MỤc lục danh mục từ viết tắT



tải về 0.92 Mb.
trang1/9
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích0.92 Mb.
#16643
  1   2   3   4   5   6   7   8   9


MỤC LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ADF (Augmented Dickey-Fuller) : kiểm định Augmented Dickey-Fuller

AIC (Akaike info criterion) : tiêu chuẩn Akaike

BIC (Bayesian information criterion) : tiêu chuẩn BIC

CPI (consumer price index) : chỉ số giá tiêu dùng

ERPT (Exchange rate pass through) : hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá

EXP (Export Price index) : chỉ số giá xuất khẩu

FPE (Final Prediction Error) : tiêu chuẩn FPE

GDP ( Gross Domestic Product) : tổng sản phẩm quốc nội

GSO ( General statistics office) : tổng cục thống kê.

IMF ( Internationl Money Fund) : Quỹ tiền tệ quốc tế

IMP (Import Price Index) : chỉ số giá nhập khẩu

IRF: ( Impulse Response Function ) : hàm phản ứng đẩy

LS ( Least Square ) : phương pháp ước lượng bình phương

nhỏ nhất.

M2 : lượng cung ứng tiền M2.

ML ( maximum- likelihood) : phương pháp ước lượng hợp lí cực đại

MSE (Mean square error) : sai số dự báo

NEER (Nominal Effective Exchange Rate): tỷ giá danh nghĩa đa phương

NHNN : Ngân hàng Nhà nước

OIL : giá dầu Brent (đơn vị : USD/thùng)

OPGAP (Output gap) : chênh lệch giữa sản lượng thực tế và

sản lượng tiềm năng của một nền

kinh tế.

PP (Phillip Perron) : mô hình kiểm định Phillip Perron

SIC (Schwartz information criterion) : Tiêu chuẩn Schwartz

VAR ( Vector auto regression) : Mô hình vectơ tự hồi quy.

VECM (Vector error correction model): Mô hình vectơ điều chỉnh sai số.

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Phản ứng của mức giá cả nội địa tới 1% cú sốc tỷ giá Error: Reference source not found

Bảng 1.2. Kết quả hàm phản ứng của các chỉ số giá với cú sốc 1% từ NEER Error: Reference source not found

Bảng 2.1. Định nghĩa các biến trong mô hình Error: Reference source not found

Bảng 2.2. Tăng trưởng cung tiền của Việt Nam so với các nước trong khu vực Error: Reference source not found

Bảng 2.3. Kết quả kiểm định tính dừng Error: Reference source not found

Bảng 2.4. Thống kê các chỉ tiêu để lựa chọn độ trễ tối ưu Error: Reference source not found

Bảng 2.5. Kết quả kiểm định Granger với biến phụ thuộc D(LCPI) Error: Reference source not found

Bảng 2.6. Kết quả ước lượng mô hình VAR với trễ bậc 1 Error: Reference source not found

Bảng 2.7. Kết quả ước lượng với biến phụ thuộc D(LCPI) Error: Reference source not found

Bảng 2.8. Kết quả kiểm định ADF Fisher và PP Fisher về tính dừng của phần dư Error: Reference source not found

Bảng 2.9. Kiểm định LM và Portmanteau về tương quan chuỗi của phần dư. Error: Reference source not found

Bảng 2.10. Hệ số truyền dẫn tỷ giá vào mức giá nội địa Error: Reference source not found

Bảng 2.11. So sánh ERPT của Việt Nam với các nước trong khu vực Error: Reference source not found

Bảng 2.12. Phân rã phương sai chỉ số giá tiêu dùng (CPI) Error: Reference source not found


DANH MỤC HÌNH

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, định hướng chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung Ương đã và đang bị thay đổi do sự phát triển của thị trường tài chính cùng các công cụ tài chính đa dạng trong bối cành toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh. Xu hướng đó thay đổi nhằm làm cho chính sách tiền tệ có thể theo đuổi những mục tiêu dài hạn như là kiểm soát lạm phát, giữ ổn định giá trị đồng tiền mà vẫn có sự linh hoạt trong việc kết hợp những mục tiêu ngắn hạn.

Một số quốc gia theo đuổi chính sách lạm phát mục tiêu và đã mang lại những kết quả tích cực. Tuy vậy, theo lý thuyết “bộ ba bất khả thi”, Mundell- Fleming (1960), một quốc gia không thể đồng thời thực hiện theo đuổi mục tiêu lạm phát, ổn định tỷ giá và tự do hóa tài khoản vốn. Điều này không có nghĩa là Ngân hàng trung Ương từ bỏ việc can thiệp lên thị trường hối đoái, việc nghiên cứu về ảnh hưởng truyền dẫn của biến động tỷ giá tới mức giá cả nội địa là một công việc tất yếu trong một nền kinh tế mở. Vậy mối quan hệ giữa tỷ giá và lạm phát là như thế nào, tác động của tỷ giá tới lạm phát,…đó là những vấn đề lớn đã và đang được nhiều nhà kinh tế học nghiên cứu.

Dựa vào thuyết ngang giá sức mua, mức giá một nước tăng lên tương đối so với mức tăng giá của nước khác trong dài hạn sẽ làm đồng tiền nước đó giảm giá và ngược lại. Vì vậy yếu tố chênh lệch lạm phát chỉ có ảnh hưởng đến sự biến động của tỷ giá trong dài hạn và việc nghiên cứu yếu tố này làm cơ sở dự đoán biến động tỷ giá trong ngắn hạn sẽ đưa ra những kết quả không đáng tin cậy. Sự biến động của tỷ giá hối đoái sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động ngoại thương thông qua kênh giá cả.

Quan điểm cũ của các học giả phương Tây về mối quan hệ giữa tỷ giá và lạm phát được một số chuyên gia tiền tệ đồng ý. Theo đó, khi mức độ phá giá tiền tệ lớn hơn sự mất giá của hàng hóa thì lạm phát sẽ gia tăng, ngược lại khi mức độ mất giá của tiền tệ thấp hơn sự mất giá của hàng hóa thì lạm phát sẽ được hạn chế. Do vậy khi lạm phát trầm trọng thì việc phá giá có thể hạn chế được lạm phát.

Tuy nhiên những ý kiến trên chỉ mang tính lý thuyết, do vậy, cần phải có những công trình nghiên cứu thực nghiệm để đưa ra chính xác mức độ tác động của sự truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào lạm phát, từ đó ngân hàng trung ương các nước sẽ có những hướng điều hành chính sách tiền tệ một cách hiệu quả.

LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI

Kể từ khi chính sách đổi mới (1986) được áp dụng, nền kinh tế Việt Nam đã trở nên khởi sắc hơn, với một tỷ lệ tăng trưởng ấn tượng. Điều này đã đóng góp không nhỏ vào sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã phải đối mặt với nhiều khó khăn mới, như là tỉ lệ lạm phát tăng cao, sự gia tăng của các giao dịch không cân xứng, tình trạng đô-la hoá nền kinh tế và sự biến động của dòng vốn vào. Trong hoàn cảnh này, việc nhận biết được thời điểm và mức độ của tác động truyền dẫn của tỷ giá hối đoái vào mức giá nội địa là vô cùng quan trọng.

Các nghiên cứu trước đây về vấn đề này vẫn còn để lại nhiều khoảng trống và câu hỏi chưa được trả lời. Trên thực tế, tại Việt Nam đã có một số nghiên cứu về truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào giá cả nội địa. Võ Văn Minh (2009) 1 đã chỉ ra rằng tác động truyền dẫn của tỷ giá hối đoái tại Việt Nam đang ở mức độ trung bình so với các nền kinh tế khác. Mặc dù vậy, bài nghiên cứu này lại không nêu ra được một cách giải thích lô-gic về thứ tự của các biến trong phân rã Cholesky. Thêm vào đó, kết luận của bài nhiên cứu cho rằng sự thay đổi của tổng cầu không ảnh hưởng tới lạm phát vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Nguyễn Thị Thu Hằng 2(2010) đã chỉ ra rằng chính sách tỷ giá hối đoái có thể không kiềm chế được lạm phát trừ khi lượng cung tiền và tỷ lệ tăng trưởng tín dụng đã được kiểm soát. Tuy nhiên, bài nghiên cứu đó đã không ước tính được cụ thể mức độ và thời gian thay đổi của lạm phát trước cú sốc về tỷ giá hối đoái. Trong khi các nghiên cứu của Nguyễn Phi Lân 3(2012) và Bạch Thị Phương Thảo 4(2012) cùng cộng sự sử dụng cỡ mẫu theo quý với số quan sát khá nhỏ nên kết quả có thể ảnh hưởng đến độ chính xác của kết quả chạy mô hình, đặc biệt là độ trễ tác động của các cú sốc.

Việc khắc phục những lỗ hổng và làm rõ những khía cạnh trên có ảnh hưởng nhiều tới sự thành công của những chính sách, các nhà hoạch định có thể đưa ra những chính sách phù hợp về độ lớn của những lần điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm đảm bảo sự ổn định xã hội và đạt hiệu quả cao đối với mục tiêu hướng đến khi thay đổi tỷ giá. Vì vậy, nhóm tác giả nghiên cứu đề tài: “Hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá vào giá cả nội địa – nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam”.



MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI

Theo Choudhri và Hakura5 (2001), một sự tác động ở mức độ thấp của tỷ giá hối đoái đến các chỉ số giá sẽ giúp một quốc gia có nhiều cơ hội hơn để theo đuổi một chính sách tiền tệ độc lập và giúp quốc gia đó dễ dàng triển khai chính sách lạm phát mục tiêu hơn so với quốc gia có mức độ tác động của tỷ giá hối đoái đến các chỉ số giá cả lớn.



Mục tiêu tổng quát và lâu dài của nghiên cứu này là đo lường chính xác độ lớn, thời gian ảnh hưởng và các nhân tố ảnh hưởng đến mức truyền dẫn của tỷ giá hối đoái tới các chỉ số giá tại Việt Nam, bao gồm: chỉ số giá nhập khẩu, chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá tiêu dùng. Hoàn thành mục tiêu này có thể giúp cho việc hoạch định chính sách trở nên chính xác, phù hợp và đạt hiêu quả cao hơn.

Trong đề tài này, nhóm tác giả theo đuổi các mục tiêu cụ thể như sau:



  • Mục tiêu 1: Đo lường chính xác độ lớn của mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái tới mức giá cả nội địa, cụ thể ở đây là chỉ số giá tiêu dùng.

+ Giả thuyết 1: Wei và Parsley (1995) 6 đã đưa ra một số bằng chứng thực nghiệm để chứng tỏ rằng sự truyền dẫn sẽ yếu hơn ở những nước mà có tỷ giá hối đoái biến động hơn. Mann (1986) 7 cho rằng tổng cầu biến động nhiều kết hợp với thay đổi tỷ giá sẽ theo làm giảm mức độ truyền dẫn.

+ Kết quả kỳ vọng: Nếu hai giả thuyết trên là đúng, do Việt Nam là nước có tỷ giá hối đoái và tổng cầu biến động nhiều (phụ lục 8), nhóm tác giả kỳ vọng mức độ truyền dẫn tỷ giá vào giá cả nội địa ở Việt Nam là không lớn.



  • Mục tiêu 2: Xác định rõ tầm quan trọng của các cú sốc vĩ mô trong việc giải thích sự biến động của chỉ số giá tiêu dùng CPI.

+ Giả thuyết 2: Sự biến động của CPI phụ thuộc chủ yếu vào kỳ vọng của công chúng và những cú sốc về cung tiền.

+ Kết quả kì vọng: Nếu giả thuyết trên là đúng, khi đó phân rã phương sai của chỉ số giá tiêu dùng sẽ chỉ ra rằng chỉ số CPI từ thời kỳ trước đó và cung tiền sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc biến động của CPI hiện tại.



  • Mục tiêu 3: Kết quả nghiên cứu của Võ Văn Minh (2009) gây nhiều tranh cãi khi cho rằng sự thay đổi tổng cầu không gây ảnh hưởng tới lạm phát. Vì vậy, trong nghiên cứu này nhóm tác giả đặt mục tiêu làm rõ tác động của cú sốc tổng cầu tới sự thay đổi của mức giá nội địa.

+ Giả thuyết 3: Theo trường phái cổ điển và trường phái Keynes, việc tăng trưởng sản lượng thực của nền kinh tế vượt mức tăng trưởng sản lượng tiềm năng là một trong những nguyên nhân làm tăng chỉ số CPI.

+ Kết quả kì vọng: Nếu giả thuyết trên là đúng, phân rã phương sai của chỉ số giá tiêu dùng sẽ chỉ ra rằng một sự thay đổi về tổng cầu có vai trò trong việc giải thích sự biến động của CPI.



PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong quá trình tiến hành nghiên cứu đề tài, nhóm tác giả đã sử dụng các phương pháp tổng hợp so sánh, phân tích định tính và phân tích định lượng.



Phương pháp tổng hợp so sánh

Nhóm tác giả đã tiến hành tổng hợp thông tin, số liệu, so sánh chéo với các kết quả nghiên cứu ở các quốc gia Châu Á; đồng thời những kết quả nghiên cứu trước đây ở Việt Nam cũng được nhóm tác giả đối chiếu để rút ra kết luận.



Phương pháp phân tích định tính

Dựa trên các cơ sở lý thuyết kinh tế học đã được chứng minh, hướng dẫn của IMF, kinh nghiệm thực tiễn áp dụng tại các quốc gia khác và điều kiện thực tế tại Việt Nam, kết hợp với tư duy logic, suy luận, phân tích biện chứng, nhóm tác giả đã đưa ra các nhận định, miêu tả và bình luận vấn đề đặt ra.



Phương pháp phân tích định lượng

Đây là phương pháp quan trọng nhất mà nhóm nghiên cứu sử dụng. Nhóm nghiên cứu sử dụng mô hình vec-tơ tự hồi quy (VAR) nhằm xác định hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá vào mức giá cả nội địa. Kể từ khi McCarthy8 (2000) sử dụng mô hình này, trong đó sử dụng chuỗi phân phối của giá cả để kiểm định tác động truyền dẫn của tỷ giá tới các mặt hàng trong nước, phương pháp này đã được chấp nhận rộng rãi bởi nhiều nhà kinh tế tại nhiều quốc gia khác nhau, ví dụ như là Leigh và Rossi 9(2002) nghiên cứu về Thổ Nhĩ Kỳ; Schwartz và Rabanal (2001) 10 nghiên cứu về Brazil; Võ Văn Minh (2010) nghiên cứu về Việt Nam, … Nhóm tác giả đã đánh giá các bộ số liệu, chuyển đổi dữ liệu thô thành dữ liệu để đưa vào mô hình VAR.

Việc phân tích và xử lý dữ liệu, nhóm tác giả sử dụng phương pháp mô tả và hai phần mềm là Eviews 6 và Microsoft Excel 2010.

Như vậy, để lượng hóa hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá vào mức giá cả nội địa, nhóm tác giả thực hiện theo trình tự sau:

+ Với bộ số liệu thô, nhóm tác giả tiến hành một số thuật toán để tính ra những chuỗi số liệu cần tìm mà không có sẵn (ví dụ: chỉ số giá nhập khẩu, tỷ giá danh nghĩa đa phương, chênh lệch sản lượng).

+ Sau đó, nhóm tác giả thực hiện việc kiểm định tính dừng của các chuỗi thời gian sử dụng trong mô hình thực nghiệm. Nếu các chuỗi này là không dừng (hay có nghiệm đơn vị), phải lấy sai phân cho tới khi chúng có tính dừng trước khi đưa vào mô hình thực nghiệm.

+ Sau đó, dựa vào lý thuyết kinh tế và các nghiên cứu sơ khởi để xây dựng thứ tự các biến trong phân rã Cholesky, những biến đứng trước có tác động ngay tức thời tới biến đứng đằng sau.

+ Bước tiếp theo, nhóm tác giả tiến hành lựa chọn độ trễ hợp lý trong mô hình dựa vào các chỉ tiêu như SIC, AIC, ... Đồng thời, tiến hành hồi quy mô hình và kiểm định nhân quả Granger nhằm trả lời câu hỏi: liệu giá trị trong quá khứ của một biến nào đó có giúp dự báo một biến khác hay không ?

+ Sau đó, nhóm tác giả tiến hành một số kiểm định nhằm xem xét tính phù hợp của mô hình.

+ Bước tiếp theo, nhóm tác giả dựa vào hàm phản ứng (Impulse Response Functions) nhằm tìm hiểu phản ứng của mức giá nội địa khi phản ứng với cú sốc tỷ giá. Từ kết quả của hàm phản ứng, nhóm tác giả tính toán hệ số truyền dẫn tỷ giá vào mức giá cả nội địa ở Việt Nam.

+ Cuối cùng, nhóm tác giả tiến hành phân rã phương sai nhằm xác định tầm quan trọng của các biến trong việc giải thích sự biến động của mức giá nội địa (cụ thể ở đây là chỉ số giá tiêu dùng CPI).

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả giới hạn tập trung phân tích làm rõ hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá tới giá cả hàng hóa nội địa tại Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2012. Số liệu nghiên cứu được thu thập theo tháng, từ tháng 1/2001 tới tháng 9/2012.



KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI

Đề tài này gồm 3 chương:



Chương 1: Tổng quan về tỷ giá và hiệu ứng truyển dẫn tỷ giá.

Trong chương này, nhóm tác giả giới thiệu tổng quan về tỷ giá và hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá, ngoài ra những nghiên cứu trước đó về đề tài này trên thế giới và tại Việt Nam cũng được nhóm tác giả đề cập.



Chương 2: Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam.

Trong chương này, nhóm tác giả trình bày về nghiên cứu thực nghiệm về hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá tại Việt Nam. Nhóm tác giả trình bày một số vấn đề cơ bản về mô hình kinh tế lượng sử dụng, các bước tiến hành chi tiết trong việc ước lượng mô hình này và việc thu thập và xử lý số liệu được thực hiện như thế nào cũng được nhóm tác giả trình bày chi tiết. Sau đó nhóm tác giả trình bày các kết quả nghiên cứu đã phát hiện được, so sánh với những kết quả tiền nghiệm trước đó ở Việt Nam và trên thế giới.



Chương 3: Kết luận và kiến nghị.

Trong chương này, nhóm tác giả chốt lại các kết quả nghiên cứu, nêu ra các đề xuất, kiến nghị. Những hạn chế của bài nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo cũng được nhóm tác giả đề cập.


CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ VÀ HIỆU ỨNG

TRUYỀN DẪN TỶ GIÁ
1.1. KHÁI QUÁT VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI

1.1.1. Khái niệm

Có nhiều khái niệm khác nhau về tỷ giá hối đoái. Theo Thomas P.Fitch (1997) 11 thì tỷ giá là giá chuyển đổi để một đồng tiền này lấy đồng tiền khác. Theo Keith Pibean (1996)12 thì tỷ giá, đơn giản là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông qua đồng tiền khác. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước, năm 2010: “Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam là giá của một đơn vị tiền tệ nước ngoài tính bằng đơn vị tiền tệ của Việt Nam”.

Như vậy tỷ giá hối đoái một mặt phản ánh sức mua của đồng nội tệ, mặt khác nó thể hiện quan hệ cung cầu ngoại hối.

1.1.2. Cơ chế tỷ giá

Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), cơ chế tỷ giá hối đoái là cách thức mà một quốc gia quản lý đồng tiền của mình liên quan đến các đồng tiền nước ngoài và quản lý thị trường ngoại hối. IMF phân loại ra ba cơ chế tỷ giá chính như sau:



  • Cơ chế neo cố định: đây là cơ chế tỷ giá giữa đồng nội tệ (thường là quốc gia nhỏ) được gắn cố định với một đồng ngoại tệ (thường là quốc gia lớn). Các quốc gia từng áp dụng cơ chế này như Estonia, Lithuania.

  • Cơ chế neo linh hoạt: trong cơ chế này tỷ giá chỉ giao động quanh một mức ngang giá được ấn định trước, trong một biên độ hẹp, khoảng 1%. Nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, đang điều hành tỷ giá theo cơ chế này.

  • Cơ chế tỷ giá thả nổi: cơ chế này bao gồm thả nổi có điều tiết và thả nổi hoàn toàn. Trong cơ chế thả nổi hoàn toàn thì chính sách tiền tệ độc lập với chính sách tỷ giá, Mỹ là quốc gia điển hình cho cơ chế tỷ giá thả nổi.

1.2. KHÁI QUÁT VỀ TRUYỀN DẪN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI

1.2.1. Khái niệm

Thuật ngữ “Exchange rate pass through” (ERPT) - truyền dẫn tỷ giá hối đoái - được sử dụng lần đầu tiên trong ngôn ngữ kinh tế bởi Steve Magee (1973)13 trong bài báo của mình khi ông giải thích sự tác động của giảm giá tiền tệ. Kể từ đó, thuật ngữ này ngày càng được chú ý đến và được sử dụng rộng rãi trong kinh tế cho đến ngày nay. Khi nhắc đến thuật ngữ này, người ta muốn đề cập đến mức độ tác động của tỷ giá hối đoái đến giá cả liên quan như: giá hàng hóa xuất khẩu, giá hàng hóa nhập khẩu, giá tiêu dùng trong nước và mức độ mở của nền kinh tế.

Do góc độ nghiên cứu khác nhau nên tồn tại rất nhiều các quan điểm khác nhau của các nhà kinh tế khi nghiên cứu về hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá hối đoái. Trong bài nghiên cứu của Olivei (2002) 14có định nghĩa tác động truyền dẫn của tỷ giá hối đoái tới giá cả là sự thay đổi của giá hàng hóa nhập khẩu theo phần trăm khi tỷ giá hối đoái danh nghĩa thay đổi 1%. Còn nghiên cứu của Mc.Carthy, J. (2000) 15 thì xem xét dưới góc độ là mức chuyển của tỷ giá và giá nhập khẩu đến giá cả sản xuất nội địa PPI và giá tiêu dùng CPI.

Trong một số bài nghiên cứu khác như các nghiên cứu của Lian (2006) 16 và Nkunde Mwase (2006)17 lại tiếp cận tác động truyền dẫn của tỷ giá theo định nghĩa là phản ánh sự thay đổi của giá cả hàng hoá nội địa khi mà tỷ giá hối đoái thay đổi 1%. Định nghĩa này cũng được nhóm tác giả sử dụng trong bài nghiên cứu, do bài nghiên cứu chủ yếu tập trung vào tác động truyền dẫn của tỷ giá hối đoái tới giá cả nội địa, nghĩa là sự thay đổi của giá cả hàng tiêu dùng theo % khi mà tỷ giá hối đoái thay đổi 1%.



1.2.2. Các kênh truyền dẫn tỷ giá vào mức giá cả nội địa

Trong nghiên cứu của Goldberg và Knetter (1997) 18, hai ông đã chỉ ra có hai kênh truyền dẫn tỷ giá đáng chú ý: kênh truyền dẫn trực tiếp và kênh truyền dẫn gián tiếp.



1.2.2.1. Kênh truyền dẫn trực tiếp

Kênh truyền dẫn trực tiếp chịu sự điều khiến bởi khu vực bên ngoài nước như giá mặt hàng nhập khẩu. Giả sử gọi E là tỷ giá một đồng nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ và P* là giá hàng hóa nhập khẩu tính theo ngoại tệ. Như vậy E.P* là giá hàng hóa nhập khẩu tính theo nội tệ. Khi mà P* cố định và E tăng (hàm ý đồng nội tệ mất giá) thì giá hàng hóa nhập khẩu tính bằng nội tệ sẽ tăng. Sự thay đổi của giá nhập khẩu được truyền dẫn vào giá tiêu dùng; ngoài ra sự thay đổi này còn truyền dẫn vào giá sản xuất, sau đó truyền vào giá tiêu dùng trong trường hợp các nhà sản xuất tăng giá mặt hàng của họ để phù hợp với sự tăng lên trong giá nhập khẩu.



1.2.2.2. Kênh truyền dẫn gián tiếp

Khi có sự mất giá của đồng nội tệ, dẫn đến giá hàng hóa trong nước trở nên rẻ hơn, và vì vậy, cầu xuất khẩu của quốc gia tăng. Điều này kích thích một sự gia tăng trong cầu về lao động, tiền lương và sau đó là tổng cầu, như một hệ quả, khiến lạm phát tăng. Tuy nhiên, tác động này chỉ có thể xảy ra trong dài hạn, khi mà trong ngắn hạn giá cả là cứng nhắc. Một điều cần lưu ý là hiện tượng đô la hóa có thể phóng đại các tác động gián tiếp do khi đồng nội tệ mất giá, giá trị của các tài sản (như là bất động sản hay các hàng hóa đắt tiền…) tính bằng đồng ngoại tệ tăng lên và điều đó sẽ dẫn đến sự gia tăng giá cả của hàng hóa tiêu dùng.



Hình 1.1. Các kênh truyền dẫn tỷ giá vào mức giá cả nội địa



Nguồn: Felix P.Hufner và Michael Schroder (2002)19

Hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào lạm phát có thể xảy ra hoàn toàn, không hoàn toàn hoặc không xảy ra tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế của từng quốc gia. Hiệu ứng xảy ra hoàn toàn là khi 1% phá giá nội tệ làm tăng ít nhất 1% giá cả nội địa. Nếu đồng nội tệ phá giá nhưng giá cả nội địa không thay đổi, thì ta nói rằng, hiệu ứng truyền dẫn không xảy ra. Trong trường hợp 1% phá giá nội tệ làm giá cả nội địa tăng ít hơn 1% thì hiệu ứng xảy ra không hoàn toàn.



1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới mức truyền dẫn tỷ giá

Có rất nhiều yếu tố quan trọng khác nhau bao gồm vi mô và vĩ mô để có thể xác định tác động truyền dẫn của tỷ giá. Theo sự phân loại của Heidi Cigan (2008) 20 thì các yếu tố này được phân thành các yếu tố vi mô và vĩ mô.



1.2.3.1. Yếu tố vi mô

An (2006) chỉ ra rằng các yếu tố vi mô bao gồm: các điều chỉnh liên quan đến định giá theo thị trường và tỷ lệ lãi suất trên giá vốn; các yếu tố phân khúc thị trường như là chi phí vận chuyển và phân phối, các hàng rào phi thuế quan và vai trò của các công ty đa quốc gia; mức độ lợi nhuận trên quy mô (là tỉ lệ mà theo đó sản lượng thay đổi khi số lượng của tất cả các đầu vào thay đổi); độ co giãn và lượng cầu hàng hóa nhập khẩu.

Krugman (1986) 21 phân tích hiện tượng điều chỉnh giá bán hàng hóa theo thị trường, theo đó, những nhà cung cấp nước ngoài, với mong muốn bảo vệ thị phần của mình, sẵn sàng chấp nhận một mức lợi nhuận biên thấp hơn, khi mà đồng tiền của nước nhập khẩu mất giá. Do đó, hiện tượng này làm giảm tác động truyền dẫn của tỷ giá hối đoái đến giá cả hàng hóa.

Burstein (2001) 22 nhận thấy rằng, chi phí phân phối hàng hóa tại địa phương (bán buôn và bán lẻ), chiếm tới 40% giá bán lẻ cuối cùng của bất kỳ hàng hóa nào. Mặt khác, các chi phí này ít phụ thuộc vào sự biến động của tỷ giá hối đoái, nó có thể làm giảm tác động truyền dẫn của tỷ giá tới giá cả hàng hóa, ngay cả với hàng hóa qua giao thương quốc tế.

Yang (1997) 23 và Olivei (2002) nghiên cứu mức độ lợi nhuận trên quy mô, đã đưa ra kết luận rằng, tác động truyền dẫn của tỷ giá có quan hệ tỉ lệ nghịch với độ co giãn của chi phí cận biên của các yếu tố đầu ra. Nếu chi phí cận biên của các yếu tố đầu ra giảm thì một lượng cầu cao hơn được kích thích bởi việc giảm giá do tỷ giá hối đoái tăng sẽ dẫn đến chi phí, và sau đó là giá cả giảm mạnh hơn, qua đó phản ánh một tỷ lệ tác động truyền dẫn lớn hơn của tỷ giá tới giá cả.

Yang (1997) cho rằng các nhà cung cấp nước ngoài thường điều chỉnh giá bán hàng hóa theo nhận thức về độ co giãn của cầu tại nước nhập khẩu. Nếu độ co dãn của cầu với giá cả cao, càng ít khả năng truyền dẫn cú sốc tỷ giá.



1.2.3.2. Yếu tố vĩ mô

An (2006) khi nghiên cứu về hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá ở 8 nước công nghiệp, chỉ ra các yếu tố vĩ mô bao gồm: tỷ lệ lạm phát và các nhận thức về sự biến động của tỷ giá hối đoái; môi trường chính sách tiền tệ; kích thước và độ mở của nền kinh tế.

Taylor (2000)24 trong một nghiên cứu của ông đã cho rằng môi trường lạm phát và sự nhận thức về xu hướng kéo dài của các cú sốc lạm phát là một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng quyết định tỷ lệ tác động truyền dẫn của tỷ giá. Chính xác hơn, các doanh nghiệp sẽ có ít khả năng điều chỉnh giá cả khi mà tỷ giá hối đoái và lạm phát được kỳ vọng sẽ tăng và không ổn định, điểm này cũng được nhấn mạnh bởi Mann (1986) và được ủng hộ bởi McCarthy (2000).

Gagnon và Ihrig (2006)25 đã chỉ ra rằng, những quốc gia mà có chính sách tiền tệ đáng tin cậy và có xu hướng chống lạm phát thường có một tỷ lệ tác động truyền dẫn của tỷ giá thấp hơn. Sự liên hệ giữa lạm phát và tác động truyền dẫn của tỷ giá hối đoái hàm ý rằng các chính sách tiền tệ cũng ảnh hưởng tới các tác động của sự thay đổi tỷ giá hối đoái tới giá cả hàng hóa nội địa.

Theo McCarthy (2000), độ mở của quốc gia, quốc gia có độ mở cửa lớn, tức là kim ngạch thương mại lớn trong tổng sản lượng, cũng có ảnh hưởng tới tác động truyền dẫn của tỷ giá. Ông đã chỉ ra rằng những quốc gia nhỏ thường sẽ phải trải nghiệm một mức tác động truyền dẫn của tỷ giá vào lạm phát cao hơn các quốc gia lớn. Điều này được lý giải bởi sự sụt giảm về lượng cầu tại các quốc gia lớn hơn khi giá cả của hàng hóa nội địa tăng do tác động của sự sụt giảm tỷ giá hối đoái dẫn đến làm giảm lượng cầu thế giới, và vì vậy làm giá cả hàng hóa thế giới giảm.



tải về 0.92 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương