Đánh giá thực hiện QH được duyệt 2003, các chỉ tiêu thực hiện huyện Thạnh Phú So sánh các chỉ tiêu QH chi tiết NTTS đến năm 2010 đã được duyệt năm 2003 huyện Thạnh Phú
Bảng 4.3. So sánh các chỉ tiêu quy hoạch chi tiết NTTS đến năm 2010 đã được duyệt năm 2003 huyện Thạnh Phú
TT
|
Chỉ tiêu
|
Các chỉ tiêu được duyệt (QH)
|
Các chỉ tiêu thực hiện (TH)
|
TH/QH (%)
|
N. 2005
|
N. 2010
|
N. 2005
|
N. 2010
|
N. 2005
|
N. 2010
|
Diện Tích (ha)
|
A
|
Tổng (I) + (II) + (III)
|
11.001
|
11.390
|
17.644
|
16.047
|
160,4
|
140,9
|
I
|
Nước mặn lợ
|
10.428
|
9.740
|
16.764
|
15.326
|
160,8
|
157,4
|
1
|
Cá
|
|
|
4
|
70
|
|
|
2
|
Nuôi tôm
|
9.418
|
8.462
|
15.871
|
14.551
|
168,5
|
172,0
|
2.1
|
Nuôi tôm chuyên
|
8.180
|
7.224
|
9.826
|
8.721
|
120,1
|
120,7
|
*
|
Nuôi QCCT
|
7.510
|
5.944
|
8.832
|
8.000
|
117,6
|
134,6
|
*
|
Nuôi TC, BTC
|
2.214
|
3.780
|
994
|
611
|
44,9
|
16,2
|
*
|
Tôm chân trắng
|
|
|
|
110
|
|
|
2.2
|
Nuôi kết hợp
|
1.239
|
1.239
|
6.045
|
5.830
|
487,9
|
470,5
|
*
|
Tôm - lúa
|
|
|
5.247
|
5.030
|
|
|
*
|
Tôm - rừng
|
1.239
|
1.239
|
798
|
800
|
64,4
|
64,6
|
3
|
Nuôi nhuyễn thể
|
1.010
|
1.278
|
889
|
705
|
88,0
|
55,2
|
*
|
Nghêu
|
950
|
1.218
|
849
|
615
|
89,4
|
50,5
|
*
|
Sò huyết
|
60
|
60
|
40
|
90
|
66,7
|
150,0
|
4
|
Nuôi cua
|
|
|
|
|
|
|
II
|
Nuôi ngọt
|
573
|
1.650
|
868
|
721
|
151,5
|
43,7
|
1
|
Nuôi cá
|
423
|
1.350
|
459
|
321
|
108,5
|
23,8
|
*
|
Nuôi cá ao
|
123
|
123
|
|
71
|
0,0
|
57,7
|
*
|
Nuôi cá lúa
|
300
|
300
|
|
250
|
0,0
|
83,3
|
|
+ trong đó: cá tra
|
|
|
|
|
|
|
2
|
Nuôi tôm
|
150
|
300
|
409
|
400
|
272,7
|
133,3
|
*
|
Tôm CX ven sông
|
70
|
70
|
|
|
0,0
|
0,0
|
*
|
Tôm CX ven mương
|
87
|
87
|
|
|
0,0
|
0,0
|
III
|
Thủy sản khác
|
|
|
12
|
|
|
|
Sản lượng (tấn)
|
B
|
Tổng (I) + (II) + (III)
|
41.439
|
55.079
|
16.369
|
14.010
|
39,5
|
25,4
|
I
|
Nước mặn, lợ
|
40.612
|
52.345
|
11.540
|
10.461
|
28,4
|
20,0
|
1
|
Cá
|
|
|
2.976
|
770
|
|
|
2
|
Nuôi tôm
|
6.612
|
12.985
|
7.249
|
5.359
|
109,6
|
41,3
|
*
|
Tôm sú
|
|
|
7.249
|
4.659
|
|
|
*
|
Tôm chân trắng
|
|
|
|
700
|
|
|
3
|
Nuôi nhuyễn thể
|
34.000
|
39.360
|
875
|
2.732
|
2,6
|
6,9
|
*
|
Nghêu
|
19000
|
24360
|
575
|
1.292
|
3,0
|
5,3
|
*
|
Sò
|
15.000
|
15.000
|
300
|
1.440
|
2,0
|
9,6
|
4
|
Nuôi cua
|
|
|
440
|
1.600
|
|
|
II
|
Nuôi ngọt
|
827
|
2.734
|
4.219
|
3.549
|
510,2
|
129,8
|
1
|
Nuôi cá
|
733
|
2.593
|
4.055
|
2.849
|
553,2
|
109,9
|
*
|
Nuôi cá ao
|
613
|
1.226
|
|
|
0,0
|
0,0
|
*
|
Nuôi cá lúa
|
120
|
240
|
|
|
0,0
|
0,0
|
2
|
Tôm càng xanh
|
94
|
141
|
164
|
700
|
174,5
|
496,5
|
*
|
Tôm CX ven sông
|
42
|
63
|
|
|
0,0
|
0,0
|
*
|
Tôm CX ven mương
|
52
|
78
|
|
|
0,0
|
0,0
|
III
|
Thủy sản khác
|
|
|
610
|
|
|
| -
Tổng diện tích NTTS của huyện so với chỉ tiêu được duyệt đều đạt
-
Năm 2005 đạt 160,4% so chỉ tiêu được duyệt
-
Năm 2010 đạt 140,9% so chỉ tiêu được duyệt
-
Năm 2005 đạt 160,8% so chỉ tiêu được duyệt
-
Năm 2010 đạt 157,4% so chỉ tiêu được duyệt
Nhìn chung các mô hình nuôi theo QH đều đạt chỉ tiêu theo QH
-
Năm 2005 đạt 151,5% so chỉ tiêu được duyệt
-
Năm 2010 đạt 43,7% so chỉ tiêu được duyệt
-
Sản lượng nuôi của huyện so với chỉ tiêu QH được duyệt không đạt đối với nuôi mặn, lợ và đạt đối với nuôi nước ngọt
-
Năm 2005 đạt 39,5% so chỉ tiêu được duyệt
-
Năm 2010 đạt 25,4% so chỉ tiêu được duyệt
-
Năm 2005 đạt 28,4% so chỉ tiêu được duyệt
-
Năm 2010 đạt 20,0% so chỉ tiêu được duyệt
-
Sản lượng nuôi ngọt đạt và vượt chỉ tiêu được duyệt
-
Năm 2005 đạt 510,2% so chỉ tiêu được duyệt
-
Năm 2010 đạt 129,8% so chỉ tiêu được duyệt
Phân tích kết quả thực hiện QH đã được duyệt năm 2003 huyện Thạnh Phú -
Kết quả đạt được
Diện tích NTTS được phân bổ theo vùng sinh thái nuôi thủy sản của huyện:
+ Vùng ngọt hóa: bố trí nuôi chuyên trong các ao, mương vườn, nuôi kết hợp ở ruộng lúa, gồm các xã: Phú Khánh, Đại Điền, Quới Điền, Tân Phong, Thới Thạnh, Hòa Lợi.
+ Vùng lợ: nuôi luân canh vụ lúa – vụ tôm, vụ tôm sú – vụ TCX kết hợp trồng lúa ở các xã Mỹ An, An Thạnh, An Thuận, An Quy, Bình Thạnh, An Điền, An Nhơn.
+ Vùng mặn: nuôi chuyên tôm biển ở các xã An Điền, An Nhơn, Giao Thạnh, Thạnh Hải, Thạnh Phong; nuôi nhuyễn thể vùng bãi triều các xã Thạnh Hải, Thạnh Phong.
Diện tích nuôi tôm càng xanh của huyện tăng liên tục theo từng năm (giai đoạn 2003 – 2007), đồng thời sản lượng thu hoạch cũng được nâng lên, đặc biệt là xã Mỹ Hưng. Đặc biệt việc áp dụng hình thức nuôi tôm càng xanh kết hợp cấy lúa 1 vụ vào mùa mưa đã mang lại hiệu quả khá cao.
Nuôi cá nước ngọt tăng nhanh về diện tích giai đoạn đầu QH (2003 – 2005), giai đoạn sau diện tích này giảm lại tuy nhiên sản lượng vẫn đạt rất cao vượt chỉ tiêu QH đề ra.
Đối với nuôi tôm vùng nước lợ, từ năm 2005 trở lại đây việc áp dụng nuôi luân canh vụ tôm sú – vụ TCX kết hợp cấy lúa đã mang lại hiệu quả cao cho các xã trong vùng, góp phần đa dạng hóa đối tượng nuôi, ổn định môi trường, hạn chế dịch bệnh cho tôm nuôi.
Những năm đầu thực hiện QH (giai đoạn 2003 – 2005), nuôi tôm sú TC khá phát triển tăng nhanh cả về diện tích và sản lượng, cho thấy vai trò chủ chốt của đối tượng này trong kinh tế thủy sản huyện Thạnh Phú. Những năm gần đây thực hiện dự án QH nuôi TCT, dựa trên sự kế thừa của QH cũ và có chỉnh sửa bổ sung, một phần diện tích tôm sú được chuyển qua nuôi TCT hoặc nuôi luân canh vụ sú - vụ thẻ.
Nuôi tôm quảng canh giai đoạn đầu có sụt giảm về diện tích nhưng những năm gần đây diện tích này tăng lên một phần do sự chuyển đổi hình thức nuôi từ thâm canh sang quảng canh.
Diện tích nuôi thủy sản của huyện có sự thay đổi qua các năm nhưng chỉ mang tính tạm thời (chủ yếu là sự chuyển đổi hình thức nuôi), tổng diện tích nuôi thủy sản thì vẫn ổn định, ít biến động về năng suất và sản lượng. NTTS vẩn giữ vững vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn của huyện nhà.
-
Những mặt không đạt được, khó khăn
Sự phát triển nhanh liên tục của các diện tích trong nhiều năm dẫn đến hiệu quả sản xuất giảm, bệnh dịch phát triển không kiểm soát kịp thời đã ảnh hưởng đến chỉ tiêu QH đề ra.
Diện tích nuôi cá giai đoạn sau năm 2005 có phần giảm lại nguyên nhân chủ yếu là do giá cả đầu vào tăng trong khi giá cá thịt không tăng, hệ thống thủy lợi phục vụ chưa tương xứng nên người nuôi không dám đầu tư phát triển tiếp.
Nuôi nhuyễn thể còn đang trong giai đoạn đầu ổn định, diện tích nuôi nghêu, sò cũng có gia tăng cùng với sản lượng nuôi nhưng do thời tiết thay đổi, nắng nóng kéo dài đã làm nghêu chết; ngoài ra do bộ máy quản lý chưa hoàn thiện và chặt chẽ nên sản lượng thu hoạch chưa nhiều.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |