Lịch Sử Giáo Dục Việt Nam Chương 1 NỀn giáo dục dưỚi chế ĐỘ phong kiến việt nam



tải về 317.34 Kb.
trang1/3
Chuyển đổi dữ liệu13.08.2016
Kích317.34 Kb.
#17767
  1   2   3
Giảng viên: Ths. Nguyễn Thị Thanh

SĐT: 0985323096

Email: thanhhvqlgd@yahoo.com.vn

Lịch Sử Giáo Dục Việt Nam

Chương 1

NỀN GIÁO DỤC DƯỚI CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN VIỆT NAM

1. Quá trình phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam

1.1. Quá trình dựng nước và giữ nước.

- Thời kì 1000 năm Bắc thuộc kéo dài từ TK thứ II TCN đến TK X là thời kì hình thành giai cấp phong kiến.

- Lễ nghi Nho giáo được du nhập, Hán văn trở thành văn tự chính thức trong nhà trường.

- Chữ Nôm được sáng tạo, đạo Phật được truyền vào Việt Nam.



1.2. Quá trình phát triển và những đặc điểm cơ bản của chế độ phong kiến Việt Nam

a. Quá trình phát triển

- Chiến thắng của Ngô Quyền thắng quân Nam Hán mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử của chế độ phong kiến VN.

- Từ TK X đến giữa TK XIX là thời kì tồn tại, phát triển và suy vong của chế độ phong kiến. Có thể phân thành 3 giai đoạn:

+ Giai đoạn xây dựng, phát triển (TK X - XV): Nhà Ngô, nhà Đinh, nhà tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần.

+ Giai đoạn phát triển cực thịnh (TK XV- XVI): Nhà Hồ, nhà Lê Sơ

+ Giai đoạn suy vong (TK XVII- giữa TK XIX, trước khi thực dân Pháp xâm lược). Cuối đời Lê Trung Hưng và nhà Nguyễn.
b. Đặc điểm cơ bản của chế độ phong kiến Việt Nam

- Tổ chức nhà nước: là NN PK TW tập quyền, chịu ảnh hưởng của tổ chức nhà nước PK Trung Quốc.

- Xã hội: hai giai cấp cơ bản là quý tộc địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân phụ thuộc.

- Trong thời kì xây dựng và phát triển dân tộc ta đã tiến hành 4 cuộc kháng chiến lớn chống giặc ngoại xâm.

Kháng chiến chống Tống do Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt lãnh đạo (TK XI);

+ Kháng chiến chống Nguyên Mông do nhà Trần lãnh đạo (TK XIII) ;

+ Kháng chiến chống quân Minh do Lê Lợi lãnh đạo (TK XV) ;

+ Tây Sơn đánh quân Thanh ( TK XVIII).



- Kinh tế : Kinh tế nông nghiệp, tự cấp tự túc là mô hình kinh tế chiếm giữ vị trí thống trị. Ruộng đất nằm trong tay giai cấp địa chủ phong kiến.

2. Tư tưởng giáo dục chủ đạo của nền phong kiến Việt Nam

- Nho giáo là Tư tưởng giáo dục chủ đạo của nền phong kiến Việt Nam, đó là học thuyết bao gồm các tư tưởng chính trị, đạo đức, triết học, giáo dục do Khổng Tử (551-479 TCN) là người sáng lập trong thời Trung Hoa cổ đại.

- Về mặt chính trị: Mong muốn phục hưng lễ giáo nhà Chu, ổn định xã hội Trung Hoa bằng đức trị và lễ trị.

- Về nhân: Mong muốn tạo ra một mẫu người quân tử, tâng lớp trên của xã hội, đối lập với kẻ tiểu nhân. Nhân quy lại là cách đối nhân xử thế giữa người và người theo chế độ đẳng cấp và quan hệ tông pháp

- Các môn đệ xuất sắc nhất của Nho giáo gồm có Mạnh Tử (385-354 TCN), Tuân Tử (298-238).

- Nho giáo bao gồm 4 vấn đề cơ bản: TG quan duy tâm, quan niệm về lich sử, đạo đức, trị đạo.



Bốn vấn đề cơ bản của nho giáo

1-Thế giới quan duy tâm : Tin là có trời. Trời là chủ thể của vũ trụ, chi phối mọi sự việc trên thế gian. Bên cạnh trời có quỷ thần, quỷ thần bao quát được tất cả. Dần dần kínhthành trở thành cái gốc luân lí của đạo Nho và trở thành cái gốc đạo đức luân lý của người VN.



2-Quan niệm về lịch sử : Các nhà nho luôn tin vào lịch sử, dựa vào lịch sử và kinh nghiệm của lịch sử để chứng minh cho đạo đức và trị đạo của mình.

3-Quan niệm về đạo đức : Hạt nhân cơ bản của nho giáo là đạo đức, các quan điểm đạo đức này chi phối và chỉ đạo đường lối trị nước và hình thành đạo đức của xã hội. Cái học của nho giáo là đào tạo người hiền nhân, hiền giả.


Quan niệm về đạo đức trong nho giáo

- Nho giáo chủ trương lấy đức để trị nước. Đức ở đây là đạo đức của nhà vua. Nội dung của đức là phải thực hiện được 3 điều: Thứ, Phú, Giáo (làm cho dân cư được đông đúc, kinh tế phát triển, dân được học hành).

- Đạo đức nho giáo cô đọng ở 2 chữ: Luân, thường hay Cương thường  

Luân là ngũ luân, bao gồm 5 mối quan hệ: vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng, bạn bè. Sau này ngũ luân rút lại còn 3: vua tôi (Trung: trung quân, trung với vua); cha con (Hiếu: đạo hiếu); vợ chồng (biểu hiện ở sự phụ thuộc của người vợ đối với người chồng mà từ đó nảy sinh ra thuyết tam tòng). Đây là 3 mối quan hệ rường cột của chế độ phong kiến.

Thường tức Ngũ thường, biểu hiện ở 5 đức tính của người quân tử Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Có được 5 đức tính này thì người quân tử trở thành người hiền. Theo quan niệm của nho giáo, hạt nhân của đạo đức là chữ Nhân, biểu hiện cụ thể của nhân là Lễ. Con đường để đạt đến Nhân là chính danh.

4-Trị đạo : Nguyên tắc trị đạo của Khổng Mạnh là chính danh và lễ trị.

Chính danh: Khổng Tử quan niệm có Danh và Thực. Danh là tên gọi, chức vụ,

thứ bậc của người nào đó phải phù hợp với Thực, tức là phận sự của người đó. Danh và Thực trong mỗi người phải phù hợp với nhau tức là mỗi người phải làm theo đúng nghĩa vụ và bổn phận của mình.

Lễ trị: theo quan điểm của Khổng Tử vừa là nghi lễ, vừa là thể chế chính trị, vừa là quy phạm đạo đức. Trong mối quan hệ giữa Nhân và Lễ thì Nhân là nội dung của lễ, lễ là hình thức của nhân, nhân lnà chuẩn tắc để quy định lễ, lễ là quy định để thực hiện nhân.

Lễ nghi phong kiến quy định các tục lệ thiết triều của vua, sắc phục, quần áo của các phẩm hàm quan tước trong triều, các thủ tục ma chay, cưới xin, ăn hỏi…



3. Hệ thống tổ chức của nền GD PK VN:

3.1. Trường học thầy đồ: là loại trường tư thục được lập ra ở nông thôn, ở các làng xã thu hút trẻ em từ 7 tuổi trở lên.

- Tổ chức lớp học: số lượng HS không có quy định cụ thể, tùy vào tiếng tăm của thầy.

- Tài liệu học tập: Thông thường là các sách kinh điển của Nho gia, các bài văn, bài thơ của các vị TS đã thi đỗ trước đó.

Phương pháp dạy và học: PP thầy đọc, trò nghe, học thuộc lòng cổ sử, cổ văn, học thuộc lòng những lời nói của cổ nhân, thánh hiền. Kỉ luật học tập chủ yếu được duy trì bằng roi vọt đánh mắng

3.2. Một vài trường học nổi tiếng

Trường của thầy Chu Văn An (1292-1370), đời nhà Trần, ở xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội.

- Trường của thầy Trần ích Phát (TK XV, huyện Chí Linh, Hải Dương).

- Trường Nghi Am của thầy Nhữ Bá Sỹ thế kỉ XIX.

- Trường của bà Ngô Chi Lan (TK XV) ở Kim Hoa, Đông Anh, Hà Nội.

- Trường của bà Đoàn Thị Điểm (TK XVIII) ở huyện Mỹ Hào – Hải Dương.


3.3. Trường công:

Từ thời nhà Trần trở đi, ở mỗi phủ, huyện có các quan giáo thụ và huấn học trong nom việc học và dạy tứ thư, ngũ kinh cho các nhà nho.

- Trường Quốc tử giám là trường đại học đầu tiên của VN được xây dựng từ thế kỉ XI (năm 1076) dưới triều Lý Công Uẩn. Đây là nơi biểu trưng cho trí tuệ và nền văn hiến VN dưới chế độ PK.

Sự phát triển của nó tùy thuộc vào sự hưng thịnh hay suy vong của mỗi triều đại phong kiến.



a. Bộ máy tổ chức quản lí nhà trường (thời Nguyễn)

- Tế tửu và Tư nghiệp là chức quan quản lí cao nhất của nhà trường.

- Đội ngũ quan văn làm công tác giảng dạy gồm có: học chánh, giáo thụ, trợ giáo (tối thiểu phải đỗ cử nhân).

- Học trò: có Tôn sinh thuộc dòng tôn thất, ấm sinh là con quan triều đình và con quan lại đứng đầu hàng tỉnh ở các địa phương, giám sinh là con quan lại nhỏ ở địa phương hoạc những thanh niên tuấn tú xuất thân từ tầng lớp thường dân.

- Nhân viên

b. Chế độ học bổng, thưởng phạt:

Dựa vào kết quả của các kỳ khảo hạch để cấp học bổng bằng dầu, gạo cho học trò



c. Tài liệu học tập

Gồm những sách kinh điển chủ yếu của Nho giáo: Tứ thư, Ngũ kinh.

- Tứ thư: 4 cuốn sách kinh điển của Nho giáo (Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử)

- Ngũ kinh: gồm 5 kinh (Kinh thư, Kinh dịch, Kinh lễ, Kinh xuân thu) do Khổng Tử chép và chỉnh lí.



4. Lực lượng giáo dục

- Gia đình: Truyền cho con cái những lễ nghĩa, quy tắc đức hạnh.

- Hội đồng môn: những người bạn học tập hợp nhau lại, có trách nhiệm giữ gìn phẩm chất cho nhau và giữ gìn lòng biết ơn thầy day.

- Hội tư văn: hội của các nhà Nho ở cùng một địa phương.



5. Chế độ khoa cử

- Nhà Lý (1009-1225)

 1070 mở Quốc Tử Giám làm nơi học tập cho con em quý tộc quan lại.

 Chế độ giáo dục và thi cử đã mang tính chất chính quy.

 Giáo dục gắn với sự truyền bá Nho giáo.



- Nhà Trần: Phật giáo và Đạo giáo vẫn được coi trong. Nho giáo chưa hoàn toàn được giữ vị trí độc tôn.

- Nhà Hồ: Hồ Quý Ly coi trọng chữ Nôm. Năm 1396 ông định phép thi Hương, thi Hội, thi Đình. Phép thi cử ngày càng trở nên quy củ.

- Nhà Lê: Năm 1428, Lê Thái Tổ lập trường Quốc Tử Giám để cho con cháu quan lại và các thường dân tuấn tú được vào học.

Giai đoạn đầu thời Lê, chế độ khoa cử phát triển toàn diện, nho giáo chiếm vị chí độc tôn và là tư tưởng chủ đạo.



- Nhà Mạc: Lập một số văn miếu tại các tỉnh, cứ 3 năm mở một kỳ thi hội, thi đình để tuyển chọn nhân tài.

- Nhà Lê – Trịnh: Việc học vẫn phát triển, các khoa thi vẫn mở để tuyển chọn nhân tài. Nhưng cuối đời nảy sinh nhiều tiêu cực, nền giáo dục bị suy thoái.

- Vua Quang Trung: Việc học được mở rộng, chế độ thi cử được chấn chỉnh lại. Quang Trung muốn đưa chữ Nôm lên địa vị chính thức, chữ Hán không còn giữ vị trí độc tôn.

- Nhà Nguyễn: Năm 1918 là khoa thi Hương cuối cùng ở Việt Nam. Địa vị thống trị của Nho giáo không còn nữa.

Ưu và nhược điểm của nền giáo dục dưới chế độ PK

- Ưu điểm:

+ Tạo nên một đất nước có truyền thống hiếu học, yêu chuộng văn hóa, Tôn sư trọng đạo

+ Tạo nên những nhà văn hóa, nhà giáo dục, nhà sử học, nhà ngoại giao, nhà nghiên cứu, nhà quân sự nổi tiếng….

- Nhược điểm:

+ Đào tạo ra thế hệ những con người bảo thủ, kìm hãm sự phát triển của xh.

+ Tư tưởng GD độc quyền chi phối nền GD và chế độ khoa cử, tức là đào tạo và lựa chọn quan lại cho bộ máy nhà nước PK (Trần Đình Hượu, 1989).

 Mục đích đầu tiên của GD là truyền đạt các khái niệm về đạo đức nho giáo và dạy chữ Hán.

 Tạo ra một lớp người hạn chế về suy nghĩ và tình cảm thực sự, những xác chết, những cỗ máy phục vụ cho cấp trên (Đào Duy Anh, 1937).



6. Một số nhà trí thức tiêu biểu

- Chu Văn An (1292-1370): là người xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. Ông đã làm đến chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám đời nhà Trần.

- Hồ Quý Ly (1330- 1407): người làng Đại La, tỉnh Thanh Hóa, làm quan đời nhà Trần và lập ra nhà Hồ.

Ông đã chỉ ra những chỗ đáng nghi ngờ trong sách kinh điển, dịch Kinh Thi ra chữ Nôm.



- Nguyễn Trãi (1380- 1442): là một nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng lớn thế kỷ XV.

- Lê Quý Đôn (1726- 1784) là nhà bác học lớn của VN TK XVIII, người làng Diên Hạ, tỉnh Thái Bình. Ông nêu ý kiến tiến bộ về phương châm học tập: phải biết nắm lấy cái chính, phải biết suy luận, không chỉ câu nệ vào sách vở, học phải hành.

- Nguyễn Thiếp (1723-1804), người làng Nguyệt Ao, Đức Thọ, Hà Tĩnh đã đỗ Hương cống đời Lê, làm quan thời vua Quang Trung.

- Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) người làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Ông là người tiên tiến nhất trong tầng lớp trí thức phong kiến, đã nhận thức được xu thế tiên tiến của thời đại.

- Những quan điểm giáo dục của Nguyễn Trường Tộ:

+ Ông phê phán nền học chạy theo lối khoa cử, học thuộc làu kiến thức trong " Tứ thư, ngũ kinh" để thi cử cho đỗ làm quan.

+ Khẳng định vai trò to lớn của giáo dục đối với thực tế XH

+ Phương châm giáo dục: Học gắn liền với hành, học thực dụng....

+ Đề nghị đưa vào nội dung giáo dục thời đó những môn khoa học mới: Thiên văn, toán học, LS,ĐL, Pháp lý, Ngoại ngữ...

+ Đề nghị thành lập các trường quốc học, tỉnh học và xây dựng mmọt số trường theo mô hình kiểu Tây ...

+ Đề nghị mở hệ thống những trường chuyên nghiệp về nông nghiệp, khai khoáng, cơ xảo, sơn lợi....

+ Đề nghị triều đình cử người xuất dương du học

+ Đề nghị bỏ chữ Hán, dùng chữ quốc âm để dạy học

- Những cống hiến:

Nguyễn Trường Tộ là nhà cải cách lớn của xã hội VN vào buổi đầu thời cận đại. Đương thời, những đề nghị của ông chưa được chấp nhận nên chưa có nhiều đóng góp. Nhưng so với thời đại ông là người tiên tiến nhất trong tầng lớp trí thức PK. Những quan điểm của ông đánh dấu một bước phát triển mới của tư tưởng giáo dục dân chủ buổi đầu thời cận đại của xã hội Việt Nam

Thực hành:

1. Tìm hiểu nền giáo dục của các triều đại PK nước ta: Nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê, nhà Hồ, nhà Mạc, nhà Lê - Trịnh, nhà Nguyễn.

2. Tìm hiểu những cống hiến về giáo dục của các nhà giáo dục PK lỗi lạc nước ta.

- Thời gian: 5 tuần

- Cơ sở để tìm hiểu: Mạng Internet, các thư viện, các di tích văn hóa giáo dục như Quốc tử giám, Văn miếu Mao Điền, Bảo tàng….

- Sản phẩm: Báo cáo, album, PowerPoit, Videoclip, kịch…….để tổ chức một triển lãm vào dịp 20/11.


Chương 2

NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM THỜI PHÁP THUỘC

1. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam trong thời kì Pháp thuộc

1.2. Hoàn cảnh lịch sử (1858-1898)

- Triều đại PK cuối cùng trong lịch sử VN là triều đại nhà Nguyễn, ra đời năm 1802.

- Ngày 1/9/1858 liên quân Pháp- Tây Ban Nha nổ súng tấn công Đà Nẵng, chính thức mở màn cho cuộc xâm lược nước ta.

- Các vua triều Nguyễn đầu hàng, từng bước cắt đất dâng cho giặc. Năm 1884 nhà Nguyễn kí hiệp ước Patơnot đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp.

- Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi rời khỏi hoàng thành Huế, dựng cờ Cần Vương, kêu gọi khởi nghĩa.

- Các phong trào khởi nghĩa diễn ra vô cùng sôi nổi nhưng đều thất bại vì chưa có một giai cấp thực sự tiên tiến lãnh đạo.

- Trong thời gian 40 năm (1858-1898) thực dân Pháp đã hoàn thành cuộc xâm lược và bình định Việt Nam.

- Từ những năm cuối TK XIX, nước ta mất tên trên bản đồ thế giới, trở thành thuộc địa của Pháp.



1.2. Sự thiết lập và cai trị bộ máy cai trị thuộc địa của Pháp ở Việt Nam

Thực dân Pháp đã chia cắt nước ta thành 3 kì riêng biệt với 3 chế độ cai trị khác nhau, mỗi kì là một bộ phận của Đông Dương thuộc Pháp.

- Ở Nam kì Pháp áp đặt chế độ trực trị mà đặc điểm của nó là sử dụng bộ máy quan lại cai trị thời PK, chồng lên trên là hệ thống quan lại cao cấp người Pháp.

- Ở Trung Kì, áp đặt chế độ bảo hộ cho phép tồn tại triều đình Huế, vua, viện cơ mật dưới sự bảo hộ, giám sát, chỉ đạo của Pháp.

- Ở Bắc Kì áp đặt chế độ nửa bảo hộ, nửa trực trị. Thực dân Pháp ban đầu ban cho triều đình ít quyền hành trên danh nghĩa rồi thủ tiêu dần quyền hạn của triều đình và biến thành một thuộc địa như Nam kì.

Dù là ba kì với ba chế độ cai trị khác nhau, thực dân Pháp đều sử dụng bọn quan, địa chủ, cường hào, ác bá làm tai sai. Đó là sự cấu kết chặt chẽ giữa hai thế lực phản động trong chính sách thống trị của chủ nghĩa thực dân.



1.3. Chính sách áp bức, bóc lột về kinh tế

- Mục đích của cuộc xâm lược thuộc địa là biến thuộc địa thành thị trường độc chiếm, thành nơi cung cấp nguyên vật liệu, nhân công và tiêu thụ hàng hóa cho nền kinh tế chính quốc.

- Thực dân Pháp đã tiến hành 2 cuộc khai thác đại quy mô (lần 1: đầu TK XX đến trước 1914; lần 2: sau chiến tranh TG 1 đến 1930) nhằm khai thác thuộc địa, vơ vét tài nguyên thiên nhiên, cung cấp lợi nhuận cho tư bản Pháp.

- Tăng cường chính sách thuế khóa để cung cấp ngân sách cho toàn Đông Dương, nuôi sống một bộ máy quan lại đông đúc kể cả người Pháp và người Việt: thuế gián thu (thuế muối, thuế rượu, thuế thuốc phiện) đem lại 2/3 ngân sách Đông Dương; Thuế trực thu (thuế đinh, thuế điền).

- Pháp tăng cường đầu tư vốn để xây dựng các công trình giao thông vận tải nhằm phục vụ khai thác công thương nghiệp : mỏ (than, kim loại) và một số ngành khác (tơ lụa, sợi, thuốc lá).

Về thương nghiệp: thiết lập hàng rào quan thuế, giành thị trường Đông Dương độc chiếm cho tư bản Pháp.

 Về nông nghiệp: tăng cường chiếm đất của nông dân để lập đồn điền, biến một bộ phận lớn nông dân mất ruộng, lưu tán, bỏ làng mạc vào làm thuê cho các đồn điền.

 Trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 1, các nước thuộc địa đã trở thành địa phương cung cấp sức người, sức của cho các nước đế quốc chính quốc đang tham chiến.

- Quan hệ SX TBCN dưới hình thức thuộc địa đã hình thành ở Việt Nam một tình trạng kinh tế XH khá phức tạp dẫn đến sự phân hóa giai cấp và tạo ra những giai tầng mới trong XH.

 Giai cấp địa chủ PK trở thành chỗ dựa cho chính sách xâm lược của đế quốc Pháp.

 Giai cấp nông dân là giai cấp đông đảo nhất chiếm tuyệt đại đa số nhân dân trong cả nước, là giai cấp bị áp bức bóc lột nặng nề.

 Giai cấp tư sản ra đời khi giai cấp công nhân đã lớn mạnh và giữ vai trò lãnh đạo.

 Giai cấp nông dân hình thành trên quá trình bần cùng hóa và phá sản của nông dân.

Giai cấp tiểu tư sản là giai cấp trung gian trong XH và là nơi đón nhận mọi tư tưởng từ mọi nơi đến.

Sự phân hóa giai cấp mới dẫn đến sự xuất hiện của ý thức

hệ tư tưởng mới.

 Hệ ý thức PK: đã lạc hậu lỗi thời

 ý thức tư sản nhu nhập vào VN thông qua các sĩ phu yêu nước tiến bộ vào đầu TK XX.

 ý thức vô sản: Tiếng nói của giai cấp công nhân dần dần là tiếng nói tiêu biểu của dân tộc. Từ sau năm 1930, ý thức vô sản đã được xác lập trên vũ đài lịch sử.

2. Chính sách GD ngu dân của thực dân Pháp ở VN

.2.1. Mục đích thi hành chính sách ngu dân

Thực dân Pháp chủ trương làm suy thoái tinh thần phản kháng và trỗi dậy lâu dài của dân ta để dễ bề thống trị.

Chú ý đến chính sách văn hóa giáo dục, xem đó là công cụ để chinh phục tâm hồn những người dân thuộc địa.

Chính sách ngu dân nhằm nô dịch hóa, bần cùng hóa, gieo giắc tâm lí tự ty, khiếp sợ uy quyền " Đại Pháp" được ngụy trang dưới những chiêu bài ôchấn hưng nền họcằ của người bản xứ, núp dưới những luận điệu đem ngọn đuốc văn minh đến khai phá cho các dân tộc còn lạc hậu.



2.2 Các chủ trương mới trong lĩnh vực trường học

- Đào tạo tay sai, đào tạo công nhân và thợ lành nghề phục vụ cho yêu cầu khai thác thuộc địa.

- Phổ biến nền văn hóa giáo dục nô dịch, thực hiện mưu đồ đồng hóa lâu dài đối với dân tộc ta.

- Thông qua việc dạy học và giáo dục nhằm làm cho thế hệ trẻ hiểu nền văn minh Pháp, sùng bái văn chương Pháp, từ đó coi khinh nền văn hóa cổ truyền của dân tộc và trở thành người dân thuộc địa trung thành với mẫu quốc.

- Mâu thuẫn nảy sinh giữa mong muốn làm ngu dân phải hạn chế mở trường và nhu cầu đào tạo tay sai, và âm ưu ru ngủ, đầu độc tinh thần thế hệ trẻ.

- Đối tuợng, thành phần được học là con em những kẻ giàu có, tư sản, địa chủ PK và tầng lớp trên trong XH.

- Năm 1862, Pháp mở trường thông ngôn nhằm đẩy mạnh xâm luợc và khai thác thuộc địa.

- Năm 1871 mở trường sư phạm nhằm đào tạo đội ngũ giáo viên tiểu học phục vụ cho việc phổ biến nền văn hóa nô dịch của Pháp.

- Năm 1912, thực dân Pháp mở trường ĐH và phần lớn trong số họ sau khi học xong phục vụ cho chính quyền thực dân.

- Chính quyền Pháp mở các loại truờng chuyên nghiệp đào tạo công nhân và thợ lành nghề phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa.

- Chúng hạn chế mở truờng và giới hạn quyền học tập ở mức thấp nhất đối với con em nhân dân LĐ.

- Theo số liệu năm 1936 – 1937: Bậc sơ cấp (lớp vỡ lòng, lớp 1) có 2% dân số; bậc tiểu học (lớp 2, 3, 4) có 0,4% dân số, bậc cao đẳng tiểu học (tương đương với trung học cơ sở ) có 0,02%; bậc trung học tỉ lệ 0,0019%.

- Thực dân Pháp đã tiến hành những cải cách đổi mới nội dung, tư tưởng giáo dục, cải cách học thuật và văn tự, thay thế hệ thống trường Hán học bằng hệ thống trường tiểu học Pháp-Việt.

Các môn khoa học tự nhiên được đưa vào chương trình như: Toán, Lí, Hóa, Sinh. Các môn khoa học XH như Văn học, Lịch sử, Địa lí, Triết học đều như sách dùng bên Pháp hoặc bên soạn lại để tăng cường tính chất nô dịch. Thay thế chữ Hán bằng chữ Pháp, dùng chữ Pháp làm thứ tiếng dạy và học chính thức trong nhà trường để xúc tiến việc du nhập nền văn hóa tư bản vào thuộc địa.

Việc hủy bỏ chữ Hán còn nhằm mục đích giành giật ảnh hưởng đối với nền văn hóa phong kiến dân tộc cũ. Đây là một biện pháp nhằm ngăn chặn những tư tưởng yêu nước tiến bộ vào VN vì lúc đó chữ Hán đang được các sĩ phu yêu nước sử dụng để truyền bá tư tưởng yêu nước và bài Pháp trong nhân dân. (Giáo trình không nói đến việc sử dụng chữ Quốc ngữ, một phương tiện để trung hòa quá khứ tôn sùng văn hóa nho giáo, trong hệ thống trường Pháp-Việt)

Đến năm 1919, chế độ khoa cử như dưới thời kì PK hoàn toàn bị bãi bỏ. (Sự tan rã của trường học thầy đồ và sự ra đi của các ông đồ).

Thực dân Pháp ngăn cấm HS VN đi du học ở nước ngoài vì đó chính là con đường tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của cách mạng tư sản TG và của chính cách mạng Pháp hoặc những tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản để tiến hành cách mạng trong nước. Chính sách này thực sự thâm độc, nhằm hạn chế người VN tiếp xúc được những tư tưởng cách mạng tiến bộ trên TG.

2.3. Các chủ trương trong lĩnh vực hoạt động văn hóa xã hội

Triệt để dùng báo chí làm cơ quan ngôn luận, tuyên truyền chính sách thực dân, các quan niệm sống phương Tây, tuyên truyền đề cao văn hóa Pháp, miệt thị văn hóa dân tộc.

Thực dân Pháp cho ấn hành, xuất bản các loại sách triết học, lưu hành các loại sân khấu điện ảnh.

Trong đời sống sinh hoạt xã hội, thực dân Pháp cổ vũ lối sống xa hoa trụy lạc của CNTB: cho phép nấu rượu, mở sòng bạc, lập nhà chứa, tiêm hút thuốc phiện, tổ chức các trò chơi nhân dịp kỉ niệm cách mạng TS Pháp.



2.4. Dùng luật pháp để ngăn chặn ảnh hưởng và đàn áp những tư tưởng GD tiến bộ

Ngăn chặn ảnh hưởng của những trào lưu tư tưởng GD tiến bộ trên TG vào VN.

Kiểm soát chăt chẽ các con đường giao lưu văn hóa, ngăn cấm những tài liệu tuyên truyền, sách báo có tư tưởng tiến bộ được du nhập vào VN.

Tăng cường bộ máy cai trị, tổ chức quân đội, mật thám, chỉ điểm theo dõi các hoạt động GD tiến bộ. Xử phạt nặng nề GV và HS có những tư tưởng hoặc hoạt động GD tiến bộ. Đàn áp các gia đình có con em tham gia vào các tổ chức GDCM, khủng bố các phong trào đấu tranh của HS, SV đòi tự do, dân chủ.



3. Hậu quả của chính sách GD ngu dân

- Chính sách GD ngu dân của TD Pháp đã để lại những hậu quả nặng nề; hơn 90% dân số mù chữ.

- Chính sách « dùng người Việt trị người Việt » đã làm ra đời một lớp người Việt mất lương tri, bán dân hại nước.

- Chính sách ngu dân của TD Pháp đã ngăn chặn sự phát triển của XH, ngăn chặn tinh thần tự do dân chủ nhằm kìm hãm phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân VN.
Chương 3

PHONG TRÀO ĐẤU TRANH

CHỐNG NỀN GD NÔ DỊCH CỦA TD PHÁP

1. Phong trào đấu tranh chống nền GD nô dịch do các sĩ phu yêu nước lãnh đạo

Bước sang đầu TK 20, công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất đã làm xuất hiện những yếu tố của nền SX TBCN, làm ảnh hưởng đến các gia cấp trong XH và phong trào cách mạng đang diễn ra trong nước.

Giai cấp PK Nhật Bản tiếp thu luồng tư tưởng tư sản mới và đã đưa nước Nhật từ PK lên tư sản.

Ở VN, các tư tưởng TS chỉ được thể hiện thông qua một số sĩ phu yêu nước. Họ đã phát động phát động phong trào cứu nước theo khuynh hướng dân chủ TS, tiêu biểu là phong trào Đông du và Đông kinh nghĩa thục.

Về phương diện GD, các phong trào vận động cứu nước cũng là cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại nền GD nô dịch của TD Pháp. Các cuộc đấu tranh có tổ chức hơn và lan rộng ra cả nước ngoài. Đấu tranh cho một nền GD độc lập, dân chủ và tiến bộ.

Có sự chuyển biến của các cuộc đấu tranh, từ chỗ bất hợp pháp, nuối tiếc cho một nền học cũ đến có tổ chức và hướng tới một nền học dân chủ, tiến bộ



1.1. Phong trào Đông Du

Trong phong trào vận động cứu nước giải phóng dân tộc, các sĩ phu yêu nước đặc biệt chú ý đến việc GD để « nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí », học tập các nước văn minh tiên tiến trong công cuộc Duy tân đất nước làm cho dân giầu nước mạnh đủ sức chống xâm lược.

Sự tư sản hóa của giai cấp PK Nhật Bản đã làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến tầng lớp sĩ phu yêu nước VN. Một xu hướng Duy tân trỗi dậy: phong trào Đông du, đi về phương Đông (Nhật Bản) để học tập và tìm đường cứu nước được phát động do Phan Bội Châu lãnh đạo.

Mục đích của phong trào duy tân là dùng bạo lực đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập cho Tổ Quốc với chủ trương là dựa vào sự giúp đỡ của Nhật Bản và các nước phương Tây.

Năm 1905, Phan Bội Châu lên đường sang Nhật để vận động cho du học sinh sang học. Từ năm 1905- 1908, phong trào phát triển rất mạnh mẽ sôi nổi, số HS tăng lên rất nhanh và đã tạo nên một phong trào cách mạng sôi nổi, được nhân dân ta tích cực hưởng ứng.

Tháng 8/1908, sau khi kí hiệp ước bắt tay với Nhật, Pháp thẳng tay đàn áp những gia đình có con em du học, Nhật giải tán HS VN và trục xuất các lãnh tụ của phong trào. Vì vậy phong trào đã nhanh chóng tan rã và đi đến thất bại.



Những đóng góp của phong trào Đông Du:

- Là phong trào đấu tranh sôi nổi nhất đầu TK 20.

- Giác ngộ cho quần chúng ND thấy rõ bộ mặt của kẻ cướp nước, GD lòng yêu nước, căm thù giặc, ý chí đấu tranh vì độc lập, tự do của TQ.

- Đào tạo được một đội ngũ chiến sĩ cách mạng có năng lực, thúc đẩy, lôi cuốn các sĩ phu trong nước.



Nguyên nhân dẫn đến thất bại của phong trào Đông Du:

- Phan Bội Châu đã tin tưởng vào sự giúp đỡ của Nhật Bản mà không nhận thấy bản chất giai cấp giống nhau của thực dân và đế quốc: chúng đều là kẻ xâm lược và bóc lột nhân dân thuộc địa.

- Những người đuợc Phan Bội Châu lựa chọn đi du học phần lớn đều là con em gia đình giàu có, thuộc tầng lớp trên và tầng lớp trung gian. Điều này cho thầy phong trào Đông du chủ yếu dựa vào sự phân biệt về nghề nghiệp, tôn giáo, địa vi, mà không dựa trên một quan điểm giai cấp nhất định. Vì thế mà phong trào chưa gây được ảnh hưởng một cách sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân lao động.

1.2. Cuộc đấu tranh theo khuynh hướng cải lương, đại diện là Phan Chu Trinh

Song song với khuynh hướng bạo động của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh khởi xướng một phong trào đấu tranh chống lại nền GD nô dịch của thực dân Pháp theo khuynh hướng cải lương, ôn hòa. Ông kiên quyết chống lại đường lối bạo động và cầu ngoại viện của Phan Bội Châu. Ông chủ trương hai quan điểm: dân trí và dân quyền; cải cách và dựa vào Pháp để đánh đổ bọn vua quan PK.

Về GD: - ông cổ luôn cổ vũ cho một nền tân học, thay lối học khoa cử bằng thực học, bỏ chữ Hán, dạy chữ quốc ngữ, tuyên truyền GD cho nhân dân lòng yêu nước, lòng tự trọng và nếp sống văn minh.

- Ông tích cực diễn thuyết để tuyên truyền chủ nghĩa cải lương của mình, vận động mở trường kiểu mới, bỏ chữ Hán, dạy chữ quốc ngữ, dạy vẽ, hát, thể thao. Các sĩ phu tổ chức các buổi diễn thuyết cổ động nền tân học, bàn luận các vấn đề văn hóa, xã hội, thời sự quốc tế, tuyên truyền nếp sống văn minh. (Một nền GD tiên tiến, gắn nhà trường với thực tiễn XH. So sánh với nền GD NT của chúng ta hiện nay).

Phong trào đấu tranh do Phan Chu Trinh lãnh đạo là cuộc đấu tranh tấn công trực diện vào chính sách VH GD nô dịch phản động của TD Pháp, có tác dụng nâng cao tinh thần yêu nước và tình cảm dân tộc. Mặc dù phong trào chỉ hạn chế trong khuôn khổ cải lương, ôn hòa nhưng cuối cùng cũng bị thực dân Pháp trấn áp và đi tới chỗ thất bại.

1.3. Phong trào Đông kinh nghĩa thục

- Đông kinh nghĩa thục được thành lập tháng 3/1907 do sáng kiến của các sĩ phu yêu nước tiến bộ với phương trâm cách mạng bằng văn hóa và chịu ảnh hưởng của Khánh hưng nghĩa thục nước Nhật. Phong trào nhằm GD lòng yêu nước, truyền bá tư tưởng canh tân trong nhân dân.

- Đông kinh nghĩa thục không chỉ là một trường học mới mà còn là một tổ chức cách mạng hoạt động công khai nhằm hưởng ứng cuộc vận động cứu nước do Phan Bội Châu và hội Duy tân đang phát động lúc đó.

- Đường lối của Đông kinh nghĩa thục là thông qua hình thức hoạt động công khai hợp pháp của một nhà trường nhằm cổ động, bồi dưỡng lòng yêu nước, tuyên truyền nền học thuật mới, và nếp sống văn minh, phổ biến tư tưởng dân chủ tư sản (Rousseau), phê phán lối học đắm say trong văn chương cử nghiệp của thời kì phong kiến.

- Thực chất phong trào là đòn giáng mạnh vào hệ tư tưởng nho giáo và nền giáo dục PK phản động đang được thực dân lợi dụng để duy trì chính sách ngu dân.

Phân tích sự chuyển biến của XH về phương diện GD kể từ khi TD Pháp xâm lược Vn, từ chỗ tẩy chay NT thực dân, tiếp tục mở trường tư ở nông thôn do các thầy đồ đảm nhiệm đến chỗ mở ra các trường học mới: đã có sự tiếp thu và cải cách nền GD của thực dân.

Đông kinh nghĩa thục thực sự là nơi thực hành tư tưởng Duy tân, phổ biến cho một nền GD mới với nội dung, PP GD hoàn toàn mới. Những tiến bộ của NT có thể ghi nhận ở những điểm sau:

- Đề cao phương châm tự lực cánh sinh: NT đã dựa vào sự nhiệt tình của các sáng lập viên, của đông đảo quần chúng và sự đóng góp của các học viên để xây dựng cơ sở vật chất, biên soạn sách vở, đồ dùng và chương trình DH.

- Xây dựng PP DH mới: xuất hiện các hình thức tổ chức mới; diễn thuyết, đọc báo, đóng kịch, ngoại khóa, thảo luận, bàn bạc về các đề tài chính trị, thời sự quốc tế, KH thường thức.

(Phân tích sự khác biệt với lối DH giáo điều, tầm chương trích cú trong thời kì phong kiến và hậu quả của nó. PPDH mới này đã được phát huy trong NT hiện nay chưa?)

- PP GD đề cao nhân bản, tôn trọng con người: GD góp phần thúc đẩy nhân cách của người học, tôn trọng tự do và phẩm cách của họ và mong muốn cho phụ nữ có quyền bình đẳng hưởng GD từ đó phát huy vai trò của mình trong công cuộc duy tân đất nước.

- Chú trọng GD sơ đẳng gắn với chuyên môn nghề nghiệp: quan niệm học để làm người hữu dụng chứ không phải để đỗ đạt làm quan vì thế mà phải chú ý đào tạo cán bộ chuyên môn cho từng ngành.

- Đông kinh nghĩa thục là trường đầu tiên trong lịch sử GD VN có công trong việc xây dựng PP đào tạo con người theo quan điểm dân tộc, khoa học và hiện đại.

Do ảnh hưởng của phong trào ngày càng lan rộng, Đông kinh nghĩa thục bị đóng cửa, các yếu nhân của phong trào lần lượt bị bắt bớ tù đầy. Tuy chỉ tồn tại trong vòng 9 tháng nhưng phong trào đã gieo được những hạt giống đầu tiên cho một nền GD dân tộc, dân chủ.

Sự thất bại của phong trào thể hiện những hạn chế của thời đại và của giai cấp. Các sĩ phu yêu nước mới chỉ vượt qua được nhãn quan chính trị hạn chế của giai cấp mình để tiếp cận với tư tưởng dân chủ tư sản mà chưa đi xa hơn được nữa.

Trong điều kiện giai cấp vô sản chưa hình thành, các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở VN đứng trước một sự khủng hoảng sâu sắc về đường lối.




tải về 317.34 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương