LUẬn văn thạc sỹ



tải về 1.02 Mb.
trang1/7
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích1.02 Mb.
#4789
  1   2   3   4   5   6   7

LUẬN VĂN THẠC SỸ


CHUYÊN NGÀNH: TÔN GIÁO HỌC
Đề tài:

Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU

3

CHƯƠNG 1: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

9

1.1. Quản lý nhà nước và quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo

9

1.2. Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo trên thế giới và trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam thời kỳ trước năm 1990

16

CHƯƠNG 2: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

40

2.1. Thực trạng Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh (2000 – 2005)

40

2.2. Một số vấn đề đang đặt ra hiện nay

57

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

67

3.1. Phương hướng chủ yếu

67

3.2. Một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo

71

3.3. Kiến nghị

76

KẾT LUẬN

79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

82

PHỤ LỤC

87


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Tôn giáo là hiện tượng xã hội tác động hết sức phức tạp và sâu sắc đến mọi mặt của đời sống nhân loại. Hiện nay, tôn giáo ngày càng can thiệp sâu hơn vào đời sống chính trị với nhiều hình thức khác nhau; là một trong những vấn đề nhạy cảm không chỉ riêng ở Việt Nam mà cả trên thế giới; tôn giáo và dân tộc là một trong những nhân tố tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Bởi vậy, không một quốc gia nào không đặt ra vấn đề phải nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo.

Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, số lượng người theo tôn giáo khá đông (chỉ tính riêng 6 tôn giáo lớn, số tín đồ đã chiếm khoảng 1/4 dân số). Do đó, việc đề ra chính sách tôn giáo đúng đắn và thực hiện có hiệu quả chính sách đó là một vấn đề hệ trọng, không những ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp và nhu cầu của một bộ phận nhân dân, mà còn tác động không nhỏ đến tình hình chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước. Nhận thức rõ điều đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn đưa ra và thực hiện được chính sách đúng đắn về tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Nghị quyết số 24/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 16/10/1990 là một dấu mốc quan trọng về đổi mới nhận thức của Đảng về vấn đề tôn giáo. Ngày 18/6/2004 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo được ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 15/11/2004; tiếp theo, ngày 01/3/2005 Chính phủ ban hành Nghị định số 22 nhằm cụ thể hóa tư tưởng - tinh thần Pháp lệnh, hướng dẫn các ngành, các cấp thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về tôn giáo trong tình hình hiện nay. Những văn bản trên đã thể hiện những bước tiến rất quan trọng trong việc đổi mới chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về hoạt động tôn giáo; thể hiện sự tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân và đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ngày càng chặt chẽ và hiệu quả hơn.

Trong xu thế đổi mới chung của đất nước, trong những năm gần đây, sự đồng hành của các tôn giáo cùng dân tộc trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội đã tăng lên; hầu hết mọi hoạt động tôn giáo đều diễn ra trong khuôn khổ chính sách, pháp luật và tuân thủ việc quản lý của chính quyền. Nhờ vậy, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố. Tuy nhiên, hiện nay cũng còn nhiều bất cập liên quan đến công tác quản lý nhà nước, như giải quyết những hoạt động truyền đạo trái phép đã và đang diễn ra ở một số nơi, tình hình khiếu kiện về đất đai, cơ sở thờ tự của tôn giáo có xu hướng gia tăng...

Để giải quyết những bất cập này, phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo. Đây là một vấn đề hết sức cần thiết trong tình hình hiện nay.

Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị lớn nhất nước, một trung tâm về kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ, đầu mối giao lưu quốc tế, có vị trí chính trị quan trọng của cả nước. Với diện tích tự nhiên 2.095km2, dân số 6.117.000 người, có 2.383.679 tín đồ của 6 tôn giáo lớn (Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hòa hảo, Hồi giáo, Cao Đài). Trong nhiều năm qua, công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt những kết quả khả quan, đông đảo tín đồ các tôn giáo đã cùng nhân dân Thành phố góp sức xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh xứng đáng danh hiệu "Thành phố mang tên Bác - Thành phố Anh hùng". Mặt khác, do vị trí kinh tế, văn hóa - xã hội đặc biệt quan trọng hiện nay cũng như những vấn đề lịch sử để lại, thành phố này cũng là địa bàn trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch trong âm mưu thực hiện "diễn biến hòa bình" đối với nước ta nói chung, đối với Thành phố nói riêng. Trong bối cảnh đó, vấn đề tôn giáo trên địa bàn Thành phố cũng có những diễn biến phức tạp, có lúc đã gây ra những mất ổn định cục bộ. Theo Báo cáo tổng kết công tác quản lý nhà nước về tôn giáo năm 2005 của Ban Tôn giáo Thành phố Hồ Chí Minh, nhiều đoàn khách nước ngoài đến thành phố vì lý do tôn giáo, trong đó có Bộ trưởng lưu động về tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ, Chủ tịch Hội đồng lãnh đạo về nhân quyền Hoa Kỳ, Nghị viện châu Âu, Hạ nghị sĩ Christopher Smith, Phó Chủ tịch Tiểu ban Châu á - Thái Bình Dương, Hạ nghị viện Hoa Kỳ... Các đoàn này đã nhiều lần gặp gỡ chính quyền và Giáo hội các tôn giáo để tìm hiểu tình hình tôn giáo và có những tác động tiêu cực đến tình hình tôn giáo. Cụ thể, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Lê Quang Liêm và nhóm xấu trong Phật giáo Hòa Hảo ra "tuyên cáo" tái hoạt động, đòi đấu tranh cho tự do tôn giáo và vu cáo Nhà nước ta đàn áp Phật giáo Hòa Hảo, đòi công khai số tín đồ bị chính quyền bắt tạm giam. Đặc biệt, tình hình Tin lành ở Thành phố trong năm 2005 có những dấu hiệu tiềm ẩn nhiều phức tạp, trong đó đáng chú ý nhất là các thế lực thù địch trong và ngoài nước luôn tìm mọi cách liên lạc, tiếp xúc và hỗ trợ để số xấu trong đạo Tin lành hoạt động... Để hạn chế, ngăn chặn và giải quyết có hiệu quả vấn đề này nhằm góp phần tiếp tục phát huy và giữ vững những thành tựu đã đạt được theo tinh thần Nghị quyết của Bộ Chính trị Về phương hướng và nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010, bên cạnh những lĩnh vực cần phải đầu tư về kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - kỹ thuật, an ninh - quốc phòng,... công tác quản lý nhà nước về tôn giáo - nhu cầu tín ngưỡng và tinh thần của một bộ phận lớn cư dân Thành phố - cũng cần được quan tâm một cách thiết thực và cụ thể hơn.

Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài: "Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay" làm chủ đề nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ khoa học chuyên ngành Tôn giáo học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Hiện nay có nhiều công trình, nhiều bài viết về tôn giáo và ảnh hưởng của tôn giáo đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Có thể nêu một số luận văn, luận án với những đề tài như: "ảnh hưởng của những tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần ở Việt Nam" (Lê Hữu Tuấn, năm 1999), "ảnh hưởng của thế giới quan Công giáo đối với đời sống tinh thần tín đồ công giáo Việt Nam - Những vấn đề đặt ra đối với công tác an ninh hiện nay" (Mai Quang Hiện, năm 2000).

ở góc độ quản lý nhà nước về tôn giáo, có một số luận văn cao học như: "Vấn đề quản lý nhà nước hoạt động đạo Công giáo ở Đồng Nai hiện nay" (Võ Mộng Thu, 2001), "Quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở Lâm Đồng hiện nay - vấn đề và giải pháp" (Lê Minh Quang, năm 2001)...

Riêng về vấn đề tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh, Trần Chí Mỹ đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Triết học tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: "Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay" (năm 2002); Thân Ngọc Anh bảo vệ thành công luận văn cao học: "ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống tinh thần của nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay" (năm 2004).

Ngoài ra, còn có một số luận văn tốt nghiệp Đại học chính trị, như: "Thực trạng tôn giáo và công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở Cà Mau" của Vũ Bình Lương (năm 2003); "Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa - Thực trạng và giải pháp" của Lê Văn Nhuần (năm 2004); "Nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo ở Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay" của Nguyễn Thị Kim Như (năm 2004). “Quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo Công giáo trên địa bàn Huyện kim Sơn, Tỉnh Ninh Bình- Thực trạng và giải pháp” của Vũ Văn Kiểm (năm 2005)…

Các công trình trên đã đề cập nhiều khía cạnh khác nhau của tôn giáo, đặt vấn đề quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở từng lĩnh vực, từng địa phương khác nhau và có nhiều ý kiến phong phú có thể tham khảo, học tập. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình, luận văn, luận án nào đề cập trực diện vấn đề: "Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay".

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sẽ tiếp thu, kế thừa có chọn lọc thành quả nghiên cứu của các công trình đã có và các tài liệu liên quan đến luận văn này.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn

* Mục đích:

Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh, những thành tựu và hạn chế trên vấn đề này, luận văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.



* Nhiệm vụ:

- Khái quát tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội và công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh.

- Phân tích thực trạng công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh và những vấn đề đặt ra cần giải quyết.

- Nêu phương hướng, giải pháp để phát huy mặt thành tựu, hạn chế mặt thiếu sót trong công tác quản lý về hoạt động tôn giáo theo tinh thần Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định 22 của Chính phủ.



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo bao gồm việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức tôn giáo.

- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu thực tế quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh từ khi có Nghị quyết 24/NQ-TW của Bộ Chính trị Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới (ngày 16/10/1990) cho đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Đề tài được tiến hành dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đổi mới của Đảng về tôn giáo và quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo; đồng thời, xuất phát từ thực tiễn tình hình quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh những năm gần đây.

Luận văn được thực hiện dựa trên việc vận dụng phương pháp lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, so sánh và đối chiếu, kết hợp tham khảo ý kiến các chuyên gia quản lý nhà nước về tôn giáo.

6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn

- Góp phần làm rõ hơn khái niệm "quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo", chức năng, nhiệm vụ và cơ chế thực hiện, đảm bảo nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo.

- Trên cơ sở tổng kết thực tiễn quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh, luận văn đã rút ra một số kinh nghiệm có thể vận dụng vào một số địa bàn có hoàn cảnh tương tự.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Luận văn góp phần làm rõ thêm nhận thức của chúng ta về nội dung, hình thức thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành có tình hình tương tự; làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy ở hệ thống trường chính trị trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

8. Kết cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.



CHƯƠNG 1:

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO

- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Quản lý nhà nước và quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo

1.1.1. Quản lý nhà nước

Tư tưởng về xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì dân là điểm cơ bản nhất để phân biệt sự khác nhau giữa Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các hình thức nhà nước khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu quan điểm: tất cả mọi quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Việc nước là việc chung, mỗi một con Rồng, cháu Tiên, bất kỳ già trẻ, gái trai, giàu nghèo, nòi giống, tôn giáo… đều phải ghé vai gánh vác. Là công cụ quyền lực của nhân dân, là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Do đó, nhà nước có trách nhiệm quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, thông qua hệ thống thiết chế tổ chức, những quy định mang tính nhà nước và pháp quyền... nhà nước quản lý xã hội trên tất cả mọi lĩnh vực (trong đó có lĩnh vực tôn giáo) nhằm làm cho xã hội tồn tại trong trật tự và ổn định. ở Việt Nam hiện nay, trong điều kiện Đảng cầm quyền, toàn bộ tổ chức và hoạt động của Đảng phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật.

Quản lý nhà nước bao gồm hệ thống tập hợp các văn bản pháp luật nhà nước với những thiết chế bộ máy được phân công theo từng chức năng. Mức độ và hiệu quả thực hiện chức năng này rất khác nhau trong các nhà nước khác nhau cũng như ở các giai đoạn phát triển khác nhau của chính nhà nước đó.

Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội mang tính nhà nước (hay nói khác đi là quyền lực công, công quyền) nhằm tổ chức và điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người bằng quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, trong nghiên cứu khái niệm này, có hai điều cần lưu ý:

- Chủ thể quản lý là gì? Là người hay là cơ quan làm nảy sinh các tác động quản lý (Trưởng Ban tôn giáo tỉnh: cá nhân; Ban Tôn giáo tỉnh: cơ quan). Các tác động quản lý gồm điều kiện hướng dẫn, chỉ huy.

- Khách thể quản lý là gì? Là các quá trình xã hội và hoạt động của con người do con người tạo ra và chịu trách nhiệm với nó trước pháp luật. Tuy nhiên, trong khái niệm quản lý nhà nước nói chung, còn có nhiều khái niệm khác.

Cũng có thể hiểu quản lý nhà nước là quản lý thực hiện bằng các cơ quan nhà nước các cấp đối với quá trình kinh tế, chính trị, văn hóa, tinh thần... nhằm huy động sức mạnh của cả xã hội để đạt được mục tiêu của chủ thể quản lý ở cấp đó đặt ra. Hiểu sâu khái niệm này có nhiều khía cạnh liên quan, có những vấn đề cần lưu tâm:

+ Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nảy sinh khi con người hoạt động và sinh hoạt tập thể nhằm kiểm soát, điều khiển khách thể quản lý để thực hiện mục tiêu mà chủ thể quản lý và cộng đồng đặt ra.

+ Thực chất hoạt động của quản lý là xử lý mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể quản lý cũng như mối quan hệ qua lại cấu thành khách thể quản lý.

+ Quản lý là hoạt động nghề nghiệp đòi hỏi phải có trình độ, có năng lực tương xứng để thực hành chức trách quản lý; để xử lý đúng đắn các ý kiến khác; để đưa ra các quyết định đúng đắn, đúng lúc, để quy tụ sức mạnh cộng đồng.



1.1.2. Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo

Khái niệm quản lý nhà nước đối với tôn giáo:

“Quản lý nhà nước đối với tôn giáo” là một dạng quản lý nhà nước mang tính chất nhà nước, nó tổ chức và điều chỉnh quá trình hoạt động tôn giáo của các pháp nhân tôn giáo và các thể nhân tôn giáo bằng quyền lực nhà nước. Trong khái niệm này có hai điểm cần lưu ý: “pháp nhân tôn giáo” là những tổ chức giáo hội từ cơ sở trở lên đã được nhà nước cho phép hoạt động, có tư cách pháp nhân, được nhà nước bảo hộ; “thể nhân tôn giáo” là các tín đồ, chức sắc, nhà tu hành của các tổ chức tôn giáo được nhà nước công nhận và cho phép hoạt động bình thường (không thuộc diện đó thì không phải là pháp nhân tôn giáo).

Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo được thực hiện bằng các cơ quan quản lý nhà nước các cấp đối với toàn bộ quá trình hoạt động tôn giáo nhằm huy động sức mạnh của cộng đồng có tín ngưỡng, tôn giáo để đạt mục tiêu của chủ thể cầm quyền ở cấp đó đặt ra.

Nghiên cứu khái niệm trên cần chú ý ba đặc điểm sau:

+ Quản lý nhà nước được thực hiện trên nhiều cấp độ, nhiều bộ phận khác nhau (Chính phủ, Bộ, Ban Tôn giáo Chính phủ, Ban Tôn giáo tỉnh, Ban Tôn giáo huyện, dọc và ngang).

+ Đại diện cho các cấp độ và các bộ phận cấu thành của quản lý nhà nước đối với tôn giáo là chủ thể cầm quyền cấp tương ứng (Chính phủ có Ban Tôn giáo Chính phủ; tỉnh, thành có Ban Tôn giáo tỉnh, thành).

+ Chủ thể cầm quyền là nhân dân nhưng đại diện là Đảng, Nhà nước.

Đối tượng quản lý nhà nước về tôn giáo bao gồm hoạt động của các tín đồ, chức sắc, nơi thờ tự, đồ dùng việc đạo, cơ sở vật chất và xã hội của tôn giáo và địa điểm sinh hoạt, gồm 5 mặt quản lý:

- Ở mỗi tín đồ đều có hai mặt thống nhất với nhau: mặt công dân và mặt tín đồ (thống nhất chứ không đồng nhất). Đã là tín đồ trước hết phải là công dân, bình đẳng trước pháp luật, có quyền và nghĩa vụ công dân, còn mặt tín đồ thì có đặc điểm sau: là người có tín ngưỡng, tôn giáo, có niềm tin, tình cảm, đời sống tâm linh ở nhiều mức độ khác nhau (Việt Nam 80% dân số có đời sống tâm linh, 20% có tôn giáo), có nghĩa vụ và quyền lợi do Giáo hội quy định (trong giáo luật, trong lễ nghi - đó là cái riêng của họ). Trong quản lý phải lưu ý hai điểm này.

- Ở mỗi chức sắc tôn giáo có sự thống nhất giữa các mặt sau đây, nhưng nó cũng không đồng nhất):

+ Mặt công dân, có hai đặc điểm: phần lớn họ là người chuyên lo việc đạo, không trực tiếp lao động sản xuất, họ bình đẳng trước pháp luật về quyền và nghĩa vụ công dân.

+ Mặt tín đồ, họ được giáo hội bổ nhiệm các phẩm trật khác nhau, có quyền uy khác nhau tùy theo phẩm trật, đạo hạnh, năng lực hành đạo.

+ Mặt hành đạo, tùy thuộc vào giáo hội bổ nhiệm, các phẩm trật khác nhau, họ có quyền uy khác nhau trong hành đạo.

+ Mặt đại diện, họ đại diện ở những mức độ khác nhau trong sứ mệnh của mình ở từng tôn giáo khác nhau (thay mặt cho Đấng tối cao, Giáo hoàng, Giáo xứ...).

Về mặt quản lý, họ có đặc điểm: chăn dắt tín đồ thông qua quá trình là mục vụ, họ quản lý hành chính đạo theo thẩm quyền (giáo phận, giáo xứ...). Có sự thống nhất giữa 5 mặt nhưng không đồng nhất.

- Đặc điểm nơi thờ tự phải thống nhất giữa bốn mặt sau:

Mặt vật chất: xây dựng theo kiểu kiến trúc nào.

Mặt tôn nghiêm: nơi thờ tự phải tôn nghiêm. Vì đây là nơi hiện diện của thần quyền, nơi bái vọng, nơi diễn ra hoạt động các nghi lễ, nên phải sạch sẽ, văn minh. Khi họ đề nghị cho tu bổ chính quyền phải tạo điều kiện.

Mặt trụ sở: nơi diễn ra các hoạt động hành chính đạo.

Mặt sinh hoạt cộng đồng: khác với trụ sở là nơi diễn ra các lễ hội, nghi lễ, hoạt động chung, nơi sinh hoạt hội đoàn.

Quản lý nhà nước phải chú ý bốn mặt này.

- Đặc điểm sinh hoạt tôn giáo: (đối tượng quản lý thứ tư) có hai đặc điểm thống nhất sau: có thể do thể nhân tôn giáo thực hiện đơn giản hoặc do pháp nhân tôn giáo thực hiện; diễn biến trong hoạt động tôn giáo theo lề luật và tùy theo lễ nghi nhất định nào đó (lễ thường khác lễ trọng, các phép bí tích, các việc bồi linh khác nhau...).

- Đặc điểm về đồ dùng việc đạo: Đồ dùng việc đạo có sự thống nhất hai mặt: Mặt vật chất (gồm kinh sách, tượng, bài vị, tranh ảnh, trống kèn, chuông mõ... được làm bằng các chất liệu vật chất) và mặt biểu đạt (tức là biểu đạt một nội dung nào đó gắn với sinh hoạt tôn giáo).

- Mục tiêu và nguyên tắc quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo:

+ Mục tiêu quản lý nhà nước đối với tôn giáo:

Mục tiêu tổng quát: góp phần tích cực vào xây dựng những giá trị văn hóa và chuẩn mực xã hội tốt đẹp, tạo nên những quan hệ lành mạnh giữa con người với con người (tôn giáo là thành tố của văn hóa). Thang giá trị mà tôn giáo để lại rất lớn, quản lý nhà nước là phát huy thêm những giá trị chuẩn mực tốt đẹp, nổi trội - nhất là giá trị đạo đức.

Mục tiêu cụ thể gồm 6 bình diện sau đây:

- Bảo đảm nhu cầu tín ngưỡng thuần túy của quần chúng được giải quyết một cách hợp lý.

- Bảo đảm cho mọi chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước được thực hiện một cách nghiêm minh.

- Phát huy nhân lực, khắc phục các tệ nạn xã hội và bảo đảm ổn định về mặt xã hội, góp phần cho ổn định chính trị.

- Góp phần vào phát triển văn hóa, khoa học, nghệ thuật và phục vụ cho cuộc sống tốt đẹp của con người.

- Góp phần tạo lập và hình thành lối sống mới, xây dựng giá trị mới phù hợp bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại.

- Nhằm ngăn ngừa sự lạm dụng tín ngưỡng, tôn giáo đi ngược lợi ích dân tộc và phát triển xã hội nói chung.

(Mỗi một mục tiêu là một bình diện xã hội).

+ Năm nguyên tắc cơ bản trong quản lý nhà nước đối với tôn giáo:

Nguyên tắc 1: Bảo đảm cho mọi công dân được bình đẳng trước pháp luật.

Nguyên tắc 2: Bảo đảm tự do tín ngưỡng của công dân.

Nguyên tắc 3: Thống nhất giữa sinh hoạt tôn giáo và bảo tồn các giá trị văn hóa.

Nguyên tắc 4: Bảo đảm sự thống nhất và hài hòa lợi ích cá nhân, cộng đồng, quốc gia, xã hội.

Nguyên tắc 5: Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích hợp pháp của tín đồ phải được bảo đảm; những hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo nhằm chống lại nhà nước, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, phá hoại sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân và hoạt động mê tín dị đoan đều bị xử lý theo pháp luật.

- Cơ chế thực hiện, điều kiện đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo phải căn cứ vào Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã được Uỷ ban thường vụ Quốc Hội thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2004 và Nghị định số 22 của Chính phủ về “Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo” ngày 1 tháng 3 năm 2005.

Thông thường trước đây, trong tổng kết công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, Ban Tôn giáo Tỉnh, Thành thường cụ thể hóa 9 nội dung, sau Nghị định 22 có thay đổi, chia thành ba nhóm nội dung có đặc thù riêng:

- Quản lý nhà nước đối với lễ hội tín ngưỡng.

- Quản lý nhà nước đối với tổ chức tôn giáo.

- Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo.



Nội dung thứ nhất: Xét duyệt và công nhận các pháp nhân tôn giáo. Đây là quá trình nhà nước xem xét đối với trường hợp cụ thể và tùy thuộc vào tôn chỉ, mục đích, đường hướng hoạt động của tổ chức pháp nhân tôn giáo đó.

Nhà nước phân cấp và xem xét công nhận pháp nhân tôn giáo đó.

Các pháp nhân tôn giáo - từ tổ chức giáo hội cơ sở trở lên - nhà nước cho phép mới được hoạt động; các thể nhân tôn giáo do các giáo hội, tổ chức tôn giáo công nhận.

Nội dung thứ hai: Xét duyệt quá trình xây dựng và sửa chữa cơ sở thờ tự (đây là nội dung quản lý nhà nước phải nắm, căn cứ vào quy định của pháp luật).

UBND cấp tỉnh, thành thuộc Trung ương quản lý quyền cấp giấy sở hữu ruộng đất cho các cơ sở tôn giáo.

Những cơ sở mà tôn giáo sử dụng đất nhưng đang có tranh chấp thì chỉ được cấp chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi giải quyết tranh chấp.

Quá trình xây sửa nơi thờ tự phải tuân thủ quy định hiện hành trong pháp luật về đất đai, quy định xây dựng cơ bản.

Trường hợp các cơ sở tôn giáo hoạt động hợp pháp được cơ quan có thẩm quyền cho phép xây dựng mới thì UBND tỉnh xem xét và quyết định.

Các chức sắc tôn giáo, nhà tu hành muốn chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì phải bảo đảm quy định theo Điều 711 của Bộ luật dân sự và Nghị định 17/CP/1999 của Chính phủ.



Nội dung thứ ba: Xét duyệt chương trình mục vụ thường xuyên và đột xuất.

Những chương trình sinh hoạt thường xuyên, ổn định đăng ký 1 năm 1 lần.

Sinh hoạt đột xuất, quy mô lớn phải xin ý kiến chính quyền.

Nội dung thứ tư: Xét duyệt quá trình đào tạo chức sắc: có quy định chung và quy định cụ thể.

Quy định chung: đào tạo chức sắc phải tuân thủ theo khuôn khổ pháp luật, Chính phủ, Bộ Giáo dục - Đào tạo và UBND các địa phương theo tinh thần Nghị định 26.

Quy định cụ thể có những điểm sau:

Mở trường đào tạo Đại chủng viện Công giáo, cao cấp Phật học, cơ bản Phật học, trường Thánh kinh của Tin lành do Trung ương quyết định, phải xin ý kiến Chính phủ.

Xem xét chủng sinh, tăng ni sinh do tỉnh, thành chịu trách nhiệm (tư cách công dân).

Các lớp bồi dưỡng hằng năm (như cấm phòng, bồi linh, an cư kiết hạ) do tỉnh, thành duyệt. Đi tu nghiệp nước ngoài do Trung ương quản lý.



Nội dung thứ năm: Xét duyệt quá trình sản xuất, lưu thông các đồ dùng việc đạo, có quy định rất cụ thể như in, xuất nhập khẩu, các quy định về vi phạm... Nguyên tắc chung là phải chấp hành quy định chung về các sản phẩm xuất nhập khẩu văn hóa. Vi phạm thì bị xử lý tùy mức độ: phạt tiền (điều 13, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chánh), tước quyền sử dụng giấy phép (điều 14), tịch thu tang vật (điều 15), cảnh cáo (điều 22), truy cứu trách nhiệm hình sự (điều 215, Bộ Luật Hình sự)

Nội dung thứ sáu: Xét duyệt một số việc hành chính đạo, có những quy định cụ thể: Việc tách và lập họ đạo do Ban Tôn giáo tỉnh thành quyết định.

Tấn phong chức sắc: tùy theo trường hợp, phải có sự thỏa thuận giữa Nhà nước Trung ương và các tỉnh, thành.

Điều chuyển chức sắc trung, cao cấp phải có sự thỏa thuận của Giáo hội và Nhà nước.

Đăng ký mẫu con dấu và làm con dấu công an tỉnh, thành xem xét.

Thành lập Hội đoàn phải tuân thủ theo pháp luật.

Nội dung thứ bảy: Xét duyệt các hoạt động xã hội từ thiện của tôn giáo.

Theo quy định chung, khuyến khích hoạt động của các tổ chức tôn giáo theo hướng xã hội từ thiện. Đây là nội dung quan trọng và đặc biệt của hầu hết các tôn giáo, là lãnh vực nhạy cảm đòi hỏi phải hết sức tế nhị, thận trọng. Chủ trương chung là khuyến khích giáo sĩ, tín đồ tích cực tham gia.



Nội dung thứ tám: Xử lý các khiếu nại, khiếu tố liên quan tôn giáo và vi phạm chính sách tôn giáo (đây là một trong những nội dung hết sức phức tạp và tế nhị).

Ở các địa phương phải dựa vào Pháp lệnh khiếu nại tố cáo và Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo để giải quyết; cần hết sức thận trọng, có lý có tình, chú ý ngăn chặn khả năng dẫn đến điểm nóng tôn giáo (điểm nóng thông thường có hai yếu tố chính: cán bộ ta làm sai, có phần tử chủ mưu đứng sau kích động).



Nội dung thứ chín: Xét duyệt các hoạt động quốc tế và đối ngoại của tôn giáo, phải tuân thủ theo pháp luật, căn cứ các điều 22,23,25,26 Nghị định 26 của Chính phủ.

Về nguyên tắc, phải tuân thủ chính sách đối ngoại nói chung. Người nước ngoài là tín đồ đang cư trú ở Việt Nam không được hoạt động truyền đạo. Tín đồ chức sắc ra nước ngoài vì lý do tôn giáo phải được xem xét từng trường hợp. Tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài vào Việt Nam hoạt động ở những lĩnh vực ngoài tôn giáo (kinh tế, ngoại giao, văn hóa) không được tổ chức điều hành các hoạt động tôn giáo.




tải về 1.02 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương