LỜI ĐẦu sách giáo lý của đạo Phật, xưa nay được kết hợp và lưu giữ trong Tam tạng. Tam tạng là tạng kinh, tạng luật và tạng luận. Tạng kinh và tạng luật do chính kim khẩu đức Phật nói ra



tải về 270.53 Kb.
trang1/4
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích270.53 Kb.
#29982
  1   2   3   4

DUY THỨC HỌC YẾU LUẬN-GIÁO ÁN CAO ÐẲNG PHẬT HỌC-BIÊN DỊCH PHÁP SƯ TỪ THÔNG


LỜI ĐẦU SÁCH

Giáo lý của đạo Phật, xưa nay được kết hợp và lưu giữ trong Tam tạng. Tam tạng là tạng kinh, tạng luật và tạng luận. Tạng kinh và tạng luật do chính kim khẩu đức Phật nói ra. Tạng luận là do đệ tử Phật, những vị đa văn, túc trí có thực tu, thực chứng, sáng tác, nhằm triển khai cái thâm nghĩa, huyền nghĩa, mật nghĩa vi diệu trong lời Phật dạy.

Toàn bộ giáo lý Phật có ba tạng như vậy, khiến cho có một nhóm người hiểu lầm rằng: Học luậtGiới học, học KinhĐịnh học, học LuậnTuệ học, tức là họ đem "Tam tạng" gắn cứng, cột ghì vào "Tam vô lậu học" cặp nào theo cặp nấy. Họ tưởng rằng đó là một "phát minh", "một trí tuệ mới". Sự thật, không phải như vậy. Người có thực nghiệm, thực chứng, qua sự thực tu hành người ta không dám nói như vậy đâu !

Quyển sách này có nhan đề: Duy Thức Học. Tác giả là Ngài Vasubandhu (Trung Hoa) dịch là Thế Thân hoặc cũng có chỗ dịch là Thiên Thân.



Thế Thân truyện ký chép: Thế Thân ra đời sau Phật nhập Niết bàn khoảng 900 năm (khoảng thế kỷ thứ ba) ở Bắc Thiên trúc. Thủơ mới xuất gia, Ngài tu học theo giáo phái Hữu bộ Tiểu thừa. Thời gian này, Ngài sáng tác bộ Luận A Tỳ Đạt Ma Câu Xá nổi tiếng, làm sáng danh cho phái Hữu bộ.

Thế Thân có người anh tên Vô Trước, anh em cùng xuất gia tu học. Nhưng người anh thì chuyên tu học Đại thừa, thấm nhuần sâu sắc giáo nghĩa Đại thừa. Trong những tháng ngày đàm đạo, dần dần Ngài Vô Trước chuyển hóa được nhận thức của vị sư em. Thế Thân nhận thấy được chỗ thậm thâm vi diệu, cao siêu cứu cánh của giáo lý liễu nghĩa Đại Thừa. Tương truyền rằng: Khi tiếp nhận nguồn giáo lý liễu nghĩa thượng thừa, vi diệu, Thế Thân, ăn năn về những năm tháng mình đã xiển dương giáo lý Tiểu thừa. Ngài có định cắt lưỡi tạ tội. Vô Trước Bồ tát nói: Lưỡi tự nó không có tội gì. Trước em đã dùng lưỡi và ngòi bút xiển dương giáo nghĩa Tiểu thừa, giờ đây em cũng dùng lưỡi và ngòi bút để xiển dương  chánh giáo Đại thừa là đủ rồi. Cắt lưỡi có đem lại lợi lạc cho ai. Từ đó, Ngài Thế Thân chuyên sáng tác và truyền bá tư tưởng Đại thừa qua các tác phẩm Duy Thức Học.

Các tác phẩm của Thế Thân Bồ tát thường được giảng dạy trong chương trình Phật học của các trường Phật học là:



  • Tiểu thừa: A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận.

  • Đại thừa: Duy Thức Nhị Thập Tụng.

  • Duy Thức Tam Thập Tụng Luận.

  • Đại thừa Bách Pháp Luận.

Và cũng tương truyền rằng: Hồi còn tu theo Hữu bộ Tiểu thừa, Ngài sáng tác có đến 500 bộ luận. Sau khi hướng về Đại thừa, Ngài cũng sáng tác đến 500 bộ luận nữa. Vì vậy, người đời tôn Ngài với danh hiệu "Thiên Bộ Luận Sư"

Yếu luận. Duy Thức Học Yếu Luận. Do bỉ nhân tôi biên dịch. Soạn theo lối giáo án để triển khai, cho nên trong đây: Có phần phiên dịch, phần giải thích thuật ngữ, phần yếu luận để cho người đọc dễ hiểu, người học dễ nhớ rõ. Đã gọi là "yếu luận" cho nên không luận rộng, không viết dài mà viết súc tích, thậm chí "đề cương"!

Mong những tấm lòng thông cảm, khi các vị có trong tay quyển "Duy Thức Học Yếu Luận" này.

Viết tại Thao Hối Am
Mùa Đông, năm Kỹ Mão, tháng 10 năm 1999
H. T. THÍCH TỪ THÔNG

DẪN NHẬP



Duy Thức Học, môn nghiên cứu tìm hiểu nguyên ủy của hiện tượng vạn pháp để xác lập một luận cứ, cho người tìm hiểu học và đọc có thể biết được. Duy Thức Học là phương tiện chỉ nam hướng dẫn phương pháp nhận thức về mặt cụ thể của vạn pháp và khái niệm tư duy bên mặt trừu tượng. Do vậy, Duy Thức Học, còn gọi là Pháp Tướng Duy Thức Học, ý nghĩa đầy đủ rõ ràng hơn.

Trước đây hơn hai mươi năm, tôi có soạn một số giáo trình để giảng dạy Duy Thức Học, cho tới năm nay, tôi có ân hận về việc viết lách, diễn đạt Duy Thức Học theo nhận thức, kiến giải mà hơn hai mươi năm trước mình đã làm. Tôi có thể sám hối như Luận chủ tổ sư Duy Thức Học, Thiên Thân Bồ tát đã từng sám hối cách đây gần hai ngàn năm !

Thiên Thân Bồ tát tạo luận Duy Thức Học nhằm hổ trợ cho nền giáo lý Vô ngã của đạo đức Phật được đậm nét hơn, sáng tỏ hơn, rõ ràng hơn và đến tột đỉnh cao: "Vô ngã là chân lý của vũ trụ, nhân sinh quan trong đạo Phật". Đó là mục tiêu tìm hiểu, lý giải cho những ai muốn học, muốn tu theo tôn chỉ của Pháp Tướng Duy Thức Học.

Đại Thừa Bách Pháp Luận, có thể nói đây là chìa khóa vàng để mở cửa vào tòa nhà Duy Thức Học mà tác giả bộ luận này vẫn là Thiên Thân Bồ tát

"Như Thế Tôn Ngôn: Nhất Thiết Pháp Vô Ngã"

Đó là câu nhập đề trực khởi của Luận chủ có nghĩa là Luận chủ tạo ra luận Đại Thừa Bách Pháp hoàn toàn căn cứ lời dạy của đức Phật mà triển khai. Triển khai luận Đại Thừa Bách Pháp, triển khai hệ giáo lý Đại thừa,  triển khai tư tưởng Duy Thức Học, nhằm làm sáng tỏ chân lý Vô ngã trong nền giáo lý của đức Phật. Hiểu biết chân lý Vô ngã một cách đích thực bằng tư duy, bằng quán chiếu của mình thì với chân lý Vô thường, khổ, không và bất tịnh, học giả hay hành giả ấy sẽ lần lần chứng ngộ theo quá trình tiệm tiến trên bước đường học đạo và hành đạo của chính mình.

Ta hãy đọc tiếp:



Hỏi: "Tất cả pháp gồm có những gì ?

       "Vô ngã là sao ? Có mấy thứ ?"



Đáp: "Tất cả pháp tóm lược có 5 loại:

  1. TÂM PHÁP

  2. TÂM SỞ HỮU PHÁP

  3. SẮC PHÁP

  4. TÂM BẤT TƯƠNG ỨNG HÀNH PHÁP

  5. VÔ VI PHÁP

  • TÂM VƯƠNG ƯU VIỆT HƠN CẢ

  • TÂM SỞ HỮU TƯƠNG ỨNG TÂM VƯƠNG

  • SẮC PHÁP LÀ SỰ ÁNH HIỆN CỦA VƯƠNG SỞ TRÊN

  • BẤT TƯƠNG ỨNG DO BA PHÁP TRÊN MÀ GIẢ LẬP

  • VÔ VI PHÁP TƯƠNG ĐÃI BỐN PHÁP HỮU VI MÀ CÓ RA

Đọc nghiên cứu, phân tách tổng quát năm loại pháp trên đủ thấy tính chất "Duyên sinh""Vô ngã" rồi, vì không có pháp nào có tính độc lập, tự sinh, tự tồn, bất biến, bất động.

"Tất cả pháp vô ngã" nhưng bao quát mà tóm thu có hai thứ:

  1. NHƠN VÔ NGÃ

  2. PHÁP VÔ NGÃ

Đó là khái quát nội dung bộ luận Đại Thừa Bách Pháp nhằm xác lập chân lý Vô ngã qua cái nhìn của Đại thừa Duy Thức Học với vấn đề vũ trụ nhân sinh quan.

Giáo án này tôi viết cho trình độ Cao đẳng Phật học, ngắn gọn, súc tích. Nó đòi hỏi nhiều ở người triển khai hướng dẫn. Triển khai tốt, người nghe sẽ thu thập được nhiều kiến giải Phật học để làm cơ sở ban đầu cho những ai có ý muốn tham quan tường tận tòa lâu đài  Pháp Tướng Duy Thức Học đồ sộ xa xa phía trước.

Nào ! Chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng, cầm chìa khóa lên tay đi ....!

Viết tại Thao Hối Am


Mùa Đông, năm Kỹ Mão, tháng 10 năm 1999
Phật lịch 2543
H. T. THÍCH TỪ THÔNG

BÀI THỨ NHẤT

Hỏi:    Nếu Duy Thức Học có  cơ sở vững chắc thì vấn đề "ngã" của Phật giáo và thế gian phải được hiểu như thế nào ?

BÀI TỤNG DUY THỨC ĐÁP:


Dịch nghĩa

Phiên âm

Do ức thuyết về ngã
Ý niệm ngã nảy sanh
Tướng ngã duy thức biến
Thức năng biến có ba
Rằng dị thục, tư lương
liễu biệt cảnh thức

 


Do giả thuyết ngã pháp
Hữu chủng chủng tướng chuyển
Bỉ y thức sở biến
Thử năng biến duy tam
Vị dị thục tư lương
Cập liễu biệt cảnh thức

 


GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ:

Ức thuyết: Tự mình tưởng tượng ra, hiểu theo cái hiểu của mình, không bằng cứ vào một học thuyết thực tiễn hay chân lý siêu tuyệt nào khác.

Ngã: Độc lập tự sinh, độc lập tự tồn, bất biến và bất động.

Pháp: Hiện tượng vật chất trước mắt ngàn sai muôn khác, mỗi mỗi có hình dáng lớn nhỏ, kích thước ngắn dài, qui mô cao thấp, màu sắc đa dạng, khiến cho người ta trông thấy nó là nó mà không lầm lẫn giữa vật này là vật nọ. Mỗi dạng vật chất được gọi là một pháp.

"Nhậm trì tự tánh, quỉ sanh vật giải"

Ngoài vật chất ra chữ "Pháp" của nhà Phật còn bao hàm hết lãnh vực nhận thức khái niệm của ý như: vui buồn, thương ghét, thiện ác, trí tuệ, vô minh v.v....

Biến: Sự chuyển hóa liên tục trong quá trình tiến triển của vật chất cộng với thức tâm để hình thành một sự vật hiện tượng nào đó.

Năng biến: Phần chủ thể nhận thức, biểu hiện qua tám thức tâm vương, thông qua sự ức thuyết và tưởng tượng.

Dị thục: Tên gọi khác của A lại da, của Nhất thiết chủng, của Đệ bát thức.



Tư lương: Tên gọi của mạt na hay đệ thất thức.

Liễu biệt cảnh: Tên gọi chung của sáu thức trước: nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân và ý thức.

YẾU LUẬN

Diệt ngã, xả ngã là vấn đề cốt lõi trong kho tàng Phật giáo. Hiểu rõ, thực chứng rốt ráo chân lý vô ngã là thành tựu Bồ đề Niết bàn vô thượng (Bất kiến nhất pháp tức Như Lai..)

Quán sát vũ trụ nhân sinh, đức Thế Tôn dạy:

"Tất cả pháp vô ngã"

Nghĩa là toàn bộ "hữu tình chúng sinh" và "vô tình chúng sinh" đều vô ngã qua cái thấy của Phật nhãn. Nói cách khác, qua nhận thức của Phật, loài động vật cũng như thực vật, khoáng vật đều không có tính tự ngã, tự sinh, tự tồn, tự độc lập, bất biến và bất động. Tuy nhiên, ở các kinh điển thỉnh thoảng đó đây đức Phật cũng vẫn đề cập về ngã, nhân, chúng sinh và thọ giả tướng....Đó là Như Lai vận dụng "thế giới tất đàn" trong tứ tất đàn, vận dụng "tục đế" trong "nhị đế" mở bày phương tiện trong cứu cánh đấy thôi ! Cuối cùng Như Lai chỉ bày những giáo lý phương tiện chỉ là phương tiện, người Đại thừa chủng tánh phải tu học giáo lý đệ nhất nghĩa, cứu cánh Đại thừa.

Như Lai nói: ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả tức không ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả mà gọi là ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả vậy thôi !

(Kinh Kim Cang Bát Nhã)

Ngã của thế gian do ức thuyết, do tưởng tượng, do mê tín dị đoan. Không ai chứng minh được cái gì là ngã.

Tóm lại, Phật giáo nói ngã, khi sử dụng phương tiện tùy thế tục vận dụng thế đế, để rồi cuối cùng phủ định ngã, khi con người có khả năng nhận thức chân lý vô ngã. Thế gian nói ngã chỉ vì ức thuyết, do tưởng tượng hoang đường, do si mê cuồng tín...."Vạn Pháp Duy Thức" chữ thức trong từ Duy thức phải hiểu là "Nhất thiết chủng" cũng gọi là "tàng thức", cũng gọi là "Dị thục thức". Thức này chứa đựng hết thảy chủng tử hạt nhân của vạn vật, hiện tượng, chứa đựng hết thảy khái niệm, nhận thức và tư duy của các loại hữu tình.

Hạt nhân của vạn vật hiện tượng tuy nhiều tựu trung gồm trong ba loại: khoáng vật, thực vật và động vật. Qua cái nhìn của nhà Phật học thì "Nhất thiết chủng thức" chứa đựng bảy thứ có tánh chất phổ biến là: Địa đại, Thủy đại, Hỏa đại, Phong đại, Không đại, Kiến đại và Thức đại.

Từ những chất liệu hạt nhân đó, chuyển biến sinh hóa, tác động tương quan qua lại với nhau mà hình thành sự vật hiện tượng vạn pháp. Những hạt nhân trong Nhất thiết chủng thức biến chuyển sinh hóa từng sát na không ngừng theo tiến trình phát triển, tiến hóa để rồi thành sự vật hiện tượng vạn pháp từ giản đơn dần dần đến phức tạp.

Sự tác dụng qua lại, sự kết hợp để hình thành một sự vật hiện tượng đó chính là quá trình Duy Thức Biến . Như thị như thị Biến của Duy Thức Học.

Hạt nhân của vạn pháp vẫn chưa phải là nguyên tố duy nhất khởi đầu để sinh ra vạn vật hiện tượng mà hạt nhân của vạn pháp phải tác động qua lại với nhau mới phát triển, mới tiến hóa hình thành vạn vật hiện tượng. Điều đó cắt nghĩa cho ta thấy rõ ràng sự biến hóa của Duy Thức và giáo lý Duyên Sinh của đạo Phật là chân lý hiển nhiên.

Hiện tượng vạn vật vô tri gọi là sở biến, khái niệm nhận thức tư duy gọi là năng biến. Năng biến và sở biến đều là sản phẩm cơ bản, sản phẩm hạt nhân hiện hữu một cách tự nhiên của Nhất thiết chủng thức. Sự hiện hữu này, Duy Thức Học gọi là "Bất khả tri" !

Năng biến có ba hình thái: Dị thục, Tư lương và Liễu biệt cảnh.

Dị thục thức: để cắt nghĩa rằng hiện tượng vạn pháp sinh ra không có pháp nào vượt ngoài chân lý nhân quả.

Tư lương thức: nhằm chỉ rõ rằng mỗi một hiện tượng duyên sinh khi sinh ra đều có quán tính tự nhiên duy trì và phát triển sự tồn sinh hầu kéo dài sự hiện hữu của chúng. Vì vậy, nó còn có tên: Ngã ái chấp tàng.

Liễu biệt cảnh thức: chứng minh rõ nét tánh chất khác nhau giữa năng biến và sở biến, chủ thể và đối tượng, phân biệt và sở phân biệt.

Nói rút lại:

Năng biến thuộc bát thức tâm vương, một phần hạt nhân, duyên sinh ra loài động vật hữu tình.

Sở biến thuộc vật chất những hạt nhân, duyên sinh ra khoáng vật, thực vật vô tình.



"Thị chi thức chuyển biến
"Phân biệt sở phân biệt
"Do thử bỉ giai vô
"Cố nhất thiết Duy thức..."

BÀI THỨ HAI

Hỏi: Đã được nghe qua về ba món năng biến, vậy xin được biết món năng biến thứ nhất thế nào ?

BÀI TỤNG DUY THỨC ĐÁP:


Dịch nghĩa

Phiên âm

Thứ nhất, A lại da
Dị thục, nhất thiết chủng
Không thể biết chấp thọ
Cảnh, căn, thường cùng xúc
Tác ý, thọ, tưởng, tư
Chỉ tương ưng xả thọ
Tánh vô phú vô ký
Xúc, tác ý....cũng vậy
Hằng chuyển như nước thác
Quả A la hớn không còn

 


Sở A lại da thức
Dị thục, nhất thiết chủng
Bất khả tri chấp thọ
Xứ liễu thường dữ xúc
Tác ý thọ tưởng tư
Tương ưng duy xả thọ
Thị vô phú vô ký
Xúc đẳng diệc như thị
Hằng chuyển như bộc lưu
A la hớn vị xả

 


GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ:

*A lại da: Phạn âm dịch là Tàng. Tàng có nghĩa là nhà kho. A lại da ví như cái kho vĩ đại, về không gian không biên giới, về thời gian tột ba đời; do đó nó có cái tên Tàng thức. Tàng có ba nghĩa, nếu nhìn qua ba phương diện, đó là: Năng tàng, sở tàng và Ngã ái chấp tàng. Nhìn bên mặt công dụng chứa đựng của nhà kho, đó là nghĩa Năng tàng. Nhìn bên mặt các loại chủng tử bị chứa, đó là nghĩa Sở tàng. Nhìn bên mặt duy trì sức sống, sự sanh trưởng và sự phát triển của sự vật để hình thành, đó là nghĩa Ngã ái chấp tàng.

*Dị thục: Có ba nghĩa:

  1. Dị thời nhi thục.

  2. Dị biến nhi thục

  3. Dị loại nhi thục

Chủng tử của vạn pháp duyên sinh và phát triển hình thành luôn luôn theo luật nhân quả nhất định, nghĩa là sự vật từ khi sinh đến lúc hình thành viên mãn một chỉnh thể phải trải qua thời gian, đó là nghĩa Dị thời. Từ khi sinh đến lúc hình thành viên mãn kết cuộc của chu kỳ nhân quả phải trải qua thay đổi liên tục, sự phủ định không ngừng, đó là nghĩa Dị biến. Từ khi sinh trong nhân đến khi hình thành ra quả, khác hẳn nhau, đó là nghĩa Dị loại.

Nhất thiết chủng: Tên khác của A lại da. Nhìn bên mặt chủng tử Sở tàng. A lại da có tên Nhất thiết chủng.

Thọ: Sự tiếp nhận, lãnh thọ. Thọ có ba thứ:

  1. Lạc thọ: Tiếp nhận vui

  2. Khổ thọ: Tiếp nhận khổ

  3. Xả thọ: Không thọ vui cũng không thọ khổ.

Vô ký: Tánh không thiện, không ác. Vô ký tánh có hai thứ:

  1. Vô phú vô ký: Tánh vô ký này vốn trong sáng từ bản chất.

  2. Hữu phú vô ký: Hiện tượng nhiễm ô không biểu lộ rõ rệt nhưng bản chất không hoàn toàn thanh tịnh.

YẾU LUẬN

Món năng biến thứ nhất có ba tên. Nhìn bên công năng chứa đựng bao hàm thì có tên A lại da. Nhìn bên chủng tử vạn pháp bị chứa, nó có tên Nhất thiết chủng. Nhìn bên mặt sinh khởi và phát triển của chủng tử vạn pháp nhất nhất đều phải theo một chu trình nhân quả, nên nó có tên là Dị thục.

Sự tích tập, giữ gìn và phát triển của Tàng thức không biết được. Con người chỉ có thể nghiên cứu, tìm hiểu...mà thôi. Các nhà đạo học, khoa học...cũng chỉ giải thích, cắt nghĩa theo kiến giải thích nhất định của chính mình, ngoại trừ đức Phật Thích Ca !

Năng biến thứ nhất, tánh vô phú vô ký, cho nên tất cả pháp "Sở tàng" trong A lại da vốn không có nhiễm ô.

Năm món Tâm sở: Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư tương ứng với thức A lại da, cũng cùng tánh vô phú vô ký như vậy.

Ba thọ: Lạc thọ, Khổ thọ và Xả thọ. Thức A lại da thuộc Xả thọ.

A lại da thức vừa hằng vừa chuyển giống như dòng nước tuôn chảy liên tục của thác, xem như cố định nhưng chỉ là sự nối tiếp liên tục vi mật của những giọt nước tuôn nhanh. Vũ trụ vĩnh hằng, vật chất vĩnh hằng nhưng hằng trong chuyển, tuy chuyển mà chuyển trong hằng.

Chứng quả A la Hớn, cái tên A lại da thức được chuyển đổi. Quả vị A la Hớn là người xuất ly tam giới, là người hóa giải, diệt hết Kiến tư hoặc trong tam giới. Do vậy, qua cái thấy biết của người A La Hớn, vạn pháp không còn là nguyên nhân gây ra ô nhiễm làm đau khổ cho ai. Nói cách khác, người A la Hớn đã thanh tịnh hóa được lục căn và lục cảnh ở cõi đời rồi !

BÀI THỨ BA

Hỏi: Đã nói về món năng biến thứ nhất rồi. Vậy thức năng biến thứ hai sự hiện hữu của nó ra sao ?



BÀI TỤNG DUY THỨC ĐÁP:

Dịch nghĩa

Phiên âm

* Thức năng biến thứ hai
Tên gọi là mạt na
Từ A lại da...ái A lại da
Tính tướng háo suy lường

* Bốn phiền não thường chung


Là ngã si ngã kiến
Cùng ngã mạn ngã ái
Xúc, tác ý,....tương ưng

* Hữu phú vô ký tánh


Khắn khít A lại da
A la hớn, diệt định
Đấng xuất thế không còn

Thứ đệ nhị năng biến
Thị thức danh Mạt na
Y bỉ chuyển duyên bỉ
Tư lương vi tánh tướng

Tứ phiền não thường câu


Vị ngã si ngã kiến
Tinh ngã mạn ngã ái
Cập dư xúc đẳng câu

Hữu phú vô ký nhiếp


Túy sở sanh sở hệ
A la hớn diệt định
Xuất thế đạo vô hữu

 


GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ:

Mạt na: Trung Hoa dịch là ý căn, dựa trên tánh "tư lương", tính "chấp ngã" để rồi sinh ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái. Mạt na là cơ sở làm chỗ nương tựa để ý thức phát sinh phân biệt. Vì vậy, có tên "ý căn". Mạt na theo thứ tự có tên "đệ thất thức", tức là món năng biến thứ hai vậy.

Suy lường: Dịch từ chữ tư lương. Tính "suy lường" của "tư lương" khác với tính toán nghĩ ngợi của "tư duy" phân biệt. Suy lường của "tư lương" như sóng ngầm. Tính toán phân biệt của "tư duy" như sóng lượn ồ ạt lao xao trên mặt biển.

Si kiến mạn ái: Thức Mạt na do ngã, vì ngã và cho ngã mà hiện hữu. Ngoài ngã ra, Mạt na không có tích sự nào khác. Vì vậy, Mạt na bản chất vốn nhiễm ô rồi.

Hữu phú vô ký: "Hữu phú" nói lên tính nhiễm ô bản chất của thức Mạt na.

A la hớn: Dịch vô sinh, sát tặc, ứng cúng. Đấy là quả vị của người đoạn trừ Kiến tư hoặc trong nhân, là người xuất ly tam giới.

Diệt định: Nói đủ: Diệt Tận Định, người tu thiền định, diệt được sự phân biệt của tiền thất thức và ý niệm chấp ngã không còn.

Xuất thế đạo: Từ A la Hớn trở lên, cứu cánh là quả Vô Thượng Bồ Đề.

YẾU LUẬN

Mạt na thức là năng biến thứ hai trong ba món năng biến và là thức thứ bảy trong tám thức tâm vương. Mạt na, Phạn âm, Trung Hoa dịch là ý căn. Nó là chỗ nương tựa, cơ sở của ý thức thứ sáu, phát triển tư duy phân biệt. Vì vậy, tính, tướng, bản chất của Mạt na là "Tư lương". Mạt na không có tính độc lập, tự sinh, tự khởi. Sự sinh khởi Mạt na hoàn toàn hệ thuộc A lại da. Mạt na là "ngã ái chấp tàng" trong ba nghĩa tàng. Mạt na chấp lấy Kiến phần A lại da, bảo thủ tính chấp của mình khư khư theo "ức thuyết", không chuẩn đích, không căn cứ và hoàn toàn không chân lý. Kiến phần cũng như Tướng phần của A lại da đều là pháp hiện tượng duyên sinh: vũ trụ sơn hà, sum la vạn tượng...tất cả đều "vô ngã". Thế cho nên, ngã của Mạt na chấp chỉ là "ngã si", "ngã kiến", "ngã mạn", "ngã ái", không chân lý, không chút thực tiễn nào. Mạt na chấp ngã là sự vin chấp nội tại của A lại da: Ngã ái chấp tàng của A lại da vin chấp Kiến phần của A lại da để rồi "ức thuyết" thành "bản ngã" bởi chính mình. Vì vậy, bài tụng Duy thức:

"Từ A lại da....ái A lại da"

Nên biết, tám thức tâm vương đều giống nhau. Thức nào cũng có bốn phần. Đó là: Kiến phần, Tướng phần, Tự chứng phần và Chứng tự chứng phần. Bốn phần này, ta mượn một thí dụ để có khái niệm: 1. Xem hoa; 2. Cành hoa; 3. Nhận định hoa; 4. Đánh giá, giá trị hoa. Mỗi một thức khi phát khởi đều phải diễn biến theo một quá trình: Chủ thể nhận thức, đối tượng nhận thức, nhận thức đối tượng và đánh giá đối tượng ấy. Ta cũng có thể mượn tỷ dụ thứ hai: 1. Người viết đơn kiện; 2. Người bị kiện; 3. Quan tòa xử lý kiện; 4. Viện kiểm soát tối cao (cơ sở luật pháp). Bốn phần liên hợp lại, tác dụng hổ tương nhau để hoàn thành kết quả của một "Thức", khi thức đó sinh khởi.

Mạt na thức bản chất vốn nhiễm ô, tánh hữu phú vô ký nói lên sự nhiễm ô chấp ngã, là nguyên nhân sinh ra mọi thứ phiền não, mọi nỗi thống khổ cho con người trên cõi đời. Mạt na thức, tánh hữu phú vô ký, điều này nói lên rằng mạt na thức nhiễm ô từ bản chất. Bốn phiền não thường chung cùng sinh khởi thì hiện tượng cũng chẳng trong sạch được.

Mạt na thức cũng như bát thức tâm vương đương nhiên đều có tương ứng với nhóm tâm sở biến hành: xúc, tác ý, v.v....Ngoài ra còn một số....

Mạt na thức "tùy sở sinh sở hệ" có nghĩa là Mạt na khắn khít gắn bó chặt với A lại da. Không có A lại da, không tìm đâu cho có Mạt na được. Cũng như không có thủ tướng, không sao có "vệ sĩ" thủ tướng trên cõi đời.

Có ba hạng người do công phu tu chứng mà loại bỏ Mạt na thức. Một là người tu chứng đến quả A la hớn. Hai là người tu chứng Định Diệt Tận. Ba là Phật Thế Tôn.

"Ngã" cộng với "ngã sở hữu" là tiêu chuẩn, là thước, để đo, để đánh giá: tiến trình học đạo, hành đạo và chứng đạo của người đệ tử Phật, chân chính và không chân chính vậy.

 BÀI THỨ TƯ

Hỏi: Thức năng biến thứ ba gồm có những gì ?

BÀI TỤNG DUY THỨC ĐÁP:


Dịch nghĩa

Phiên âm

* Thức năng biến thứ ba
sáu thứ sai biệt
Tiếp nhận tốt tiền cảnh
Thiện, bất thiện câu phi

* Những tâm sở biến hành


Biệt cảnh, thiện, phiền não
Tùy phiền não, bất định
Cả ba thọ tương ưng

 


Thứ đệ tam năng biến
Sai biệt hữu lục chủng
Liễu cảnh vi tánh tướng
Thiện bất thiện câu phi

Thử tâm sở biến hành


Biệt cảnh thiện phiền não
Tùy phiền não bất định
Giai tam thọ tương ưng

 



tải về 270.53 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương