LỜi nóI ĐẦU 3 những vấN ĐỀ chung



tải về 163.25 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích163.25 Kb.
#31002
MỤC LỤC





Trang

LỜI NÓI ĐẦU

3

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

5

1. Lý do chọn đề tài và tình hình nghiên cứu

5

2. Đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu

6

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

6

4. Ý nghĩa thực tiễn và phạm vi nghiên cứu

7

5. Kết cấu tiểu luận

7

NỘI DUNG CHÍNH

9

Chương 1. Những nhân tố cơ bản tác động tới chính sách đối ngoại của Nhật Bản dưới thời thủ tướng Koizumi

9

1.1 Bối cảnh quốc tế và trong nước

9

1.2 Chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Việt Nam thời kỳ trước Koizumi

11

Chương 2. Những nội dung cơ bản trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Việt Nam dưới thời thủ tướng Koizumi

16

2.1 Mục tiêu chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Việt Nam

16

2.2 Biểu hiện trên lĩnh vực chính trị

17

2.3 Biểu hiện trên lĩnh vực kinh tế

19

2.4 Biểu hiện trên lĩnh vực văn hóa-giáo dục

22

2.5 Chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Nhật Bản

24

Chương 3. Triển vọng phát triển và những khuyến nghị cơ bản đối với Đảng và Nhà nước trong quan hệ với Nhật Bản

27

3.1 Triển vọng phát triển quan hệ giữa hai nước

27

3.2 Những khuyến nghị đối với Đảng và Nhà nước trong quan hệ với Nhật Bản

29

KẾT LUẬN

31

Phụ lục

32

Danh mục tài liệu tham khảo

36


LỜI NÓI ĐẦU
Trong bối cảnh quốc tế biến động sâu sắc và phức tạp như hiện nay, trong xu thế hợp tác và phát triển, xu thế toàn cầu hóa mọi mặt của đời sống xã hội đang diễn ra sôi động, vấn đề đặt ra cho mỗi quốc gia muốn bảo vệ lợi ích của mình, muốn tránh lệch hướng khỏi vòng xoáy đó là phải tăng cường hợp tác và hội nhập không ngừng. Đẩy mạnh hợp tác là xu thế tất yếu của giai đoạn hiện nay. Việc thay đổi và có những quyết sách đúng đắn trong chính sách đối ngoại cũng là một yêu cầu bức thiết đối với một bộ máy lãnh đạo của một quốc gia trong đường hướng xây dựng và phát triển đất nước, góp phần vào việc đẩy mạnh hợp tác và hội nhập.

Sự thay đổi trong thể chế lãnh đạo nhà nước tất yếu sẽ dẫn đến những thay đổi trong một số nội dung của chính sách đối ngoại, bên cạnh những yêu cầu khách quan do lịch sử đặt ra. Ngoài sự tác động của bối cảnh quốc tế và khu vực thì nhân tố chủ quan của mỗi một bộ máy lãnh đạo đất nước cũng góp phần không nhỏ tới chủ trương và đường lối phát triển đất nước của quốc gia đó.

Đối với một quốc gia như Nhật Bản, rất ít vị thủ tướng lại có sức ảnh hưởng lớn đối với nền chính trị của Nhật như Koizumi, và rất ít người có thể tạo ra được một kỷ nguyên cho riêng mình như Koizumi đã làm. Không cần kể đến xấu hay tốt, nhưng có thể khẳng định một điều rằng tác động của Koizumi đối với chính trị trong nước và mối quan hệ quốc tế, với môi trường kinh tế của Nhật sẽ vẫn còn tiếp tục trong những năm tiếp theo ở quốc gia này.

Riêng đối với Việt Nam và mối quan hệ Nhật Bản – Việt Nam, trong thời kỳ đương chức của mình, những chính sách đối ngoại của Koizumi đã cho thấy những thái độ tích cực, mở rộng thêm cơ hội và sự hợp tác phát triển vốn đã tồn tại trong lịch sử từ đầu thế kỷ đến nay. Tìm hiểu những nội dung cơ bản trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Việt Nam dưới thời thủ tướng Koizumi cũng góp phần tăng cường hơn nữa hiểu biết giữa hai nước, đánh giá thành tựu và vai trò của thủ tướng trong quan hệ ngoại giao với Việt Nam, đồng thời cũng góp phần điều chỉnh chính sách đối ngoại của nước ta sao cho phù hợp với xu thế và tình hình mới hiện nay, khi mà thủ tướng Koizumi đã rời nhiệm sở. Thiết nghĩ, đây cũng là một hoạt động thiết thực cần phải làm.



NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

TÊN ĐỀ TÀI: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NHẬT BẢN ĐỐI VỚI VIỆT NAM DƯỚI THỜI THỦ TƯỚNG KOIZUMI


  1. Lý do chọn đề tài và tình hình nghiên cứu

Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao với miền Bắc Việt Nam vào tháng 9 năm 1973, đến tháng 7 năm 1976 bắt đầu quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam thống nhất, đặt nền tảng cho sự phát triển quan hệ giữa hai nước. Mặc dù lịch sử quan hệ có những bước thăng trầm song quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Nhật Bản và Việt Nam đã có được những bước phát triển vững chắc, đặc biệt kể từ sau Hội nghị Hòa bình về Campuchia vào năm 1991, bắt đầu bằng việc thảo luận mở lại Viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam. Hiện nay hai nước đang cùng nhau hướng tới xây dựng quan hệ đối tác chiến lược hòa bình và phồn vinh ở châu Á, mở ra giai đoạn phát triển sâu rộng và sôi động nhất từ trước tới nay.

Đối với một đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á như Việt Nam, chính sách đối ngoại của Nhật Bản nghiễm nhiên cũng phải có những lưu tâm đặc biệt. Hơn thế nữa, quan hệ Nhật – Việt đã có quá trình lịch sử phát triển khá lâu đời xuất phát từ nhiều điểm tương đồng. Nhật Bản và Việt Nam có đất nước trải dài từ Bắc tới Nam, có chung nền văn hóa lúa nước, truyền thống văn hóa đa dạng và giàu bản sắc dân tộc...Chính những điều này quyết định một vị trí quan trọng của Việt Nam trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản.

Tháng 4 năm 2001, ngay khi lên nhậm chức Thủ tướng Nhật Bản, Thủ tướng Koizumi đã tuyên bố sẽ cải cách công tác thông tin đối ngoại. Tháng 9 năm 2001, Tổ nghiên cứu quan hệ đối ngoại được thành lập nhằm giúp đỡ thủ tướng thực hiện cải cách. Nhật Bản bước vào thời điểm bước ngoặt điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng tăng cường tính độc lập, chủ động và tích cực hơn nhằm vươn lên thành cường quốc chính trị tương xứng với sức mạnh kinh tế, phát huy vai trò và ảnh hưởng trên thế giới và khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.

Tuy vậy, trong giai đoạn hiện nay, ít thấy một công trình nghiên cứu nào đề cập tới những nội dung cụ thể trong chính sách đối ngoại của Nhật đối với Việt Nam dưới thời thủ tướng Koizumi, một vị thủ tướng để lại nhiều ấn tượng trong chính trường Nhật Bản. Việc nghiên cứu này không chỉ đánh giá những điều đã đạt được của hai nước, những thành quả mà hai bên có được. Bên cạnh đó nó cũng là sự ghi nhận và khẳng định vị trí của một vị thủ tướng có sức ảnh hưởng lớn như thủ tướng Koizumi trong quan hệ ngoại giao với Việt Nam nói riêng và đối với khu vực nói chung. Từ 2001 đến nay, khi mà đất nước ta bước đầu hội nhập sâu trên trường quốc tế, tham gia vào các tổ chức quốc tế và phát triển quan hệ hợp tác đa phương với các nước trên thế giới, thiết nghĩ việc tìm hiểu và nắm rõ những nội dung cơ bản trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Việt Nam là điều cần thiết.



  1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Việt Nam dưới thời thủ tướng Koizumi.

Phương pháp chủ yếu được sử dụng là phương pháp phân tích tài liệu: bao gồm các văn bản chỉ đạo và các tài liệu, tư liệu trên các phương tiện truyền thông đại chúng, các website và sách báo…



  1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Bằng việc đánh giá các thành tựu đạt được trên nhiều lĩnh vực, tiểu luận này được thực hiện với mục đích lớn nhất là cung cấp cho người đọc những thông tin hữu ích về chính sách đối ngoại của Nhật Bản dưới thời thủ tướng Koizumi đối với Việt Nam. Những điểm cần quan tâm trong chính sách đối ngoại đó, những biểu hiện thực tế và nguyên nhân của nội dung chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Việt Nam dưới thời thủ tướng Koizumi.

Nhiệm vụ nghiên cứu của tiểu luận gồm những nhiệm vụ sau:



  • Trình bày những nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Việt Nam.

  • Trình bày những nội dung cơ bản trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Việt Nam dưới thời thủ tướng Koizumi trên một số lĩnh vực.

  • Trình bày triển vọng và những khuyến nghị cơ bản đối với Đảng, Nhà nước trong quan hệ với Nhật Bản.

  1. Ý nghĩa thực tiễn và phạm vi nghiên cứu

Tiểu luận này sẽ giúp mang tới cho người đọc có được những cái nhìn tổng quan về chính sách đối ngoại của Nhật Bản, lịch sử hình thành cũng như biểu hiện của nó ra sao. Tiểu luận góp phần nhỏ bé vào kho tàng những tài liệu nghiên cứu về Nhật Bản để từ đó trở thành tư liệu tham khảo có giá trị. Bên cạnh đó, những khuyến nghị và giải pháp tăng cường phát triển cũng giúp cho quan hệ hai nước được củng cố và phát triển tốt đẹp hơn trong tương lai.

Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận là chính sách đối ngoại của Nhật Bản dưới thời thủ tướng Koizumi, từ khi nhậm chức tháng 4 năm 2001 đến năm 2006.



  1. Kết cấu tiểu luận

Chương 1. Những nhân tố cơ bản tác động tới chính sách đối ngoại của Nhật Bản dưới thời thủ tướng Koizumi

1.1 Bối cảnh quốc tế và trong nước

1.2 Chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Việt Nam thời kỳ trước Koizumi

Chương 2. Những nội dung cơ bản trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Việt Nam dưới thời thủ tướng Koizumi

2.1 Mục tiêu chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Việt Nam

2.2 Biểu hiện trên lĩnh vực chính trị

2.3 Biểu hiện trên lĩnh vực kinh tế

2.4 Biểu hiện trên lĩnh vực văn hóa-giáo dục

2.5 Chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Nhật Bản



Chương 3. Triển vọng phát triển và những khuyến nghị cơ bản đối với Đảng và Nhà nước trong quan hệ với Nhật Bản


NỘI DUNG CHÍNH


CHƯƠNG 1

NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NHẬT BẢN ĐỐI VỚI VIỆT NAM DƯỚI THỜI THỦ TƯỚNG KOIZUMI



    1. Bối cảnh quốc tế và trong nước

      1. Bối cảnh quốc tế và khu vực

Năm 1991, sự tan rã của Liên ban Xô Viết và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã chính thức kết thúc thời kỳ chiến tranh lạnh và giai đoạn chạy đua vũ trang giữ liên ban Xô Viết và Mỹ. Tình hình thế giới có những biến đổi sâu sắc. Lúc này, trật tự thế giới hai cực đã bị xóa bỏ thay vào đó là trật tự thế giới nhất siêu đa cường đó là các nước Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, Nga và Trung Quốc. Theo dự báo thì xu hướng này còn có thể phát triển trở thành trật tự thế giới đa cực. Sự tan rã của Liên Xô đã tạo ra cho Mỹ một lợi thế tạm thời. Là lực lượng duy nhất còn lại, Mỹ ra sức củng cố vị trí siêu cường, mưu đồ giữ vai trò bá chủ chi phối thế giới. Nhưng mặt khác, tuy là cực duy nhất còn lại nhưng tình hình thế giới lại không phải là thế giới một cực. Mỹ đã bị suy yếu tương đối, mâu thuẫn lớn nhất trong lòng nước Mỹ là mâu thuẫn giữa tham vọng làm bá chủ và thực lực của nó.

Bên cạnh đó, tuy hòa bình thế giới đã được củng cố, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi rõ rệt nhưng hòa bình ở nhiều khu vực lại bị đe dọa. Thậm chí ở nhiều nơi, xung đột quân sự, nội chiến diễn ra ác liệt. Đó là các mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ... vốn bị che đạy dưới thời chiến tranh lạnh, nay bộc lộ thành xung đột gay gắt. Phần lớn những mâu thuẫn này đều có căn nguyên lịch sử nên việc giải quyết là không thể nhanh chóng dễ dàng. Ngoài ra phải kể đến xu thế vừa hợp tác vừa cạnh tranh để phát triển kinh tế đã trở thành xu thế chính từ sau chiến tranh lạnh đến nay. Trong bối cảnh chung đó nổi lên một số đặc điểm phát triển cơ bản của thế giới và khu vực như sau:



(*) Toàn cầu hóa, đặc biệt là toàn cầu hóa kinh tế là đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thế giới với sự chuyển đổi từ GATT sang WTO đã khiến cho tự do thương mại và đầu tư càng có điều kiện phát triển mạnh. Các nước Đông Á đã trở thành thị trường mở cửa cho Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản, và Nhật Bản cũng phải mở cửa cho hàng hóa các nước tràn vào thị trường của mình. Chính những yếu tố này đã tạo nên xu thế ngày càng ra tăng hợp tác và cạnh tranh quyết liệt đòi hỏi Nhật Bản phải điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng tăng cường các quan hệ liên kết, hợp tác với các nước ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương để cạnh tranh lại với Mỹ và Tây Âu.

(*) Xu thế khu vực hóa cũng ra tăng mạnh, hình thành nhiều khối liên kết hợp tác phát triển như: EU, NAFTA, APEC,ASEAN, và gần đây là ASEM. Chỉ tính riêng liên kết giữa ASEAN với Đông Bắc Á mà gần đây là các khối ASEAN+, ASEAN+1... cùng với đó là sự đã hình thành hoặc sẽ hình thành các khu vực tự do thương mại của các khối liên kết trên đã khiến cho các hoạt động kinh tế của nhiều khu vực trên thế giới, đặc biệt là ở Đông Á, bao gồm cả Đông Bắc Á và Đông Nam Á diễn ra hết sức sôi động.

(*) Tương quan với các nước lớn là đối thủ cạnh tranh với Nhật Bản ở Đông Bắc Á: từ nhiều năm qua, Mỹ vừa là đồng minh chặt chẽ nhưng đồng thời cũng là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Nhật về nhiều lĩnh vực. Trong đó ý thức chủ quan của Mỹ mặc dù vẫn coi trọng quan hệ với Nhật và coi đó là đồng minh số một ở châu Á song Mỹ lại không muốn Nhật quá mạnh đến mức lấn át cả vị thế của Mỹ ở châu Á để từ đó càng tạo cho Nhật ý thức vươn tới một vị trí ngày càng lớn hơn cả về kinh tế và chính trị ở châu Á. Trong khi đó ở Đông Á, từ sau chiến tranh lạnh đến nay còn phải kể đến một nước Trung Quốc khổng lồ có vị thế ngày càng lớn cả về kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật và quân sự.

      1. Bối cảnh trong nước

Từ sau chiến tranh lạnh tới nay Nhật Bản phải đối mặt với những khó khăn lớn trước tình hình kinh tế, chính trị, xã hội có nhiều biến động. Đó là sự khủng hoảng suy thoái kinh tế kéo dài suốt thập niên 1990. Bị ảnh hưởng nặng nề bởi suy thoái kinh tế và thiểu phát, thị trường chứng khoán Nhật Bản đã tụt dốc, các khoản nợ xấu tăng vọt, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên mức cao hơn và các vụ bê bối tham nhũng tăng lên theo cấp số nhân. Chính nền kinh tế khó khăn đã kéo theo việc Nhật Bản nhanh chóng mất đi ảnh hưởng và uy tín trên trường quốc tế. Đó là sự già hóa dân số và bên cạnh đó là chính trị xã hội không ổn định. Một thập kỷ trôi qua với những lần bê bối trong Nội các, bộ máy được thành lập trên cơ sở liên minh giữa nhiều đảng phái, mỗi đảng lại có những lợi ích riêng, do vậy mà chính phủ liên hiệp dễ bị tan vỡ một khi các lợi ích đó không được đáp ứng. Một thập kỷ trôi qua với 8 vị thủ tướng lần lượt nắm quyền và rời vị trí, nhưng chỉ trong năm 1994 đã có 3 lần thay đổi thủ tướng và Nội các. Những sự bất ổn định trên đã khiến Nhật Bản giảm sút uy tín trên chính trường quốc tế.

    1. Chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Việt Nam thời kỳ trước Koizumi:

      1. Đặc điểm chung trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản

Việc tìm hiểu chính sách đối ngoại của một quốc gia quả là một công việc khó khăn và phức tạp. Đối với Nhật Bản thì việc đó dường như còn là một công việc khó khăn hơn nhiều bởi giới nghiên cứu đã phải đánh giá Nhật Bản là một quốc gia có chính sách đối ngoại biến động sâu sắc, mạnh mẽ và rất khó dự đoán.

Chính sách đối ngoại của Nhật Bản còn có những biến đối sâu sắc qua từng thời kỳ lịch sử khác nhau từ chính sách biệt lập cho tới việc tích cực tiếp thu văn hóa nước ngoài, từ sự tôn sùng Nhật Hoàng cho đến chế độ dân chủ, từ chủ nghĩa quân phiệt cho đến chủ nghĩa hòa bình. Vào thời kỳ những năm 70 của thế kỷ trước, Nhật Bản đã thi hành một chính sách đối ngoại tránh dính líu tới các vấn đề chính trị chiến lược của quốc tế để tập trung phát triển kinh tế theo đuổi những lợi ích thương mại hạn hẹp của mình. Lúc này, Nhật Bản lảng tránh những vấn đề gây tranh cãi trong quan hệ quốc tế và hoàn toàn đứng bên ngoài chiến tranh lạnh. Chính sách đó đã đưa Nhật Bản phục hồi nhanh chóng sau sự thất bại của cuộc đại chiến thế giới thứ hai, vươn lên trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới. Đến những năm 90, nền kinh tế Nhật Bản lâm vào khủng hoảng trầm trọng dẫn tới thời kỳ trì trệ về kinh tế và bế tắc chính trị. Vai trò ảnh hưởng của Nhật trên trường quốc tế bị mờ nhạt đi nhanh chóng và người ta dường như quên hẳn sự lãnh đạo của Nhật Bản đối với châu Á trong quá khứ và chuyển hướng sự chú ý sang một Trung Quốc đang vươn lên. Tuy nhiên đến những năm đầu của thế kỷ XXI, vai trò của thủ tướng Koizumi đã được khẳng định. Trong 5 năm rưỡi cầm quyền, nhờ những chuyển hướng sang củng cố quan hệ đồng minh với Mỹ của vị thủ tướng này mà địa vị kinh tế chính trị cũng như tầm ảnh hưởng của Nhật Bản đã được cải thiện đáng kể.

Qua việc xem xét chính sách đối ngoại trong một khoảng thời gian, chúng ta có thể thấy một đặc điểm đặc trưng trong chính sách đối ngoại của Nhật là thiên hướng hiện thực chủ nghĩa để thích nghi với những đổi thay trong cấu trúc của hệ thống chính trị quốc tế. Khuynh hướng này được đánh giá là bắt nguồn từ những nguyên nhân văn hóa lịch sử cũng như chiến lược. Phong cách của lãnh đạo Nhật thời hiện tại là di sản của những ảnh hưởng từ thời cận đại và kinh nghiệm lâu dài của thời duy tân Minh Trị. Quá trình này được thúc đẩy phần nhiều từ nhu cầu cạnh tranh trong hệ thống quốc tế và quyết tâm điều chỉnh thể chế chính sách để có thể có được thành công trong hệ thống đó. Trong khi các nước khác chống lại hay chưa chuyển biến kịp với những thay đổi của trật tự thế giới mới thì Nhật Bản đã nhanh chóng nắm bắt xu hướng và có những điều chỉnh phù hợp không chỉ trong chính sách đối ngoại mà còn trong cả cách thức tổ chức nhằm định hình phản ứng mang tính cơ hội của Nhật trước trật tự thế giới bên ngoài và nếu như trật tự đó thay đổi, Nhật Bản sẽ điều chỉnh chính sách và tổ chức bên trong tùy thuộc vào trật tự mới.


      1. Chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Việt Nam thời kỳ trước Koizumi

Từ sau chiến tranh lạnh, trước những khó khăn và thách thức, Nhật Bản bước vào thời điểm bước ngoặt điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng tăng cường tính độc lập, chủ động và tích cực hơn nhằm vươn lên thành cường quốc chính trị tương xứng với sức mạnh kinh tế. Đặc biệt, Nhật Bản chú trọng đến phát huy vai trò, ảnh hưởng ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Trong số các quốc gia đó không thể không kể đến Việt Nam.

Chính sách Đông Nam Á của Nhật Bản coi trọng Việt Nam bởi đây là một nước có tiềm năng trong khu vực, lại có chung nhu cầu và lợi ích với Nhật Bản đó là duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực Đông Nam Á.. Bên cạnh đó, Việt Nam còn có vị trí chiến lược quan trọng ở khu vực, là đầu mối giao thông, có nhiều cửa ngõ thông ra biển thuận lợi và các hải cảng có ý nghĩa lớn về mặt quân sự. Quyết định về việc sử dụng các hải cảng của Việt Nam trong tương lai cũng có thể được xem như một nhân tố tác động đến chiến lược an ninh của Nhật Bản. Về mặt kinh tế, Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên phong phú, có nguồn lao động dồi dào, thị trường giàu tiềm năng và môi trường chính trị ổn định.

Kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc, sau chuyến thăm của Ngoại trưởng Nhật Nakayama vào tháng 6 năm 1991, quan hệ Nhật Bản – Việt Nam đã bước sang một thời kỳ mới, xóa đi những bất đồng và những tồn đọng trong quá khứ. Tháng 11 năm 1992, kết thúc cuộc thảo luận mở lại viện trợ chính thức (ODA) cho Việt Nam, hai bên đã ký kết hiệp định về việc Nhật Bản cấp cho Việt Nam một khoản viện trợ có hạn định 45 tỷ 500 triệu yên, mở ra một trang sử mới trong quan hệ Nhật – Việt.

Trước thời thủ tướng Koizumi, đã có 3 chuyến thăm cấp cao của các thủ tướng Nhật Bản tới Việt Nam. Đó là chuyến thăm của thủ tướng Murayama 8/1994, Hashimoto 1/1997, Obuchi 12/1998. Hoàng tử Nhật Bản cũng thăm Việt Nam vào tháng 6 năm 1999. Thủ tướng Murayama là vị thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản thăm Việt Nam vào tháng 8 năm 1994. Trong cuộc hội đàm với thủ tướng Võ Văn Kiệt, hai bên đã nhất trí thắt chặt mối quan hệ giữa hai nước không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà cả quan hệ chính trị, văn hóa, giao lưu con người, hướng tới một thời kỳ mới trong quan hệ Nhật – Việt, đồng thời cũng đưa ra kế hoạch giúp đỡ cụ thể của phía Nhật Bản đối với Việt nam.

Lĩnh vực kinh tế cũng có nhiều chuyển biến tích cực bỏ lại đằng sau những hạn chế trong quan hệ ngoại giao thời kỳ trước 1991. Bước sang thập kỷ 90, khi mà vấn đề Campuchia được giải quyết, đồng thời Việt Nam thực hiện thành công đường lối đổi mới và chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế trên tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước nhằm tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài nhằm phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Nhật Bản là quốc gia đầu tiên đã tuyên bố nối lại hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam.

Tháng 1 năm 1996, hội nghị hợp tác kinh tế lần thứ nhất đã khai mạc tại Tokyo. Đây là hội nghị hợp tác kinh tế lần đầu tiên giữa hai nước và là hội nghị lần thứ hai thảo luận song phương về chính sách hợp tác kinh tế tiếp theo hội nghị cấp thứ trưởng tháng 12 năm 1994. Hai nước đã dành cho nhau thuế suất tối huệ quốc từ năm 1999. Những mặt hàng xuất khẩu được ưu tiên sang thị trường Việt Nam là cơ khí , sắt thép, điện tử, xe gắn máy, nguyên liệu dệt, da...

Sau năm 1995, nguồn Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Nhật Bản đổ vào Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng với sự có mặt của các nhà sản xuất Nhật Bản trong các lĩnh vực như xi măng, linh kiện điện tử, máy tính, ô tô...Từ 1998 đến 2001, nguồn FDI từ Nhật vào Việt Nam đã giảm nhanh với việc xuất hiện ngày càng ít các dự án đầu tư mới. Nhìn chung thời kỳ này suy giảm là do đồng Yên mất giá năm 1996.

Bên cạnh đó không thể không kể đến vốn viện trợ không hoàn lại của Nhật Bản tại Việt Nam. Kể từ năm 1992, Nhật Bản đã viện trợ 22, 65 triệu USD cho 325 dự án ở Việt Nam.

Vấn đề văn hóa giáo dục cũng được các nhà lãnh đạo Nhật Bản quan tâm trong quan hệ hợp tác với Việt Nam. Tuy mới đạt được bước phát triển mới từ cuối thập niên 1980 đến nay, nhưng những chính sách hợp tác phát triển văn hóa giáo dục cũng đã có được những thành tựu lớn. Bằng chứng là rất nhiều các nguồn vốn đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở cho giáo dục, văn hóa thông tin, các dự án hỗ trợ tài chính cho các hoạt động giao lưu, trao đổi văn hóa giữa hai nước Việt Nhật đã được các nhà lãnh đạo Nhật Bản ký kết giúp đỡ Việt Nam. Năm 1991-1992, dự án chi 18 triệu Yên cho việc xây dựng và mua sắm các trang thiết bị của Nhà Hữu nghị, hội hữu nghị Việt Nhật. Năm 1992, dự án hỗ trợ tài chính cho tổng cục Thể dục thể thao. Năm 1993, dự án trang thiết bị cho việc làm phim hoạt hình của Việt Nam...

CHƯƠNG 2

NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NHẬT BẢN ĐỐI VỚI VIỆT NAM DƯỚI THỜI THỦ TƯỚNG KOIZUMI



2.1 Mục tiêu chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Việt Nam

Như đã nói từ đầu, trước những xu thế tất yếu của lịch sử, xu thế hợp tác phát triển, xu thế toàn cầu hóa đặc biệt là toàn cầu hóa nền kinh tế cùng với xu thế khu vực hóa đã khiến Nhật Bản phải điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình cho phù hợp với tình hình mới. Trong đó, Nhật Bản muốn cạnh tranh với Mỹ và Tây Âu thì nhất thiết phải chuyển hướng sang hợp tác và phát huy ảnh hưởng ở Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á. Chính vì lẽ đó, quan hệ ngoại giao với Việt Nam cũng không nằm ngoài mục tiêu hợp tác và mở rộng phạm vi ảnh hưởng, không chỉ phục vụ cho mục tiêu cạnh tranh với Mỹ và Tây Âu mà bên cạnh đó còn để cạnh tranh với Trung Quốc, một quốc gia rộng lớn cũng đang vươn lên mở rộng tầm ảnh hưởng trong khu vực.

Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ngày 21 tháng 9 năm 1973. Trải qua nhiều biến cố trong lịch sử, những mâu thuẫn và hạn chế trong quá khứ thì giờ đây, khi mà tình hình chính trị thế giới đã có những bước chuyển đáng kể, Nhật Bản luôn coi Việt Nam nói riêng và ASEAN nói chung như một đối tác chiến lược ở khu vực. Mục tiêu trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Việt Nam là hướng tới xây dựng quan hệ đối tác chiến lược hòa bình và phồn vinh ở châu Á.

Thủ tướng Koizumi đã kế thừa những yếu tố truyền thống vốn có trong quan hệ hai nước và những mục tiêu đó để làm cơ sở cho chính sách đối ngoại của mình. Từ khi lên nhậm chức tới khi mãn nhiệm, vị thủ tướng có thời gian cầm quyền lâu thứ ba của nước Nhật này đã có những chính sách đối ngoại tích cực và rộng mở hơn, góp phần củng cố hơn nữa quan hệ giữa hai nước, thúc đấy quan hệ Việt Nam – Nhật Bản lên một tầm cao mới của thế kỷ mới.

Nguyên thủ tướng Phan Văn Khải đã nói như sau khi đánh giá vai trò của thủ tướng Koizumi đối với Việt Nam: "Ông Koizumi là người bạn thân thiết của VN. Trong suốt thời gian làm thủ tướng, ông hết lòng thúc đẩy quan hệ giữa hai nước, mà nhờ đó quan hệ song phương ngày càng phát triển. Qui mô về ODA, thương mại và đầu tư của Nhật Bản vào VN, quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và VN ngày càng lớn. Đó là những đóng góp rất tích cực".

2.2 Biểu hiện trên lĩnh vực chính trị

Trên phương diện chính trị, những chuyến thăm cấp cao của thủ tướng cũng như của những người đứng đầu nhà nước là những minh chứng tiêu biểu nhất cho một chính sách đối ngoại rộng mở và thể hiện tinh thần hợp tác đối tác chiến lược dưới thời thủ tướng Koizumi. Trong nhiệm kỳ của mình, thủ tướng Koizumi đã có chuyến thăm cấp cao chính thức tới Việt Nam một lần, vào tháng 4 năm 2002. Đây là chuyến thăm cấp cao thứ 4 của các thủ tướng Nhật tới Việt Nam kể từ sau khi kết thúc chiến tranh lạnh đến nay.

Chuyến thăm của Thủ tướng J. Koizumi là chuyến thăm Việt Nam lần đầu trong thế kỷ 21 của một vị Thủ tướng Nhật Bản, mở ra một giai đoạn phát triển mới trong quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước, thể hiện quyết tâm của Chính phủ Nhật Bản trong việc phát triển hơn nữa quan hệ hợp tác với Việt Nam. Tại những cuộc tọa đàm đón tiếp, hai bên đã trao đổi ý kiến về quan hệ song phương, cũng như các vấn đề quốc tế và khu vực mà hai bên cùng quan tâm.

Bên cạnh các chuyến thăm cấp cao của các thủ tướng, dưới thời Koizumi đương nhiệm, các cuộc viếng thăm của lãnh đạo các bộ ngành của Nhật Bản cũng đã diễn ra và từ những cuộc viếng thăm đó đã có rất nhiều tuyên bố, hiệp định được ký kết và thực hiện. Năm 2002, lãnh đạo cấp cao của Nhật Bản và Việt Nam đã thống nhất xây dựng quan hệ Việt Nam – Nhật Bản theo phương châm “đối tác tin cậy, ổn định lâu dài”. Trong chuyến thăm Việt Nam tháng 7 năm 2004 của Ngoại trưởng Nhật Bản, hai bên đã ký tuyên bố chung “Vươn tới tầm cao mới của đối tác bền vững”.

Từ năm 2001 đến 2006, Nhật Bản và Việt Nam đã tạo dựng được cơ chế đối thoại ở nhiều cấp. Ngoài đối thoại chính trị định kỳ ở cấp Bộ trưởng Ngoại giao( từ tháng 7 năm 2004), hai bên đã xây dựng được cơ chế đối thoại kinh tế, an ninh và quốc phòng thường kỳ hàng năm. Hệ quả của chính sách đối ngoại thời Koizumi, tháng 5 năm 2007, hai bên đã thành lập Ủy ban hợp tác Việt – Nhật do hai bộ trưởng Ngoại giao làm đồng Chủ tịch phiên họp đầu tiên do đoàn tổ chức nhân chuyến thăm chính thức Nhật Bản của Phó Thủ tướng Bộ trưởng Phạm Gia Khiêm( ngày 22 đến 26 tháng 5 năm 2007).

Trong và sau thời Koizumi, Nhà nước Nhật Bản đã trao tặng Huân chương mặt trời mọc – Huân chương cao quý nhất của Nhật Bản – cho nguyên thủ tướng Phan Văn Khải (tháng 11 năm 2006) và nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan( tháng 5 năm 2007).

Với phương châm kế thừa và phát huy truyền thống đối ngoại vốn có của Nhật Bản với Việt Nam, quan điểm của Nhật Bản dưới thời Koizumi là ủng hộ đường lối đổi mới, mở cửa của Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới (vào APEC, WTO, ASEM, ARF...), coi trọng quan hệ với Việt Nam, lấy lợi ích mục tiêu lâu dài làm trọng.

Bên cạnh tổ chức các chuyến viếng thăm cấp cao, các buổi gặp gỡ và các cuộc họp ở các cấp, thủ tướng Koizumi còn hành xử theo một lối riêng, mang đậm phong cách đối ngoại của ông. Trong mối thịnh tình với Việt Nam nhiều năm qua, ông đã chọn người đứng đầu nội các Việt Nam Phan Văn Khải làm cái kênh hữu hiệu để chuyển tiếp cho những ý tưởng hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Bên cạnh các chuyến viếng thăm chính thức thì hai vị thủ tướng này cũng đã có những cuộc gặp gỡ thân mật tại nhà riêng, những bữa cơm thân mật cũng là thời điểm để hai vị nguyên thủ hiểu nhau hơn và siết chặt quan hệ Ngoại giao hơn.



2.3 Biểu hiện trên lĩnh vực kinh tế

Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Hàng năm, Nhật Bản cam kết cung cấp cho Việt Nam khoảng 1 tỷ USD vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA). Kể từ khi Việt Nam và Nhật Bản phấn đấu theo phương châm “đối tác tin cậy, ổn định và lâu dài”, thực hiện Sáng kiến chung Việt – Nhật, ký kết Hiệp định tự do, Xúc tiến và bảo hộ đầu tư Việt Nam – Nhật Bản từ năm 2003, quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản phát triển với tốc độ cao, bình quân tăng trên 19% một năm.



2.3.1 Mậu dịch và thương mại

Trong thời kỳ đương nhiệm của thủ tướng Koizumi, với những chính sách đối ngoại về kinh tế hợp lý và rộng mở, phương châm tăng cường hợp tác đối tác chiến lược với Việt Nam, kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản ngày càng tăng: năm 2001 đạt 351 tỷ USD, năm 2004 đạt 454 tỷ USD và năm 2006 đạt 580 tỷ USD. Kim ngạch hai chiều trong thời kỳ này tăng lên đến 8,4 tỷ USD năm 2005.

Chỉ tính riêng trong hai năm 2004-2005, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của hai nước đạt 7,5 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt khoảng 3,79 tỷ USD, tăng 30,2% so với năm 2003. Đến năm 2005, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt gần 8,2 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Nhật 4,56 tỷ USD, tăng trên 20% và nhập khẩu từ Nhật 3,6 tỷ USD, tăng 11,7% so với năm 2004.

Dưới đây là bảng thống kê kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Nhật Bản từ khi thủ tướng Koizumi nhậm chức (2001) đến năm 2005:



Năm

2001

2002

2003

2004

2005

Xuất khẩu

2.509,8

2.437,0

2.908,6

3.542,1

4.340,3

Nhập khẩu

2.183,1

2.504,7

2.982,1

3.552,6

4.074,1

Tổng giá trị

4.692,9

4.941,7

5.890,7

7.094,7

8.414,4

Đơn vị: triệu USD

2.3.2 Đầu tư trực tiếp (FDI)

Về đầu tư trực tiếp, nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới này tuy không phải là nền kinh tế có số vốn đăng ký lớn nhất nhưng trong thời kỳ từ 2001 đến 2006, Nhật Bản đi đầu về mặt giải ngân vốn FDI. Đến tháng 11 năm 2003 có 354 dự án với số vốn đăng ký 4,47 tỷ $. Trong số 62 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, Nhật đứng thứ tư sau Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan về số vốn đăng ký nhưng đứng đầu về kim ngạch đầu tư đã đi vào thực hiện (3,7 tỷ $). Mười một tháng đầu năm 2003, Nhật đứng thứ 5 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với số vốn 78 triệu USD, giảm 35% so với cùng kỳ năm 2002. Hai nước đã ký kết Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư tháng 11/2003. Tháng 12/03 hai bên đã thoả thuận Sáng kiến chung nhằm cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam. Riêng năm 2006, tổng vốn đầu tư của Nhật Bản là 1,34 tỷ USD với 137 dự án cấp mới và 85 lượt tăng vốn.

Tuy nhiên so với các nước châu Á khác, đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Việt Nam vẫn chưa tương xứng với khả năng và nhu cầu của cả hai bên. Chính vì thế, để đẩy mạnh hơn nữa dòng đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam, ngày 14/11/2003, đại diện của Chính phủ hai nước đã ký kết Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Sự kiện quan trọng này đã mở ra triển vọng to lớn cho hợp tác đầu tư Nhật-Việt.

2.3.3 Vốn viện trợ không hoàn lại (ODA)

Nhật Bản là nước tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam.ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam nhằm vào định hướng phát triển 5 lĩnh vực ưu tiên sau:

(1) Phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế, trong đó chú trọng hỗ trợ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường

(2) Hỗ trợ cải tạo và xây dựng các công trình điện và giao thông

(3) Hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nhất là phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn và chuyển giao công nghệ mới tại các vùng nông thôn

(4) Hỗ trợ phát triển giáo dục và y tế

(5) Hỗ trợ bảo vệ môi trường.

Trong thời kỳ Koizumi nắm quyền thủ tướng, ngày 2 tháng 6 năm 2004, Nhật Bản đã công bố Chính sách viện trợ ODA mới cho Việt Nam với ba mục tiêu chính: Thúc đẩy tăng trưởng, cải thiện đời sống – xã hội, hoàn thiện thể chế.



ODA của Nhật Bản cho Việt Nam thời thủ tướng Koizumi

Năm

2001

2002

2003

2004

2005

2006

Viện trợ không hoàn lại

17,3

13,1

12,4

12,6

12,58

8,8

Khoản vay

74,3

79,3

79,3

82,0

88,32

95,1

Tổng cộng

91,6

92,4

91,7

92,6

100,9

103,9

Đơn vị: tỷ yên

Cả hai Chính phủ đã không ngừng nỗ lực để cải thiện môi trường đầu tư kết quả là một khuôn khổ hợp tác mới đã ra đời. Hai nước đã ký kết Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư tháng 11 năm 2003. Tiếp theo đó là Hiệp Định khuyến khích đầu tư năm 2004. Tháng 12 năm 2003, hai bên đã thỏa thuận sáng kiến chung nhằm cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam.

Có thể nói, mặc dù thời kỳ thủ tướng Koizumi đương chức là thời kỳ không mấy thuận lợi của kinh tế Nhật Bản, thế nhưng những chính sách kinh tế giúp đỡ Việt Nam vẫn được đảm bảo thực hiện và đảm bảo chủ trương hợp tác chiến lược lâu dài, lấy lợi ích mục tiêu lâu dài làm trọng.

2.4 Lĩnh vực văn hóa – giáo dục

Quan hệ giao lưu văn hoá Việt Nam-Nhật Bản tuy đã có từ lâu đời, song mối quan hệ này đã diễn ra không sôi động như trong các lĩnh vực kinh tế từ sau chiến tranh lạnh tới đầu thế kỷ. Tuy nhiên, từ những năm đầu của thế kỷ mới, khi mà quá trình hội nhập của Việt Nam được đẩy mạnh và bước đầu hòa nhập vào xu thế toàn cầu hóa mọi mặt của đời sống xã hội thì những chính sách của Nhật Bản đối với Việt Nam trên lĩnh vực văn hóa cũng có nhiều chuyển biến tích cực.



2.4.1 Về giáo dục đào tạo

Tháng 10 năm 2004, thủ tướng Koizumi đã có chuyến thăm và trao đổi thân mật với các giáo viên giảng dạy và học sinh trung học tại các trường đào tạo tiếng Nhật ở Việt Nam. Điển hình trong số đó là cuộc gặp gỡ giáo viên và học sinh trường THPT Chu Văn An, Hà Nội. Chuyến viếng thăm này được thực hiện với mục đích nâng cao lòng say mê và nhiệt tâm trong công tác giảng dạy và học tâp tiếng Nhật, một ngôn ngữ đang ngày càng phát triển tại việt Nam. Tính đến cuối năm 2002, ở Hà Nội có 12 cơ sở đào tạo tiếng Nhật (có 6 trường Đại học quốc lập và 6 cơ sở tư nhân) với số học viên khoảng 3000 người. Thành phố Hồ Chí Minh có 26 cơ sở (6 trường Đại học quốc lập và 20 cơ sở tư nhân) với số học viên khoảng 7000 người. Tổng số học viên học tiếng Nhật ở Việt Nam hiện đã lên tới hơn 10000 nghìn người. Đó là những con số đáng kể trong giáo dục đào tạo Việt Nam, là hệ quả của những chính sách đầu tư, phát triển giáo dục của Nhật Bản đối với công tác giáo dục đào tạo ở Việt Nam. Dưới thời thủ tướng Koizumi, Nhật Bản là một trong những nước viện trợ không hoàn lại lớn nhất cho ngành giáo dục và đào tạo ở Việt Nam.

Về hợp tác đào tạo, Chính phủ Nhật Bản nhận khoảng trên 100 học sinh, sinh viên Việt Nam sang Nhật Bản đào tạo hàng năm. Ngoài ra còn có nhiều học sinh du học tự túc. Tổng số lưu học sinh Việt Nam ở Nhật hiện nay có khoảng 3.000 người và số lượng sinh viên Việt Nam học ở Nhật sẽ ngày càng đông hơn. Điều này là hệ quả tất yếu của những chính sách ưu đãi và hỗ trợ từ phía Nhật Bản, mà đi đầu trong số đó là thời kỳ của thủ tướng Koizumi từ những năm đầu của thế kỷ 21.

2.4.2 Về văn hóa, du lịch

Kể từ những năm đầu thề kỷ tới nay, Nhật Bản cũng thường xuyên cử chuyên gia đến Việt Nam, trợ giúp các dự án nghiên cứu bảo tồn, tôn tạo các ngôi nhà ở dân gian truyền thống tiêu biểu ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam.

Hàng năm Chính phủ Nhật viện trợ cho Việt Nam từ 1 đến 2 dự án viện trợ văn hoá không hoàn lại như thiết bị học ngoại ngữ, thiết bị bảo quản tư liệu Viện Hán-Nôm, Bảo tàng Lịch sử, xưởng phim hoạt hình.

Trong thời kỳ nắm quyền của thủ tướng Koizumi, Nhật Bản và Việt Nam đã ký tuyên bố chung về hợp tác du lịch Việt – Nhật tháng 4 năm 2005, tạo điều kiện cho việc thu hút khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam. Ngày 8 tháng 3 năm 2005, hai bên đã trao đổi Công hàm miễn thị thực nhập cảnh cho công dân hai nước Việt Nam và Nhật Bản mang Hộ chiếu Ngoại giao và công vụ trong thời hạn lưu trú không quá 90 ngày, bắt đầu thực hiện từ 1 tháng 5 năm 2005.


2.5 Chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Nhật Bản

2.5.1 Về chính trị

Kể từ khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới (1986) đến nay, quan hệ Việt Nam-Nhật Bản đã phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn trên tất cả mọi lĩnh vực khác nhau. Đối với Việt Nam, Nhật Bản luôn là một đối tác chiến lược cho sự phồn thịnh của đất nước nói riêng và của khu vực nói chung. Chính vì thế, Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn đề cao vai trò và vị trí của Nhật Bản so với các quốc gia ở Châu Á trong đó có Việt Nam. Về mặt chính trị ngoại giao, chúng ta vẫn luôn đề cao phát triển mối quan hệ giao hảo chính trị bền vững, kế thừa những truyền thống tốt đẹp đã từng có trong quan hệ hai nước.

Sự phát triển quan hệ Việt Nam – Nhật Bản thể hiện qua hoạt động trao đổi các chuyến thăm cấp cao giữa hai nước như chuyến thăm vào tháng 10 năm 2006 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và chuyến thăm vào tháng 11 năm 2007 của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đến Nhật Bản. Nhật Bản cũng thường xuyên có các lãnh đạo cấp cao, trong đó có các thủ tướng, thăm và làm việc tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, năm 2008, Việt Nam và Nhật Bản đã kỷ niệm 35 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao. Trước đó, vào năm 2006, Chính phủ Việt Nam và Nhật Bản đã quyết định đưa quan hệ hai nước tiến lên theo hướng quan hệ đối tác chiến lược. Đây là một mốc quan trọng trong quan hệ giữa hai nước.

Việt Nam ủng hộ Nhật Bản làm thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc mở rộng, và vận động Nhật Bản ủng hộ Việt Nam ứng cử làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009.
2.5.2 Về kinh tế

Không chỉ trong lĩnh vực chính trị, về mặt kinh tế, năm 2008 hai nước đã ký hiệp định đối tác kinh tế song phương (EPA). Đây là hiệp định hết sức quan trọng đối với Việt Nam. Trong chính sách phát triển kinh tế, Việt Nam luôn coi Nhật Bản là đối tác hàng đầu của Việt Nam, vừa là nhà đầu tư, nhà viện trợ hàng đầu, vừa là bạn hàng lớn.

Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật đạt 6,069 tỷ USD, tăng 16,7% so với năm 2006 và Nhật Bản tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam sau Hoa Kỳ. Bước sang năm 2008, với sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp hai nước, kim ngạch thương mại hai chiều đã có tín hiệu tăng trưởng tốt. Tính đến hết tháng 7 năm 2008, kim ngạch thương mại hai chiều đã đạt xấp xỉ 10 tỷ USD, tăng 59,8% so với cùng kỳ năm 2007, trong đó, Việt Nam xuất siêu trên 180 triệu USD. Như vậy, có thể tin tưởng rằng kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Nhật bản của cả năm 2008 sẽ vượt xa con số 15 tỷ USD, hoàn thành trước hai năm mục tiêu mà lãnh đạo cấp cao hai nước đề ra.

Chính phủ Việt Nam nhận định quan hệ thương mại giữa hai nước còn rất nhiều tiềm năng phát triển, bên cạnh độ lớn về dung lượng thị trường, có thể thấy, do ở trình độ phát triển khác nhau nên hai nền kinh tế có tính chất bổ sung, hỗ trợ cho nhau nhiều hơn là cạnh tranh với nhau.

Việt Nam đã chính thức ký Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP) vào ngày 1 tháng 4 năm 2008 và hiệp định này dự kiến sẽ có hiệu lực từ cuối năm 2008. Trong khuôn khổ AJCEP, Việt Nam cam kết loại bỏ thuế quan đối với 82% giá trị thương mại hai chiều Việt – Nhật trong 16 năm.

Việt Nam và Nhật Bản đã bắt đầu đàm phán chính thức Hiệp định Đối tác kinh tế (EPA) Việt Nam – Nhật Bản từ tháng 1 năm 2007 và đến nay đã trải qua 7 phiên đàm phán chính thức. Hiệp định này thể hiện mối quan hệ hợp tác toàn diện trên nhiều lĩnh vực gồm thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, thủ tục hải quan, di chuyển thể nhân, sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, cải thiện môi trường kinh doanh, hợp tác kiểm dịch động thực vật (SPS) và các nội dung hợp tác kinh tế khác. Một loạt các chương trình hợp tác kinh tế nhằm cải thiện môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh và các cơ sở hạ tầng phần mềm cho phát triển thương mại được thực hiện sẽ là nền tảng cho phát triển thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản.



2.5.3 Về văn hóa

Trong lĩnh vực văn hóa, năm 2008, các hoạt động kỷ niệm 35 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Nhật Bản đã diễn ra rầm rộ và đạt kết quả cao như Đại nhạc hội Nhật-Việt được tổ chức tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 5 đã thu hút số lượng đông khán giả và tạo được tiếng vang ở cả hai nước. Đại nhạc hội này có sự tham dự của các nghệ sỹ hàng đầu của Việt Nam và Nhật Bản.

Tại Nhật Bản, vào tháng 9, Việt Nam đã tổ chức "Tuần lễ Việt Nam" tại 3 thành phố lớn của Nhật Bản là Osaka, Nagoya và Tokyo. Sự kiện này kết thúc bằng "Lễ hội Việt Nam" diễn ra trong 3 ngày tại Công viên Yoyog ở thủ đô Tokyo, với sự tham gia của Hoàng Thái tử Naruhito và gần 150.000 người.

Lễ hội Nhật Bản tại Hội An được tổ chức năm 2008 là cơ hội để Nhật Bản giới thiệu nghệ thuật và văn hóa cho người dân Việt Nam và ngược lại là cơ hội để Việt Nam giới thiệu về đất nước và con người nói chung và về khu vực miền Trung nói riêng cho các du khách Nhật.




CHƯƠNG 3

TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TRONG QUAN HỆ VỚI NHẬT BẢN



3.1 Triển vọng phát triển quan hệ giữa hai nước

Mối quan hệ Việt Nam – Nhật Bản đã hình thành và phát triển trong lịch sử. Hiện nay trong giai đoạn mới, trước những tác động do hoàn canh thế giới đặt ra, mối quan hệ đó đã được lãnh đạo cấp cao hai nước thống nhất xây dựng theo phương châm “đối tác tin cậy, ổn định lâu dài”. Đã có rất nhiều văn bản, nghị quyết, nghị định và cam kết khẳng định điều đó: Tuyên bố chung “vươn tới tầm cao mới của quan hệ đối tác bền vững”, tuyên bố chung “làm sâu sắc hơn quan hệ Việt Nam và Nhật Bản”, “chương trình hợp tác hướng tới quan hệ đối tác chiến lược”...






Thủ tướng Shinzo Abe




Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng

Tháng 4 năm 2003, trong chuyến thăm Nhật Bản, nhân dịp hướng tới sự kiện trọng đại giữa hai nước, thủ tướng Phan Văn Khải đã gửi tới thủ tướng Koizumi một bức thư thể hiện rõ những giá trị bền vững trong mối quan hệ giữa hai nước như sau: “ Cùng với nhân dân Nhật Bản và nhân dân các nước trong khối ASEAN, nhân dân Việt Nam vui mừng chào đón năm giao lưu Nhật Bản – ASEAN 2003, năm diễn ra hai sự kiện lớn: kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Nhật Bản – Việt Nam và 30 năm quan hệ đối thoại Nhật Bản – ASEAN. Nhân dịp này tôi xin được gửi tới chính phủ và nhân dân Nhật Bản lời chào nồng nhiệt nhất.

30 năm qua, với bao biến động về kinh tế, chính trị trong khu vực cũng như trên thế giới, đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế, tiền tệ diễn ra tại châu Á, nhưng mối quan hệ Nhật Bản – Việt Nam nói riêng và quan hệ Nhật Bản – ASEAN nói chung vẫn không ngừng được duy trì và củng cố, đóng góp tích cực cho hòa bình, an ninh toàn khu vực.

Nhật Bản là đối tác đầu tư, thương mại quan trọng và là một trong những nước có nguồn viện trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam và các nước trong khu vực.

Chính phủ và nhân dân Việt Nam đánh giá cao sự giúp đỡ quý báu và sự hợp tác chặt chẽ của chính phủ và nhân dân Nhật Bản trong quá trình Việt Nam phấn đấu hướng tới mục tiêu hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, nâng mức tăng trưởng kinh tế, thu hẹp khoảng cách phát triển. Chính phủ và nhân dân Việt Nam gửi tới chính phủ và nhân dân Nhật Bản lời cảm ơn chân thành nhất....”.

Bức thư phần nào khắc họa lên một mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và Nhật Bản. Để rồi 5 năm sau, trong không khí hai nước tưng bừng chào đón kỷ niệm 35 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, thủ tướng Nhật Bản Yasuo Fukuda đã phát biểu: “Quan hệ Nhật Bản – Việt Nam đang bước đến giai đoạn tốt đẹp nhất trên mọi mặt. Trong thời gian tới, Nhật Bản và Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cường hơn quan hệ hợp tác về chiều sâu”. Điều này cho thấy rõ quyết tâm nâng cao tình hữu nghị, hợp tác lên một tầm cao mới của hai quốc gia. Hai bên luôn bày tỏ quyết tâm thiết lập mối quan hệ đối tác kinh tế toàn diện vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì sự phát triển và phồn vinh của châu Á. Với những gì mà Việt Nam và Nhật Bản đã thể hiện trong thời gian qua, đặc biệt là giai đoạn hợp tác Nhật – Việt dưới chính sách của thủ tướng Koizumi, chúng ta tin tưởng rằng trong thời gian tới, hai bên sẽ thực hiện mục tiêu và vai trò của mình một cách tích cực, đưa quan hệ hai nước lên một tầm cao mới, xứng đáng với những gì đã đề ra là “đối tác tin cậy, ổn định lâu dài”.



3.2 Những khuyến nghị đối với Đảng và Nhà nước trong quan hệ với Nhật Bản

Trong lịch sử quan hệ ngoại giao, cả hai nước đều nhất trí xây dựng mối quan hệ “đối tác tin cậy, ổn định lâu dài”. Mục tiêu là như vậy nhưng để làm được điều đó, đòi hỏi cả hai bên phải có những bước đi và những điều chỉnh thích hợp, đáp ứng được những yêu cầu trong tình hình mới, nhất là trong giai đoạn thế giới và khu vực có những biến động và thay đổi phức tạp khó lường như hiện nay. Xin được nêu ra đây một số đề xuất như sau:

Về chủ trương đường lối, Việt Nam cần nhất quán trong chính sách coi trọng và ưu tiên phát triển quan hệ với Nhật Bản.

Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết khẳng định Việt Nam sẽ quyết tâm cải cách, hoàn thiện hệ thống pháp lý, thể chế kinh tế, thị trường và hạ tầng cơ sở để thu hút và tạo thuận lợi tối đa cho các nhà đầu tư nước ngoài. Việt nam khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư Nhật Bản hợp tác trên mọi lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực cung cấp lao động, hàng hóa có chất lượng của Việt Nam cho thị trường Nhật Bản; cung cấp cho nguồn lực vốn, tài chính, khoa học kỹ thuật và công nghệ cao của Nhật Bản cho Việt Nam; đẩy mạnh hợp tác về giáo dục và đào tạo, trao đổi khoa học kỹ thuật và công nghiệp, du lịch, môi trường; tạo thuận lợi tối đa để các công ty Nhật Bản lựa chọn Việt Nam đặt cơ sở sản xuất công nghệ cao như một số tập đoàn Fujitsu, Canon, Nidec... đã từng làm.

Về kinh tế, Nhật Bản là nước đầu tư số 1 tại Việt Nam và do đó đã có nhiều đóng góp trực tiếp cho sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam. Tuy nhiên so với các nước châu Á khác, đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Việt Nam vẫn chưa tương xứng với khả năng và nhu cầu của cả hai bên. Chính vì thế vấn đề đặt ra cho Việt Nam là cần phải có nhiều hơn nữa các chính sách bảo hộ vốn đầu tư. Để làm được điều này, trách nhiệm chính thuộc về các cơ quan chuyên trách nhà nước. Chính sách có thông thoáng và đảm bảo thì đầu tư mới hiệu quả và tương xứng với tiềm năng.

Một vấn đề quan trọng nữa đặt ra cho Việt Nam hiện nay là cần phải làm cách nào nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng ODA, trong đó có việc giải ngân nguồn vốn này đang là quan tâm chung của cả hai phía, mà trách nhiệm trước hết là phía Việt Nam. Chúng ta cần phấn đấu thực hiện nghiêm chỉnh, đúng tiến độ thời gian và có kết quả cao vốn viện trợ không hoàn lại này.

Làm tốt được điều này đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ của các ban ngành chức năng từ trung ương đến cơ sở. Bên cạnh giải quyết các vấn đề về chính sách, chúng ta cần phối hợp làm tốt công tác kỷ luật, loại trừ tệ quan liêu, tham nhũng. Những vấn nạn đó được giải quyết thì cơ hội hợp tác đầu tư với đối tác Nhật Bản mới có cơ hội phát triển bền vững.

KẾT LUẬN

Thủ tướng Koizumi nhậm chức tháng 4 năm 2001, thời điểm nhậm chức cũng ở giai đoạn đầu của thế kỷ 21. Bên cạnh phải đối phó và giải quyết các vấn đề còn tồn tại trong nước, dưới sự ảnh hưởng của những biến động của thế kỷ trước, thủ tướng cũng đã có những quyết sách đúng đắn và hiệu quả cho chính sách đối ngoại đối với nước ngoài, trong đó có Việt Nam. Từ lịch sử quan hệ giữa hai nước đã hình thành gần 30 năm, cộng với một phong cách lãnh đạo đặc biệt của mình, thủ tướng đã tạo dựng lên được hình ảnh một vị lãnh đạo tài ba. Chính sách đối ngoại của Koizumi và thể chế quyền lực mà ông lãnh đạo trong hơn 5 năm cầm quyền đã mang đậm dấu ấn của ông. Việt Nam cũng vì thế mà đạt được nhiều thành tựu từ những chính sách đối ngoại rộng mở và thân thiết đó. Từ những phân tích, những biểu hiện trên các lĩnh vực trên đây, chúng ta cũng phần nào hình dung được kết quả của những thành tựu đó, có đóng góp không nhỏ của vị thủ tướng tài hoa này. Có lẽ, thủ tướng Koizumi không chỉ để lại dấu ấn qua những chính sách đối ngoại của mình, dấu ấn của ông còn để lại khi ông đã từ nhiệm. Những chuyến thăm, du lịch Việt Nam đột ngột và bất ngờ, như chuyến thăm địa đạo Củ Chi năm 2008 đã cho thấy, với Koizumi nói riêng và đối với Nhật Bản nói chung, Việt Nam giống như một người bạn vậy. Đúng như giáo sư Tomohiko Taniguchi, một nhà nghiên cứu người Nhật đang làm việc tại Trung Tâm Nghiên Cứu Chính Sách Đông Bắc Á tại Viện Nghiên Cứu Brookings đã phát biểu: “đối với Nhật Bản, Việt Nam quan trọng hơn quý vị tưởng rất nhiều. Nhật Bản cần đến Việt Nam không thua gì Việt Nam cần đến Nhật Bản”. Chúng ta hi vọng trong tình hình mới này, quan hệ truyền thống lâu dài giữa hai nước sẽ tiếp tục phát triển tích cực vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình và ổn định trong khu vực.


PHỤ LỤC

CHÂN DUNG MỘT SỐ THỦ TƯỚNG NHẬT BẢN



- Nakasone Yasuhiro (SN:21/5/1918) -

- Kaifu Toshiki (SN:2/1/1931)



-Hosokawa Morihiro (SN: 14/1/1938)



- Hasa Tsutomu (SN:24/8/1935)



- Murayama Tomiichi (SN:3/3/1924)





- Mori Yoshiro (SN:14/7/1937)

- Koizumi Jonichiro (SN:8/1/1942)




- Abe Shinzo (SN:21/9/1954)




- Yasuo Fukuda (SN:16/7/1936)



HOA ANH ĐÀO (SAKURA) VÀ TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG (KIMONO)















DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



  1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chính sách đối ngoại của một số nước sau chiến tranh lạnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

  2. Lê Thị Hồng Châm (2007), Tiểu luận môn Chính sách đối ngoại một số nước lớn trong giai đoạn hiện nay.

  3. PGS.TS Nguyễn Trình Mưu, TS. Nguyễn Hoàng Giáp (2006), Quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại Việt Nam hiện nay, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.

Danh mục Website:

  1. Bách khoa toàn thư mở: http://vi.wikipedia.org/wiki

  2. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: http://www.cpv.org.vn

  3. Bộ Ngoại giao Nhật Bản: http://www.mofa.go.jp

  4. Bộ Ngoại giao Việt Nam: http://www.mofa.gov.vn

  5. Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam: http://www.vn.emb-japan.go.jp

  6. Đại sứ quán nước CHXHCN Việt Nam tại Nhật Bản: http://www.mofa.gov.vn/vnemb.jp

  7. Thông tin Nhật Bản: http://www.thongtinnhatban.net

  8. Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản: http://www.ncnb.org.vn




Каталог: gallery
gallery -> Album hưƠng xuâN. Thơ phổ nhạC. Phòng thu audio. Nhạc Sĩ Đình Đạm
gallery -> Phụ cấp độc hại, nguy hiểm
gallery -> BỘ TÀi chính cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
gallery -> Nobel văn chương năm 1987 joseph brodsky
gallery -> TÊN ĐỀ TÀi luận văn thạc sĩ khnn chuyên ngành chăn nuôi từ NĂM 1996 2012
gallery -> BÁo cáo công khai đIỀu kiệN ĐẢm bảo chất lưỢng đÀo tạo tiến sĩ Tên chuyên ngành, mã số, quyết định giao chuyên ngành đào tạo
gallery -> CHƯƠng I kế toán vốn bằng tiềN
gallery -> KẾ toán vốn bằng tiền I. YÊU cầU
gallery -> Phụ lục II nguyên tắC, NỘi dung và KẾt cấu tài khoản kế toáN

tải về 163.25 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương