải chăng, đó cũng là tương lai của đồng bằng sông Cửu Long, sông sẽ cạn dòng để thay thế bằng ngập mặn và rồi ra không có một giống lúa hay cây trái nào sống sót được trong biển nước mặn ấy.” [7]
2 “Các hiểm họa từ thượng nguồn sông Cửu Long đang đổ xuống có khả năng từ từ dìm Cà Mau và duyên hải Nam Việt xuống biển, ép nước mặn lấn dần vào sâu trong châu thổ sông Cửu Long, và ngăn chặn tôm cá đi đi về về sinh sản tại hạ nguồn. Ô nhiễm từ kỹ nghệ quặng mỏ Vân Nam sẽ theo dòng nước đổ xuống, những hồ chứa nước, đập thủy điện khổng lồ và khai thác quặng mỏ ở thượng nguồn sẽ còn là những mối hiểm họa ghê gớm, có khả năng gây song thần tràn ngập lưu vực và gây tê liệt vựa lúa Việt Nam nếu việc quản lý có sự tắc trách vô tình hoặc cố ý.” [8]
“Đồng bằng sông Cửu Long hiện đang bị nhiễm mặn trầm trọng, nước mặn ngày càng lấn sâu vào đất liền vì nhiều nguyên do khác nhau. Nhưng lý do chính yếu là do việc thiết lập thiếu thận trọng (!) các đập thủy điện trên thượng nguồn làm cho mực nước sông xuống thấp và không đủ lưu lượng để đuổi mặn trong mùa khô.” [9]
“Như vậy việc khai thác sử dụng tiềm năng thuỷ điện lưu vực sông Lancang [sông Mekong trong lãnh thổ Trung Hoa] chắc chắn sẽ có ảnh hưởng đến lượng nước, lượng điện, nông nghiệp, thuỷ sản, giao thông thuỷ và môi trường sinh thái vùng hạ lưu sông Mê Công, nhất là đối với các nước Lào, Thái Lan, Campuchia và đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).” [10]
“Vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ phải gánh chịu các tác hại nặng nề do việc dòng Mêkông bị ngăn chặn, từ nguy cơ không còn phù sa màu mỡ, nước ngọt bị thiếu khiến đất hóa phèn, cho đến nguy cơ lượng cá đánh bắt tụt giảm, chưa kể hiện tượng dòng chảy của sông Mêkông yếu đi sẽ làm cho nước biển lấn vào gây ngập mặn.” [11]
Các đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong trong lãnh thổ Trung Hoa có phải là mối đe dọa lớn nhất của dòng sông hay không?
Chúng có phải là hiểm họa của ÐBSCL như được mô tả trong các bài báo và bài viết vừa nêu hay không? Nếu không, cái gì mới là mối đe dọa lớn nhất của sông Mekong và cái gì mới là hiểm họa của ÐBSCL? Bài viết nầy cố gắng trả lời những thắc mắc trên đây dựa theo nguyên tắc về thủy học và thủy điện hiện hành (current principles on hydrology and hydropower), dữ kiện thủy học hiện có (available hydrologic data), và kinh nghiệm về thủy học và thủy lợi tích lũy trong thời gian phục vụ trong ngành thủy lợi ở Việt Nam và Hoa Kỳ.
MỐI ÐE DỌA LỚN NHẤT CỦA SÔNG MEKONG
Bản tin của BTV Michael Casey được đánh đi sau buổi hội thảo cấp bộ trưởng về tăng cường quản trị nguồn nước ngọt xuyên biên giới do Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc (United Nations Environmental Programme (UNEP)) tổ chức trong ba ngày từ 20 đến 22 tháng 5 năm 2009 [12]. Mục đích chánh của buổi hội thảo là trình bày những thách thức và cơ hội trong việc quản trị nguồn nước ngọt xuyên biên giới và đề ra những hành động ưu tiên để cải thiện việc quản trị. Trong buổi hội thảo, một phúc trình về lượng định nguồn nước ngọt ở Ðông Nam Á, do Mukand S. Babel và Shahriar W. Wahid biên soạn cho UNEP và Viện Kỹ thuật Á Châu (Asian Institute of Technology (AIT)), được phổ biến, trong đó lưu vực sông Mekong được dùng làm thí dụ điển hình [13]. Phúc trình UNEP/AIT kết luận rằng: “Mặc dù lưu vực sông Mekong hiện nay không bị thiếu nước (water shortages) và không có xung đột công khai (open conflicts), nó cần được quan tâm vì áp lực phát triển (development pressures) và vấn đề xuyên biên giới (transboundary issues) có khả năng gây ra những đe dọa trong tương lai.” Báo chí Việt ngữ ở trong và ngoài nước, một số người có quan tâm ở ngoài nước, và nhiều chuyên viên trong nước đã dựa theo bản tin của Michael Casey để khẳng định rằng các đập thủy điện trên dòng chánh ở thượng nguồn Mekong trong lãnh thổ Trung Hoa là mối đe dọa lớn nhất của sông Mekong và là hiểm họa đang đổ xuống của ÐBSCL.
Bản tin của Michael Casey đã không phản ánh trung thực phúc trình của UNEP/AIT mà còn khai thác bài viết của Richard Cronin để cho rằng “dự án khổng lồ của Bắc Kinh nhằm xây một chuỗi 8 con đập đồ sộ trên sông Mekong là mối đe dọa đơn lớn nhất của dòng sông.” Dữ kiện hiện có không biện minh cho kết luận của Richard Cronin.
Phúc trình UNEP/AIT dùng Khung 3.2 để “minh họa” ảnh hưởng tiên đoán của các đập thủy điện dự trù xây cất trong lưu vực sông Mekong.
“Các quốc gia trong lưu vực Mekong đang xây hoặc dự trù hàng chục đập thủy điện để hổ trợ kỹ nghệ hóa hoặc xóa đói giảm nghèo cho những vùng xa xôi (xem Khung 3.2). Lào đã bắt đầu xây một vài dự án trong số 23 dự án thủy điện được dự trù. Mặc dù việc khai thác thủy điện hiện nay không thể tách rời với việc tranh cãi về đập và phát triển, việc khai thác thủy điện đã dự trù được tiên đoán là làm thay đổi lưu lượng và thời lượng của sông, làm suy thoái phẩm chất nước, và làm mất đa dạng sinh học (The MRB countries are planning/constructing scores of hydropower dams, intended to support industrialization and help lift remote areas out of poverty (see Box 3.2). Lao PDR has started construction on several of 23 planned hydropower projects. Although hydropower development is now inextricably linked to wider debates on dams and development, the predicted impacts of the proposed hydropower development include changes in river flow and timing, water quality deterioration and loss of biodiversity)” [13].
Hội thảo của UNEP tại Bangkok, Thái Lan [12]
Mối đe dọa “tưởng tượng!”
Nội dung trong Khung 3.2 được “phỏng theo” bài viết có tựa đề “Jakarta Flood and Mekong Drought: Two Sides of the Same Coin” của Tiến sĩ (TS) Richard Cronin [14], một chuyên viên cao cấp về những vấn đề chánh trị và an ninh hiện đang điều hành chương trình Ðông Nam Á của Trung tâm Henry L. Stimson. Ðây là một tổ chức bất vụ lợi và không phe phái (nonpartisan) có mục đích tăng cường hòa bình và an ninh của thế giới, do ông Henry L.Stimson thành lập tại Washington DC vào năm 1989. Trong bài viết nầy TS Cronin khẳng định rằng “Dự án khổng lồ của Bắc Kinh nhằm xây một chuỗi 8 con đập đồ sộ trên nửa trên của sông Mekong dài 4.880 km khi nó đổ qua các hẽm núi cao trong tỉnh Vân Nam là mối đe dọa đơn lớn nhất của dòng sông (Beijing’s Herculean project to build a massive cascade of eight dams on the upper half of the 4,880 kilometers-long Mekong River as it tumbles through the high gorges of Yunnan Province poses the single greatest threat to the river)”[14].
Dựa theo những dữ kiện trên, bản tin của BTV Michael Casey đã không phản ánh trung thực và chính xác kết luận của phúc trình UNEP/AIT.
Nếu một phần của Khung 3.2 được xem là kết luận của phúc trình thì kế hoạch đầy tham vọng của Trung Hoa nhằm xây một chuỗi đập đồ sộ trên thượng nguồn sông Mekong chỉ “... có thể là mối đe dọa đáng kể của dòng sông (may pose a considerable threat to the river)” chớ không phải là “mối đe dọa lớn nhất cho tương lai của dòng sông (poses the greatest threat to the future of the already beleaguered Mekong)” hay “có thể là mối đe dọa đơn lớn nhất của dòng sông (may pose a single greatest threat to the river)” như BTV Michael Casey đã tường trình.
Ðể “chứng minh” dự án khổng lồ của Bắc Kinh nhằm xây một chuỗi 8 con đập đồ sộ trên thượng nguồn sông Mekong là mối đe dọa đơn lớn nhất của dòng sông, TS Cronin dựa trên hai điểm: đập Xiaowan là “đập cao nhất thế giới (the world’s tallest)” và hồ Xiaowan “chứa nhiều nước hơn tất cả các hồ ở Ðông Nam Á gộp lại (store more water than all of the Southeast Asian dam reservoirs combined)”[14]. Tuy nhiên, khi được hỏi qua e-mail, TS4 Cronin đã xác nhận là đập Xiaowan không phải là đập cao nhất thế giới và không thể cung cấp chi tiết về dung tích của hồ Xiaowan.
Ðập Xiaowan đang được xây cất (Ảnh: Sinohydro)
“Thank you very much for your interest in our work on Mekong hydropower issues. There are numerous sources for the points you inquired about in my 2007 “Spotlight” article. My first inclination was to refer you to a just issued UN Environmental Program (UNEP) report, which I am attaching, but when I looked more closely at the report I realized that they had quoted from the very Spotlight article that you have asked about. Maybe you saw reference to the Spotlight article in the UNEP report? Of course only a small part of the UN report can be attributed to my Spotlight article. See the main impacts summarized in http://www.dwf.org/blog/Lists/Posts/Post.aspx?ID=368.
So here are some original sources: 1. Single greatest threat. Well, the Chinese estimate that the Lancang cascade will put 20-70 percent (estimates vary wildly) more water into the river during the will make cause a comparable reduction in the temporary wetlands created by the flood pulse.
These dry season wetlands are the nursery of many migratory fish species. The picture changed even more adversely after the recent revelation that Laos plans scores of mainstream dams and Cambodia also plans to dam the Sambor Rapids and the mouth of the Sesan River at Stung Treng. For a general impact assessment see http://www.internationalrivers.org/files/03.upp ermekongfact.pdf and http://www.internationalrivers.org/en/853.
2. Xiaowan Dam: This Infoplease source indicates Xiaowan is the world’s 3rd highest dam http://www.infoplease.com/ipa/A0113468.htm but other sources say it is the highest of its type – a compound concrete arch. See http://www.panda.org/what_we_do/footprint/dams_initiative/examples/mekong.
More important, the 335 meter Rogan dam in Tajikistan was destroyed by a flood in 1990 and never got higher than 60 meters. 335 meters was its projected height. Xiaowan is near to completion. Amazingly, the 300 meter Nurek Dam, also in Tajikistan, is an earth and rock fill structure. At 10 billion cu meters, the reservoir is only two thirds that of Xiaowan. http://www.books.google.com/books?id=Mi5w01UByyoC&pg=PA744&lpg=PA744&dq=Nurek+dam+meters&source=bl&ots=SEfAUtnTY4&sig=hQ4y5TGpMlFE197owmvVzhAsZkI&hl=en&ei=r-EySryhBcqMtgeA1sCxCQ&sa=X&oi=book_result &ct=result&resnum=3.
3. Reservoir storage: It looks like the UN report is quoting me. I have somewhere in my files a table showing storage capacity of dams in the six Mekong Basin countries, but cannot locate it. I can see it in my mind’s eye, but can’t find it through google either. I’ll let you know if I find it.” [15]
Dựa theo tài liệu của chánh phủ Lào và Ngân hàng Phát triển Á Châu (Asian Development Bank (ADB)), hồ Xiaowan có dung tích khoảng 14,6 tỉ m3. Như vậy, nó không thể “chứa nhiều nước hơn tất cả các hồ ở Ðông Nam Á gộp lại” vì dung tích nầy còn thấp hơn dung tích 17,63 tỉ m3 của các hồ chứa nước hiện nay ở Lào (Nam Ngum: 7,01 tỉ m3, Nam Leuk: 0,15 tỉ m3, Nam Lik: 1,09 tỉ m3, Houay Ho: 0,60 tỉ m3, Nam Theun 2: 3,91 tỉ m3, và Theun Hinboun: 4,87 tỉ m3 [16].
Mối đe dọa thực sự
Theo phúc trình UNEP/AIT thì lưu vực sông Mekong đang và sẽ đối phó với những vấn đề như (1) dẩn thủy nhập điền và thâm canh trong nông nghiệp làm thay đổi cơ chế thủy học của sông, (2) những đập thủy điện sắp được xây có thể làm thay đổi lưu lượng và thời lượng của dòng nước, suy thoái phẩm chất nước, và làm mất đa dạng sinh học, (3) việc vận hành các đập thủy điện, các khu kỹ nghệ, việc thâm canh và phát triển nông nghiệp trong tương lai có thể ảnh hưởng đến phẩm chất nước sông, và (4) việc xây cất 2 đập lớn ở thượng lưu vực, các đập trên sông nhánh ở hạ lưu vực (23 đập ở Lào), và đập thủy điện trên sông Mekong ở Cambodia có thể có ảnh hưởng nguy hại đến thủy sản và mức sản xuất của châu thổ vì phù sa bị giảm.
Ðập trên dòng chánh sông Mekong [Terra]
Nếu dung tích của hồ chứa được dùng làm thước đo “mức đe dọa,” thì rõ ràng, các đập thủy điện và thủy nông ở hạ lưu vực sông Mekong mới là chính là mối đe dọa đáng kể của dòng sông trong hiện tại lẫn tương lai như được trình bày trong Bảng 3-8 [16] dưới đây (được tính bằng triệu m3). Các đập thủy điện và dự án thủy nông ở hạ lưu vực sông Mekong, kể cả các đập trên phụ lưu, dường như không được quan tâm đúng mức cho đến khi tin tức về việc chánh phủ Lào hợp tác với công ty kỹ thuật và xây cất Mega First Corporation Berhad (MFCB) của Malaysia để nghiên cứu khả thi dự án thủy điện Don Sahong ở Nam Lào vào tháng 3 năm 2006 được phổ biến [17]. Ðây là con đập có ưu tiên cao nhất trong số 11 con đập trên dòng chánh ở hạ lưu vực sông Mekong được đề nghị trong một nghiên cứu phát triển thủy điện của Ủy ban Quốc tế Mekong Lâm thời vào năm 1994 [18].
Từ đó đến nay, dự án Don Sahong nói riêng và các dự án trên dòng chánh ở hạ lưu vực sông Mekong nói chung đã gặp phải sự chống đối càng ngày càng mạnh mẽ của nhiều tổ chức và chuyên viên quốc tế [19-26]. Vào tháng 3 năm 2009, các tổ chức nầy đã hình thành liên minh Hãy cứu sông Mekong (Save the Mekong) nhằm 2 mục đích: nâng cao sự hiểu biết của quần chúng về sự rủi ro của việc xây 11 đập thủy điện được đề nghị trên dòng chánh ở hạ lưu sông Mekong và thuyết phục những người có trách nhiệm nên sử dụng các biện pháp khả chấp và hòa bình để đáp ứng nhu cầu về nước và năng lượng của người dân [27]. Theo họ, “việc xây đập trên thượng nguồn Mekong ở Trung Hoa đã có ảnh hưởng đến hạ lưu, đặc biệt là ở biên giới Lào-Thái, nơi cư dân bị thiệt hại vì thủy sản sa sút, vì mực nước thay đổi, và vì ảnh hưởng đến việc canh tác ở ven bờ. Ảnh hưởng của đập xây ở hạ lưu vực sông Mekong chắc sẽ nghiêm trọng hơn nhiều.” [17]
Các đập thủy điện và dự án thủy nông ở hạ lưu vực sông Mekong, kể cả các đập trên phụ lưu, dường như không được quan tâm đúng mức cho đến khi Lào bắt đầu dự án thủy điện Don Sahong vào năm 2006.
Mekong không còn câm nín!
Loan báo thành lập liên minh Save the Mekong (Ảnh: www.savethemekong.org)
Từ đó, nhiều tổ chức và chuyên viên quốc tế đã lên tiếng phản đối và liên minh Save the Mekong được hình thành để nâng cao sự hiểu biết của quần chúng và thuyết phục những người có trách nhiệm nên sử dụng các biện pháp thích hợp, vì theo họ, ảnh hưởng của đập xây ở hạ lưu vực sông Mekong chắc sẽ nghiêm trọng hơn nhiều so với ảnh hưởng của đập xây ở Trung Hoa.
HIỂM HỌA THỰC SỰ CỦA ÐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Ở VIỆT NAM
Những người có quan tâm ở ngoài nước và chuyên viên trong nước cho rằng các đập thủy điện trên dòng chánh Mekong trong lãnh thổ Trung Hoa là “...hiểm họa... đang đổ xuống có khả năng từ từ dìm Cà Mau và duyên hải Nam Việt xuống biển... gây sóng thần tràn ngập lưu vực và gây tê liệt vựa lúa Việt Nam nếu việc quản lý có sự tắc trách vô tình hoặc cố ý” [8], “... làm cho mực nước sông xuống thấp và không đủ lưu lượng để đuổi mặn trong mùa khô” [9], “... sông sẽ cạn dòng để thay thế bằng ngập mặn và rồi ra không có một giống lúa hay cây trái nào sống sót được trong biển nước mặn ấy” [7], và làm cho ÐBSCL “... không còn phù sa màu mỡ, nước ngọt bị thiếu khiến đất hóa phèn, cho đến nguy cơ lượng cá đánh bắt tụt giảm...” [12]. Thế nhưng, ngoài việc dựa theo những “nghiên cứu” như “nghiên cứu” của TS Cronin, họ không thể đưa ra những dữ kiện khoa học để biện minh cho lập luận của mình. Do đó, những hiểm họa nầy; có vẻ như những “huyền thoại” được suy diễn hoặc hư cấu để “thương mãi hóa,” “chánh trị hóa,” hay “tiểu thuyết hóa” vấn đề; không phản ánh trung thực sự kiện đã xảy ra hoặc đi ngược lại với nguyên tắc thủy học và thủy điện.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |