Chương 3
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TẬP QUÁN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC
VỤ VIỆC DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG TỚI VẤN ĐỀ ÁP DỤNG TẬP QUÁN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM
3.1.1. Cơ cấu tổ chức, các nguyên tắc tổ chức, hoạt động và sự ảnh hưởng tới việc áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ, việc dân sự của Tòa án nhân dân
Tại nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, TAND được tổ chức thành một hệ thống từ Trung ương tới cấp huyện và tương đương. Kể từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời cho đến nay, hệ thống TAND ngày càng được hoàn thiện. Hiến pháp năm 2013 ra đời đã tạo cơ sở pháp lý cho việc củng cố hơn nữa hệ thống TAND. Tuy nhiên, việc tổ chức, hoạt động của TAND cho đến thời điểm này về cơ bản vẫn căn cứ vào bản Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Luật Tổ chức TAND hiện hành.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) và Luật Tổ chức TAND năm 2002, các Tòa án trong hệ thống TAND là các cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Hệ thống TAND gồm các Tòa án:
1. Tòa án nhân dân tối cao;
2. Các TAND tỉnh,thành phố trực thuộc trung ương;
3. Các TAND huyện,quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
4. Các Tòa án quân sự;
5. Các Tòa án khác do luật định.
Ngoài ra, trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt. Theo quy định, các Tòa án trong hệ thống TAND có chức năng xét xử; có nhiệm vụ xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.
Hiến pháp năm 2013 khi quy định về TAND đã ghi rõ: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định”. (Điều 102).
Trong cơ cấu tổ chức, mặc dù có TAND các cấp và các Tòa án quân sự, song các Tòa án quân sự chỉ có thẩm quyền xét xử lĩnh vực hình sự và trong trường hợp bị cáo là quân nhân tại ngũ hoặc những vụ án khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, đối với các vụ việc dân sự, thẩm quyền luôn thuộc về TAND các cấp, không có sự tham gia của Tòa án quân sự.
Về mặt hoạt động, để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, TAND dựa trên nhiều nguyên tắc hiến định và Luật định (đây vừa là nguyên tắc trong tổ chức vừa là nguyên tắc trong hoạt động). Các nguyên tắc này đã được trình bày ở chương 1 của luận án.
Cơ cấu tổ chức và những nguyên tắc tổ chức, hoạt động như đã nêu trên đã có những ảnh hưởng tích cực tới việc áp dụng tập quán trong xét xử dân sự của TAND.
Thứ nhất, những ảnh hưởng tích cực từ cơ cấu tổ chức hệ thống TAND: Việc tổ chức TAND theo các cấp hành chính là cấp huyện, cấp tỉnh và cấp trung ương, song việc xét xử lại thực hiện theo chế độ hai cấp xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm) tạo ra cơ chế sáng tạo cho TAND cấp dưới trong áp dụng pháp luật và áp dụng tập quán, đồng thời tạo cơ chế giám đốc, kiểm tra, đảm bảo pháp chế cho hoạt động áp dụng pháp luật và áp dụng tập quán của các Tòa án cấp dưới bằng hoạt động của Tòa án cấp trên. Đặc biệt, trong hệ thống TAND có TAND tối cao là cơ quan thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn hướng dẫn các TAND địa phương áp dụng thống nhất pháp luật, bao gồm cả việc áp dụng tập quán. Đồng thời, TAND tối cao tổng kết kinh nghiệm xét xử, giám đốc việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm; xét xử tái thẩm, giám đốc thẩm theo thẩm quyền để đảm bảo hoạt động này được thực hiện nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật. Do vậy, khi phát sinh những trường hợp áp dụng tập quán để giải quyết các vụ việc dân sự, các bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới sẽ luôn có cơ chế đảm bảo tính đúng đắn thông qua vai trò của Tòa án cấp trên và TAND tối cao.
Thứ hai, những ảnh hưởng tích cực từ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TAND: Chẳng hạn như: Nguyên tắc xét xử có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân trong trường hợp lựa chọn được những Hội thẩm am hiểu về văn hóa, phong tục, tập quán sẽ góp phần hỗ trợ cho thẩm phán khi đưa ra những phán quyết có áp dụng tập quán; Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng bên cạnh ý nghĩa về mặt pháp lý còn tạo ra một kênh tiếp cận thông tin để các bên trao đổi với nhau về những giải pháp thấu tình đạt lý, phù hợp phong tục tập quán; Nguyên tắc xét xử công khai không những đảm bảo dân chủ, mà còn làm hình thành nên cơ chế kiểm tra sự đồng thuận của nhân dân về một tập quán nào đó khi được viện dẫn áp dụng.
Tuy nhiên, với cơ cấu tổ chức và những nguyên tắc như trên, không phải không có những bất cập đối với việc áp dụng tập quán trong xét xử dân sự. Ví dụ như với tư duy và thực tiễn áp dụng về nguồn pháp luật đang tồn tại hiện nay là chỉ áp dụng quy định có trong các văn bản quy phạm pháp luật cùng với tâm lý ngại chạm vào việc áp dụng tập quán, thì sẽ dẫn tới hậu quả là vô hiệu hóa nguyên tắc áp dụng tập quán.
Vấn đề thực hiện chế độ bổ nhiệm Thẩm phán đặt các thẩm phán trước thách thức về việc xem xét bổ nhiệm lại sau mỗi nhiệm kỳ, các thẩm phán có thể vì e ngại án bị hủy, sửa… mà không áp dụng tập quán. Bởi vì, nếu không áp dụng tập quán để xét xử trong lúc thiếu quy phạm pháp luật thành văn có thể không phải chịu trách nhiệm gì, nhưng nếu áp dụng tập quán mà không phù hợp với quan điểm của cấp xét xử phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm thì sẽ có ảnh hưởng nhất định tới việc tái bổ nhiệm. Hơn nữa, trong hệ thống các nguyên tắc cho thấy không có nguyên tắc nào ràng buộc Tòa án phải giải quyết tranh chấp trong trường hợp tranh chấp không thuộc thẩm quyền của bất cứ cơ quan nhà nước nào khác hoặc không có quy định của pháp luật để giải quyết (nói cách khác, không có nguyên tắc "cấm từ chối xét xử").
3.1.2. Khái quát thực trạng giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án nhân dân các cấp ở Việt Nam và sự ảnh hưởng từ quy định cho phép áp dụng tập quán
Từ năm 1992 với sự ra đời của Hiến pháp, đạo luật này đã đặt cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của TAND các cấp. Tiếp theo sau đó, năm 1995 Quốc hội ban hành Bộ luật dân sự đầu tiên, đặt nền móng cho một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện điều chỉnh các quan hệ dân sự. Từ năm 2006 đến nay, với sự ra đời và có hiệu lực của nhiều văn bản có giá trị pháp lý cao điều chỉnh hoạt động xét xử dân sự như Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011), Bộ luật dân sự năm 2005, Luật thương mại năm 2005... và nhiều văn bản liên quan khác, hoạt động xét xử dân sự của TAND đã ngày càng đảm bảo về số lượng và nâng cao về chất lượng.
Theo Báo cáo tham luận của TAND tối cao tại Hội nghị toàn quốc tổng kết thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 trình bày ngày 16/4/2013, từ ngày 01-9-2000 đến ngày 30-9-2011, TAND các cấp đã thụ lý 3.143.746 vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính, hôn nhân và gia đình. Tỷ lệ vụ án dân sự được giải quyết trên số vụ án đã thụ lý đạt trên 80%. Theo các văn bản khác như Báo cáo số 20/BC-TANDTC ngày 01/9/2010 của TAND tối cao tổng kết 5 năm thi hành Bộ luật tố tụng dân sự và các Báo cáo của TAND tối cao về công tác xét xử của TAND các cấp hàng năm, án bị hủy, sửa dao động, tăng giảm hàng năm nhưng các năm sau có xu hướng giảm so với những năm trước. Tham khảo Bảng 3.1 dưới đây từ năm 2006 để thấy rõ hơn thực trạng này:
Bảng 3.1: Tổng quan tình hình thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại từ năm 2006 đến năm 2012
|
Vụ, việc thụ lý
|
Vụ, việc
giải quyết
|
Tỷ lệ giải
quyết/ thụ lý
|
Tỷ lệ án
bị hủy
|
Tỷ lệ án
bị sửa
|
1- Năm 2006
|
Dân sự
Hôn nhân và gia đình
|
Tổng hợp
|
160.979
|
143.580
|
89%
|
1,4%
|
3,8%
|
Sơ thẩm
|
143.404
|
127.137
|
88,6%
|
2%
|
|
Phúc thẩm
|
16.926
|
15.856
|
93%
|
|
|
Giám đốc thẩm, tái thẩm
|
649
|
587
|
89%
|
|
|
Kinh doanh, thương mại, phá sản
|
Tổng hợp
|
2.866
|
2.274
|
79,4%
|
2%
|
3%
|
Sơ thẩm
|
2498
|
1978
|
79,2%
|
|
|
Phúc thẩm
|
347
|
280
|
80,7%
|
|
|
Giám đốc thẩm, tái thẩm
|
21
|
16
|
76,2%
|
|
|
2- Năm 2007
|
Dân sự
|
Tổng hợp
|
105.358
|
93.090
|
88,4%
|
|
|
Sơ thẩm
|
89.944
|
78.528
|
87,3%
|
|
|
Phúc thẩm
|
14.724
|
13.932
|
94,6%
|
|
|
Giám đốc thẩm, tái thẩm
|
690
|
630
|
91,3%
|
|
|
Hôn nhân và gia đình
|
Tổng hợp
|
77.561
|
73.174
|
94,3%
|
|
|
Sơ thẩm
|
74.484
|
70.204
|
94,3%
|
|
|
Phúc thẩm
|
2.936
|
2.840
|
96,7%
|
|
|
Giám đốc thẩm, tái thẩm
|
141
|
130
|
92,2%
|
|
|
Kinh doanh, thương mại
|
Tổng hợp
|
4.798
|
4.206
|
87,7%
|
|
|
Sơ thẩm
|
4.287
|
3.783
|
88,2%
|
|
|
Phúc thẩm
|
485
|
401
|
82,7%
|
|
|
Giám đốc thẩm, tái thẩm
|
22
|
26
|
84,6%
|
|
|
3- Năm 2008
|
Dân sự
|
Tổng hợp
|
100.593
|
88.454
|
88%
|
|
|
Sơ thẩm
|
85.893
|
74.562
|
86,8%
|
|
|
Phúc thẩm
|
13.887
|
13.213
|
95,1%
|
|
|
Giám đốc thẩm, tái thẩm
|
759
|
679
|
89,5%
|
|
|
Hôn nhân và gia đình
|
Tổng hợp
|
83.856
|
79.143
|
94,4%
|
|
|
Sơ thẩm
|
80.770
|
76.152
|
94,3%
|
|
|
Phúc thẩm
|
2.975
|
2.885
|
97%
|
|
|
Giám đốc thẩm, tái thẩm
|
111
|
106
|
95,5%
|
|
|
Kinh doanh, thương mại
|
Tổng hợp
|
6.034
|
5.343
|
88,5%
|
|
|
Sơ thẩm
|
5.384
|
4.748
|
88,2%
|
|
|
Phúc thẩm
|
626
|
538
|
82,7%
|
|
|
Giám đốc thẩm, tái thẩm
|
24
|
21
|
87,5%
|
|
|
4- Năm 2009
|
Dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại
|
Tổng hợp
|
214.174
|
194.358
|
90,7%
|
1,55%
|
2,64%
|
Sơ thẩm
|
|
177.417
|
|
|
|
Phúc thẩm
|
|
15.893
|
|
|
|
Giám đốc thẩm, tái thẩm
|
|
1.048
|
|
|
|
5- Năm 2010
|
Dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại
|
Tổng hợp
|
215.741
|
194.372
|
90%
|
1,6%
|
2%
|
Sơ thẩm
|
|
180.022
|
|
|
|
Phúc thẩm
|
|
13.032
|
|
|
|
Giám đốc thẩm, tái thẩm
|
|
1.318
|
|
|
|
6- Năm 2011
|
Dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại
|
Tổng hợp
|
246.915
|
222.386
|
90%
|
1,6%
|
2%
|
Sơ thẩm
|
|
207.230
|
|
|
|
Phúc thẩm
|
|
13.730
|
|
|
|
Giám đốc thẩm, tái thẩm
|
|
1.426
|
|
|
|
7- Năm 2012
|
Dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại
|
Tổng hợp
|
271.306
|
246.215
|
90%
|
1,6%
|
2%
|
Sơ thẩm
|
|
231.546
|
|
|
|
Phúc thẩm
|
|
13.484
|
|
|
|
Giám đốc thẩm, tái thẩm
|
|
1.185
|
|
|
|
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |