Kinh a-di-đÀ Ngẫu Ích Đại Sư Yếu Giải



tải về 183.06 Kb.
trang1/2
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích183.06 Kb.
#29807
  1   2
KINH A-DI-ĐÀ

Ngẫu Ích Đại Sư Yếu Giải

Hán dịch: Cưu Ma La Thập.

Việt dịch: Thích Tuệ Nhuận.
Nguồn

http://www.quangduc.com

Chuyển sang ebook 15-6-2009

Người thực hiện : Nam Thiên – namthien@gmail.com

Link Audio Tại Website http://www.phatphaponline.org
Mục Lục
 

--- o0o --- 

 Tiểu Sử

Sư cụ Tuệ Nhuận thế danh Văn Quang Thùy, sanh năm 1887 (17-3-Đinh Hợi) tại tỉnh Hải Dương. Chuyên Nho học suốt thời niên thiếu. Ngài chăm học đến nỗi nhà cháy, ai nấy lo cứu hỏa, riêng ngài vẫn ngồi yên chuyên chú học. Mãi sau lớn mới chuyển qua học chữ Pháp, thi đỗ làm Thông phán tại nha quan thuế Hà Nội. Năm 1928, cụ thân sinh Văn Đức Khiêm thất lộc, ngài suy tư về kiếp sống vô thường, bắt đầu tụng kinh, nghiên cứu đạo Phật. Bẩm tánh thông minh lại sẵn Hán học, ngài vào giáo lý thâm sâu rất dễ dàng.

Thời ấy người đời xô nhau theo nếp sống mới, quên lãng đạo Phật. Nhưng ở các chùa thì Bồ-đề vẫn rộ nở hoa. Tổ Vĩnh Nghiêm, Tổ Bằng, Tổ Sở, Tổ Cồn v.v... pháp tràng phất phới khắp nơi. Nhưng giáo pháp vô thượng thậm thâm hoàn toàn được tuyên dương bằng chữ Hán ở các chùa trên các đồi quê, gần như không quan hệ gì đến xã hội quần chúng. Các quan chức như Tổng đốc Nguyễn Năng Quốc, Bùi Thiện Căn v.v... ý thức được sự lợi ích của Phật giáo đối với nền văn hóa Việt Nam, hô hào thành lập hội Phật giáo. Ngài nhiệt liệt tham gia. Từ đó một mặt giúp các Sư học đạo, một mặt giảng kinh ở các chùa Quán Sứ, Hòe Nhai và các chùa nhỏ ở quanh vùng Hà Nội. Mở các lớp học Phật Pháp cho các cư sĩ tinh tấn. Các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng, thường thỉnh ngài giảng pháp, ngài đều vui vẻ đáp ứng.

Mùa xuân Canh Thìn, một phái đoàn Tăng sĩ Trung Hoa sang thăm Việt Nam, trong đó có 2 ngài Đế Nhàn và Thái Hư. Chùa Quán Sứ hồi ấy chưa đủ phòng xá tiếp đón khách Tăng, các ngài phải nghỉ ở khách sạn của người Hoa. Cụ Văn Quang Thùy mon men đến xin học thiền. Ngài Thái Hư đáp: “Tôi thấy Việt Nam toàn tu Tịnh-độ, cư sĩ nên vâng theo”. Rồi ngay tại khách sạn, ngài Thái Hư ngồi trên bàn, cụ quỳ dưới đất. Ngài trao Bồ-tát Giới và cho một mảnh thiếp để kỷ niệm:

Nhập Như Lai Tạng.

Văn tự quang minh thùy vũ trụ.

Phật môn tuệ trạch nhuận sinh linh.

Thời tại Canh Thìn niên xuân,

Tam nguyệt nhị thập lục nhật.

Thái Hư lữ Hà Nội”.

Năm 1935 cụ xin nghỉ việc, dành trọn thời giờ để phục vụ Tam-bảo. Cụ đã dịch rất nhiều kinh tiếng Việt. Kinh Di Đà, Dược Sư, Hoa Nghiêm phẩm Phổ Hiền v.v... cho tới nay vẫn đang lưu hành trong toàn quốc. Giảng kinh Lăng Nghiêm ở Quán Sứ năm 1945, được học chúng nhiệt liệt hoan nghênh. Chùa Hòe Nhai thành lập hội Phật tử, mở lớp học Lăng Nghiêm. Cụ vừa dạy vừa phiên âm sang tiếng Việt Nam. Năm 1949, lần đầu tiên Việt Nam in chữ quốc ngữ bộ kinh Lăng Nghiêm và Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp (Lương Hoàng). Thấy tình hình quần chúng các thành phố toàn quốc đã rạng tỏ, cụ xuất bản tờ Bồ Đề Nguyệt San, thân làm giám đốc. Những bài của cụ đăng trong báo được coi như những hạt châu ngọc để lại cho hậu lai. Trên tờ báo này, những ngọn bút danh tiếng khắp Bắc, Trung, Nam đã cùng nhau thi đua trình bày tư tưởng cao thâm.

Năm 1954 cụ xuất gia theo Hòa-thượng Thích Thiện Hòa và từ đó lấy việc chuyên tu làm chính vụ. Cụ thị tịch năm 1964 trong tiếng niệm Phật và chí nguyện vãng sanh.

Pháp tử Cát Tường Lan

Dâng phiến tâm hương đền ơn pháp nhũ

                        



Lời người dịch

Tu Thiền chắc chắn thành Phật. Tu Tịnh mau chóng thành Phật. Tu môn nào cũng phải thấy rõ Phật tánh rồi mới thành Phật. Mỗi niệm Phật danh là một nhớ đến Phật tánh. Thấy rõ Phật tánh là thành Phật quả. Thành Phật là khôi phục lại tự do hạnh phúc.

Tìm hiểu tánh Phật của mình của người là sự nghiệp Tịnh-độ hóa thế gian năm ấm ngũ trược của bảy thú. Sự nghiệp này Phật tử phải làm ngay.

Phật dạy: Tất cả chúng sanh ai cũng có tánh Phật. Bồ Tát Giới nói: Ngươi là Phật sẽ thành, ta là Phật đã thành, thường khởi tin như vậy, giới phẩm đã đầy đủ.

Áp dụng lời dạy trên vào đời sống, ta có 2 thực hiện: 1) Vâng giới luật, không dám áp bức một loài nào dù là con sâu cái kiến. 2) Khai trí tuệ bình đẳng, tôn trọng muôn loài hàm thức, tận tình cứu giúp lẫn nhau.

Có tâm Phật, mắt Phật như vậy là siêu phàm thoát tục.

Kinh Niết Bàn, Sư Tử Hống Bồ-tát hỏi: Tất cả chúng sanh cùng có chung một Phật tánh hay mỗi người riêng biệt một Phật tánh?

Phật đáp: Phật tánh chẳng phải một, chẳng phải hai, bình đẳng như hư không.

Nói bình đẳng tất nhiên phải có nhiều cái so sánh với nhau, thấy đều như hư không. Nghĩa là không hình không tướng nhưng bát ngát mông mênh không bờ bến.

Hôm nay ta mới đến phương Đông nhưng Phật tánh của ta đã ở đấy từ vô thủy rồi. Mai ta rời Đông đi Tây, Phật tánh của ta như hư không vẫn mãi ở Đông mà cũng đã ở Tây từ vô thủy rồi. Thân nghiệp báo theo duyên đổi dời vòng quanh luân chuyển khắp bảy thú. Phật tánh như hư không vẫn thường trụ ở khắp mười phương. Vậy đương khi ta ngồi ở Việt Nam, niệm Phật cầu sanh Tây phương, thì Phật tánh của ta như hư không vẫn ở Việt Nam và cũng đang ở An Lạc thế giới cách đây mười vạn cõi Phật. Mỗi tiếng niệm Phật là Phật tánh của ta ở khắp mười phương đều rung cảm. Duyên Sa Bà hết, duyên Tịnh-độ thành, nghiệp trần lụy hết, nghiệp Tịnh-độ thành, thì thân đất nước gió lửa ở Sa Bà tan rã mà thân hào quang rực rỡ sẽ hóa sanh. Tùy ý ta muốn hiện sanh phương nào, Phật tánh của ta sẽ hiện thân ở phương ấy một khi nhân duyên đầy đủ.

Bản Như Lai Tạng diệu chân như tánh của người, của ta, của chúng sanh, của Phật, bao giờ cũng thường hằng linh thông cảm ứng với nhau vô lượng, vô biên, vô cùng, vô tận.

Nam mô Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật.

Nam mô Vô Biên Thân Bồ-tát ma-ha-tát.

Nam mô Hư Không Tạng Bồ-tát ma-ha-tát.

 

Không Thiền tông, không Tịnh-độ



Địa ngục đêm ngày đau khổ

Muôn đời ngàn kiếp còn lâu

Nhờ cậy ai, ai tế độ?

 

Có Thiền tông, có Tịnh-độ



Như thêm sừng cho mãnh hổ

Hiện tại làm thầy trời người

Đời vị lai làm Phật Tổ.

 

Hà Nội, ngày 7-10-Tân Mão



(5-11-1951)

Tuệ Nhuận cẩn tự

 

KHÓA LỄ TỊNH-ĐỘ



TÁN PHẬT

Đấng pháp vương Vô-thượng,

Ba cõi chẳng ai bằng.

Đạo sư khắp trời người,

Cha lành chung bốn loài.

Quy y tròn một niệm,

Dứt sạch nghiệp tăng kỳ.

Xưng dương cùng tán thán,

Ức kiếp không cùng tận.

Phật, chúng sanh tánh thường không tịch.

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,

Lưới đế châu ví đạo tràng,

Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời.

Trước Phật đài thân con ảnh hiện,

Cúi đầu xin đảnh lễ quy y.

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:

— Nam mô tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai. Mười phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam-bảo. (1 lễ)

— Nam mô Sa Bà giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Long Hoa giáo chủ Di Lặc tôn Phật, đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát, đại hạnh Phổ Hiền Bồ-tát, Hộ Pháp chư tôn Bồ-tát, Đạo tràng hội thượng Phật Bồ-tát, nhất thiết chư Hiền Thánh Tăng. (1 lễ)

— Nam mô Tây phương An Lạc thế giới đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật, đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát, Đại Thế Chí Bồ-tát, đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát, Thanh Tịnh đại hải chúng Bồ-tát. (1 lễ) 



SÁM HỐI

Con nay khắp vì bốn ân ba cõi pháp giới chúng sanh tất nguyện đoạn trừ ba chướng quy mạng sám hối (1 lễ).



Chí tâm sám hối

Con xưa đã tạo bao nghiệp ác

Đều vì ba độc tham, sân, si

Từ thân miệng ý phát sanh ra

Hết thảy con nay cầu sám hối.

Bao nhiêu nghiệp chướng sâu nhường ấy

Nguyện đều tiêu diệt không còn dư.

Niệm niệm trí soi khắp pháp giới,

Rộng độ chúng sanh thề không thoái.

Sám hối phát nguyện rồi, chí tâm đảnh lễ A Di Đà Phật biến pháp giới thường trụ Tam-bảo (1 lễ).

 

TÁN HƯƠNG

Lư trầm vừa đốt, pháp giới thơm lừng.

Xa đưa hải hội Phật đều mừng.

Đâu đâu cũng thấy cát tường vân.

Thành ý ân cần, chư Phật hiện toàn thân.

Nam mô Hương Vân Cái Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).



CHÚ SẠCH KHẨU NGHIỆP

Tu lị, tu lị, ma ha tu lị, tu tu lị, sa bà ha (3 lần).



CHÚ SẠCH THÂN NGHIỆP

Tu đa lị, tu đa lị, tu ma lị, sa bà ha (3 lần).



CHÚ SẠCH BA NGHIỆP

Ám sa phạ bà phạ, truật đà sa phạ, đạt ma sa phạ, bà phạ truật độ hám (3 lần).



CHÚ AN THỔ ĐỊA

Nam mô tam mãn đá một đà nẫm, ám độ rô độ rô địa vĩ sa bà ha (3 lần).



CHÚ PHỔ CÚNG DƯỜNG

Ám nga nga nẵng tam bà phạ phạt nhật la hộc (3 lần).



KỆ KHAI KINH

Pháp Phật cao sâu rất nhiệm mầu,

Ngàn muôn ức kiếp dễ hay đâu.

Con nay nghe thấy xin vâng giữ,

Chân nghĩa Như Lai hiểu thật sâu.

Nam mô Liên Trì hải hội Phật Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).

 

PHẬT NÓI KINH A DI ĐÀ

A/- TỰA


I. Thông tựa

Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời bấy giờ, tại nước Xá Vệ, Phật ngự ở tinh xá Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà, cùng Tỳ-kheo Tăng 1250 đại A-la-hán chúng đều quen biết: trưởng lão Xá Lợi Phất, Ma-ha Mục Kiền Liên, Ma-ha Ca Diếp, Ma-ha Ca Chiên Diên, Ma-ha Câu Hy La, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lư Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma-ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, A Nâu Lâu Đà…

Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử, A Dật Đa Bồ-tát, Càn Đà Ha Đề Bồ-tát, Thường Tinh Tấn Bồ-tát, cùng với vô lượng đại chúng Bồ-tát. Cả vua Đế Thích và các vua khác cùng với quyến thuộc đông không xiết kể, cùng đến dự hội.

II. Biệt tựa

Bấy giờ đức Phật bảo ngài trưởng lão Xá Lợi Phất rằng: Cách đây hơn 10 vạn ức cõi Phật, về phương Tây có thế giới An Lạc, Phật A Di Đà hiện đang thuyết pháp.

 

B/- CHÁNH TÔNG



I. Khải tín

1- Y báo


Này Xá Lợi Phất! Cõi ấy vì sao gọi là An Lạc? Chúng sanh cõi ấy không có những khổ, chỉ hưởng toàn vui, bởi thế cho nên gọi là An Lạc.

Cõi nước An Lạc bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, đều là bốn báu, bao vây giáp vòng (nơi nào cũng có).

Cõi nước An Lạc, có ao thất bảo, trong ao thường đầy nước tám công đức, đáy ao rải thuần thứ cát vàng cốm. Bốn bên bờ ao, bực lên lối đi, làm bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê. Trên ao, lầu gác cũng toàn bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, mã não. Hoa sen trong ao to bằng bánh xe, màu xanh sáng xanh, màu vàng sáng vàng, màu đỏ sáng đỏ, màu trắng sáng trắng, nhiệm mầu thơm sạch.

Xá Lợi Phất này! Cõi nước An Lạc thành tựu như vậy công đức trang nghiêm.

Cõi nước An Lạc lưng trời hòa nhạc, mặt đất thuần vàng. Ngày đêm sáu buổi, hoa mạn đà la rắc xuống như mưa. Chúng sanh sáng sớm lấy giỏ đựng hoa thơm đẹp kỳ diệu, đi cúng phương xa, mười vạn ức Phật. Thoáng tới giờ ăn đã về cõi mình, ăn rồi kinh hành. Xá Lợi Phất này, cõi nước An Lạc thành tựu như vậy công đức trang nghiêm.

Cõi nước An Lạc, nhiều các loài chim, màu đẹp quý hiếm, bạch hạc, khổng tước, xá lợi, cộng mệnh, ca lăng tần già, ngày đêm sáu buổi, tiếng hót hòa nhã, diễn ra các pháp: ngũ căn, ngũ lực, thất Bồ-đề phần, bát chánh đạo phần và nhiều pháp khác. Chúng sanh nghe rồi đều vui niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Xá Lợi Phất này, ông chớ bảo rằng những loài chim ấy thật vì tội báo phải làm kiếp chim. Là vì lẽ sao? Đã là cõi Phật, cái tên ác đạo còn không hề có, huống chi lại có ác đạo thật   ư? Những chim ấy là Phật A Di Đà muốn cho tiếng pháp chan hòa khắp nơi mà biến hóa ra. Cõi nước An Lạc, gió hiu hiu thổi, những hàng cây báu, những lưới ngọc giăng rung động phát ra vi diệu âm thanh, như là trăm ngàn nhạc khí hòa điệu, ai nghe tự nhiên nức lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Xá Lợi Phất này! Cõi nước An Lạc thành tựu như vậy công đức trang nghiêm.

2- Chánh báo

Ý ông thế nào, vì sao Phật hiệu là A Di Đà? Xá Lợi Phất này, đức Phật quang minh, soi khắp mười phương, không đâu chướng ngại, vì thế nên hiệu là A Di Đà.

Ngài cùng nhân dân, sống lâu vô cùng, đến bao nhiêu kiếp không thể kể xiết, vì thế nên hiệu là A Di Đà. Phật A Di Đà thành Phật đến nay mới có 10 kiếp.

Đệ tử Thanh-văn toàn A-la-hán, nhiều lắm không thể đếm mà biết được, các vị Bồ-tát cũng đông như thế. Xá Lợi Phất này, cõi nước An Lạc thành tựu như vậy công đức trang nghiêm.

II. Khuyên phát nguyện

Cõi nước An Lạc, chúng sanh sang đấy, không còn thoái chuyển, trong đó có nhiều nhất sanh bổ xứ. Số sanh sang đấy đông lắm không thể đếm mà biết được, chỉ đành nói là rất nhiều vô số vô lượng vô biên.

Chúng sanh nghe rồi thì nên phát nguyện, nguyện sanh sang đấy. Là vì làm sao? Vì đồng các bậc thượng thiện như thế cùng họp một nơi.

III. Lập hạnh

Này Xá Lợi Phất! Không ít thiện căn, phước đức nhân duyên, mà được sanh sang bên nước kia đâu. Chỉ có những người một lòng chuyên niệm Phật A Di Đà, 1 ngày, 2 ngày, 3 ngày, 4 ngày, 5 ngày, 6 ngày, 7 ngày. Niệm kỳ cho được nhất tâm không loạn. Người này lâm chung, Phật A Di Đà cùng với thánh chúng hiện ra trước mặt. Tâm không điên đảo, người ấy liền sanh sang cõi An Lạc Phật A Di Đà.

Kết khuyến

Này Xá Lợi Phất! Ta thấy lợi thế cho nên nói thế. Ai được nghe rồi thì nên phát nguyện sanh sang nước kia.

C/- LƯU THÔNG

I. Phổ khuyến

1- Khuyến tín

Này Xá Lợi Phất! Ta nay khen ngợi Phật A Di Đà công đức lợi ích chẳng xiết nghĩ bàn thì phương Đông có Phật A Súc Bệ, Phật Tu Di Tướng, Phật Đại Tu Di, Phật Tu Di Quang và Phật Diệu Âm, hằng hà sa số Phật ở cõi mình, tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới, nói lời thành thật rằng: chúng sanh ngươi, nên tin kinh này là một bản kinh tán thán công đức chẳng xiết nghĩ bàn và được hết thảy chư Phật hộ niệm.

Này Xá Lợi Phất! Phương Nam: Phật Nhật Nguyệt Đăng, Phật Danh Văn Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tu Di Đăng, Phật Vô Lượng Tinh Tấn, hằng hà sa số Phật ở cõi mình, tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới, nói lời thành thật rằng: chúng sanh ngươi, nên tin kinh này là một bản kinh tán thán công đức chẳng xiết nghĩ bàn và được hết thảy chư Phật hộ niệm.

Này Xá Lợi Phất! Phương Tây: Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Tướng, Phật Vô Lượng Tràng, Phật Đại Quang, Phật Đại Minh, Phật Bảo Tướng, Phật Tịnh Quang, hằng hà sa số Phật ở cõi mình, tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới, nói lời thành thật rằng: chúng sanh ngươi, nên tin kinh này là một bản kinh tán thán công đức chẳng xiết nghĩ bàn và được hết thảy chư Phật hộ niệm.

Này Xá Lợi Phất! Phương Bắc: Phật Diễm Kiên, Phật Tối Thắng Âm, Phật Nan Trở, Phật Nhật Sanh, Phật Võng Minh, hằng hà sa số Phật ở cõi mình, tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới, nói lời thành thật rằng: chúng sanh ngươi, nên tin kinh này là một bản kinh tán thán công đức chẳng xiết nghĩ bàn và được hết thảy chư Phật hộ niệm.

Này Xá Lợi Phất! Phương Hạ: Phật Sư Tử, Phật Danh Văn, Phật Danh Quang, Phật Đạt Ma, Phật Pháp Tràng, Phật Trì Pháp, hằng hà sa số Phật ở cõi mình, tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới, nói lời thành thật rằng: chúng sanh ngươi, nên tin kinh này là một bản kinh tán thán công đức chẳng xiết nghĩ bàn và được hết thảy chư Phật hộ niệm.

Này Xá Lợi Phất! Phương Thượng: Phật Phạm Âm, Phật Tú Vương, Phật Hương Thượng, Phật Hương Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Phật Ta La Thọ Vương, Phật Bảo Hoa Đức, Phật Kiến Nhất Thiết Nghĩa, Phật Như Tu Di Sơn, hằng hà sa số Phật ở cõi mình, tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới, nói lời thành thật rằng: chúng sanh ngươi, nên tin kinh này là một bản kinh tán thán công đức chẳng xiết nghĩ bàn và được hết thảy chư Phật hộ niệm.

Này Xá Lợi Phất! Ý ông thế nào? Sao gọi kinh này là kinh “Nhất thiết chư Phật hộ niệm”? Xá Lợi Phất   này! Thiện nam, thiện nữ nghe kinh thọ trì và nghe danh hiệu chư Phật sáu phương, sẽ được chư Phật hộ niệm, bất thoái Vô-thượng Bồ-đề. Vì thế Xá Lợi Phất các ông đều nên tin chịu lời ta và lời chư Phật đã nói.

2- Khuyến nguyện

Này Xá Lợi Phất, những ai phát nguyện vãng sanh về cõi Phật A Di Đà, thì đều bất thoái Vô-thượng Bồ-đề. Nơi Phật Tịnh-độ ai đã phát nguyện thì đã sanh rồi, ai nay phát nguyện thì nay đang sanh, còn mai mới nguyện thì mai sẽ sanh. Bởi thế cho nên, này Xá Lợi Phất! Thiện nam, thiện nữ! Hễ có ai tin nên mau phát nguyện sanh về An Lạc.

3- Khuyến hạnh

Này Xá Lợi Phất! Ta nay ngợi khen chư Phật công đức chẳng xiết nghĩ bàn, thì chư Phật cũng khen ta công đức chẳng xiết nghĩ bàn. Các ngài nói rằng: “Phật Thích Ca Mâu Ni đã làm việc rất khó hiếm có, ở ngay giữa cõi Sa Bà kham khổ có năm ác trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mệnh trược, thế mà chứng được Vô-thượng Bồ-đề. Lại vì chúng sanh chỉ bày pháp ấy là pháp thế gian khó tin”.

Này Xá Lợi Phất, nên biết ở trong ngũ trược ác thế ta đã chứng được Vô-thượng Bồ-đề, việc này rất khó. Vì thế gian nói pháp khó tin ấy, lại càng khó hơn.

Kết khuyến

Phật nói kinh rồi, ngài Xá Lợi Phất và các Tỳ-kheo, hết thảy thế gian, cõi trời, cõi người, cõi A tu la và các cõi khác, nghe lời Phật nói vui mừng, tin chịu, làm lễ rồi lui.

*

BẠT NHẤT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BẢN ĐẮC SANH TỊNH-ĐỘ ĐÀ LA NI:



Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa giạ, đá địa giạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, già di nị, già già na, chỉ đa ca lệ, sa bà ha.

 

Hội Liên Trì trong sáng,



Đức A Di Đà Như Lai,

Cùng Quán Âm, Thế Chí hai ngài.

Tiếp dẫn lên hoa đài

Thề độ hết muôn loài

Rũ sạch kiếp trần ai.

Nam mô Liên Trì hội thượng Phật Bồ-tát ma-ha-tát (3 lần).

 

KINH TÂM YẾU BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA



Bồ-tát Quán Tự Tại thực hành sâu xa pháp Bát Nhã ba la mật đa. Ngài soi thấy 5 uẩn đều không, độ thoát hết thảy khổ ách.

Này Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế.

Này Xá Lợi Tử! Tướng Không của mọi pháp không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt.

Cho nên trong Chân Không không có sắc, không có thọ tưởng hành thức. Không có mắt tai mũi lưỡi thân ý, không có sắc thanh hương vị xúc pháp, không có nhãn thức giới... cho đến không có ý thức giới. Không có vô minh cũng không có hết vô minh... cho đến không có già chết cũng không có hết già chết. Không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Không có trí tuệ cũng không chứng đắc. Bởi vì vô sở đắc.

Bồ-tát y Bát Nhã ba la mật đa nên tâm không quản ngại. Vì không quản ngại nên không sợ hãi, xa hẳn mộng tưởng điên đảo, đạt tới cứu cánh Niết-bàn.

Ba đời chư Phật y Bát Nhã ba la mật đa, nên được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Cho nên biết Bát Nhã ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật không hư.

Vì vậy nói chú Bát Nhã ba la mật đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề sa bà ha” (3 lần).

KINH LĂNG NGHIÊM

Chương Đại Thế Chí niệm Phật

Ngài Đại Thế Chí, con đấng pháp vương, cùng 52 vị đại Bồ-tát đồng hạnh với ngài, đứng dậy dập đầu lễ dưới chân Phật, mà bạch Phật rằng: “Con nhớ đời xưa, cách đây nhiều kiếp, có Phật ra đời, hiệu ngài gọi là Phật Vô Lượng Quang. Mười hai Như Lai cùng nối ngôi nhau ra trong một kiếp, Như Lai cuối cùng hiệu ngài gọi là Siêu Nhật Nguyệt Quang. Ngài dạy con pháp “Niệm Phật Tam Muội”. Ví như 2 người: một người chuyên nhớ, một người chuyên quên. Hai người như thế, dù có gặp nhau cũng như chẳng gặp ; dù có thấy nhau cũng như chẳng thấy. Vậy hai người phải cùng nhớ tới nhau rất là thâm thiết, cứ như thế mãi, cho hết kiếp này, lại sang kiếp khác, như bóng với hình chẳng hề rời nhau.

“Mười phương Như Lai thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con trốn chạy, thì mẹ dẫu nhớ có làm gì được. Nếu con nhớ mẹ, như mẹ nhớ con, mẹ con đời đời chẳng rời xa nhau”. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật niệm Phật, đời này đời sau quyết định thấy Phật, cách Phật chẳng xa. Chẳng nhờ đến pháp phương tiện nào khác, mà cũng khai ngộ được tâm của mình. Như người ướp hương, thân có mùi hương. Pháp này gọi là “Hương Quang Trang Nghiêm”. Chỗ bản nhân con dùng tâm niệm Phật vào vô sanh nhẫn. Nay ở cõi này, tiếp người niệm Phật về nơi Tịnh-độ. Phật hỏi viên thông, con không chọn lựa, con chỉ thu nhiếp tất cả sáu căn, chuyên một tịnh niệm, nối nhau liền liền, được vào chánh định, ấy là đệ nhất”.

 

NIỆM PHẬT



Phật A Di Đà thân kim sắc,

Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm,

Năm Tu-di uyển chuyển bạch hào,

Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc.

Trong hào quang hóa vô số Phật,

Vô số Bồ-tát cùng Thánh chúng.

Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,

Chín phẩm sen vàng lên giải thoát.

Quy mạng lễ A Di Đà Phật

Ở phương Tây thế giới an lành,

Con nay xin phát nguyện vãng sanh,

Cúi xin đức Từ Bi tiếp độ.

Nam mô Tây phương An Lạc thế giới đại từ đại bi, tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.

Nam mô A Di Đà Phật (108 biến).

Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát.

 (3 lần)

Nam mô Đại Thế Chí Bồ-tát.

 (3 lần)

Nam mô Địa Tạng Vương Bồ-tát.

 (3 lần)

Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-tát (3 lần).

PHÁT NGUYỆN

Con nay khắp vì bốn ân ba cõi pháp giới chúng sanh, tất nguyện đoạn trừ ba chướng quy mạng phát nguyện (1 lễ).

Nguyện cùng người tu tịnh hạnh, thiện nghiệp trang nghiêm, phước trí hiện tiền. Nguyện A Di Đà Thế Tôn, Quán Âm, Thế Chí, từ bi tiếp thọ, vì con hiện thân, phóng tịnh quang minh, khiến cho chúng con, sáu căn tịch tĩnh, ba chướng tiêu trừ, vui tu tịnh hạnh, thân tâm nhuần thấm, niệm niệm không mất Tịnh-độ thiện căn. Thường được thấy cõi Phật A Di Đà vi diệu trang nghiêm, vui vẻ lòng con, khiến con tinh tấn. Nguyện ngày mệnh chung dự biết thời khắc, tận trừ chướng ngại, tuệ niệm tăng minh, thân không bệnh khổ, tâm không điên đảo. Hiện diện đối Phật A Di Đà cùng các Bồ-tát, hoan hỷ khoái lạc. Trong một sát na liền được vãng sanh An Lạc thế giới, hoa sen tươi nở, được Phật thọ ký. Từ đây tự tại hóa thân vi trần Phật sát, tùy thuận chúng sanh. Khiến cho Phật sát trần số chúng sanh phát tâm Bồ-đề, đều cùng thoát khổ, đồng sanh Tịnh-độ.

Hạnh nguyện như thế, niệm niệm hiện tiền, suốt đời vị lai nối tiếp không dứt, thân miệng ý nghiệp thường làm Phật sự.

Phát nguyện rồi, chí tâm quy mạng đảnh lễ A Di Đà Phật biến pháp giới Tam-bảo (1 lạy).

PHỤC NGUYỆN



Nguyện đem công đức trì chú, sám hối tụng kinh, hồi hướng vãng sanh.

Nguyện cho chúng con....

Nhất tâm hằng tỏ ngộ,

Lục dục sớm tan không,

Cõi nhân gian, sanh tử xa lìa,

Nơi An Lạc hóa sanh tự tại.

Ao thất bảo thảnh thơi tắm mát,

Đài cửu liên nhẹ gót tiêu dao,

Quán Âm, Thế Chí kết đồng hàng,

Bồ-tát Thánh Tăng là bạn lữ.

Thần thức hằng vui nơi cõi tịnh,

Nghiệp duyên trần không vướng mảy may,

Trên đài sen chín phẩm nở hoa,

Chư Phật phóng hào quang thọ ký.

Nam mô A Di Đà Phật

TAM QUY


— Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh hiểu rõ đạo lớn, phát tâm Bồ-đề (1 lễ).

— Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh vào sâu kinh tạng, trí tuệ như biển (1 lễ).

— Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh thống lý đại chúng, hết thảy không ngại (1 lễ).

 

Yếu giải


NGŨ TRÙNG HUYỀN NGHĨA

I. Tên kinh

Phật nói Kinh A Di Đà



Pht: Đức Thích Ca Mâu Ni, đã giác ngộ, không một pháp nào ngài không biết rõ thật tướng. Vì bi nguyện giáng sanh cõi Sa Bà làm giáo chủ.

A Di Đà: Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Công Đức. Đây là danh hiệu đức giáo chủ cõi An Lạc ở phương Tây.

II. Thể chất của kinh

Kinh đại thừa nào cũng lấy thật tướng làm cốt tủy. Thật tướng là cái tướng chân thật của vạn pháp. Chúng ta đã biết thân người, thân vật, cây cối núi sông đều do bảy đại hợp thành. Theo kinh Lăng Nghiêm cả 7 đại đều là Như Lai Tạng diệu chân như tánh, chân tâm bản tánh của chúng ta. Hoa Nghiêm cũng tuyên bố: Nhất thiết duy tâm tạo. Vậy tất cả những gì nói ở trong kinh A Di Đà, đều là tâm tánh Bồ-đề của Phật, Bồ-tát và chúng sanh tạo ra. Tâm tánh này thường trụ ở khắp mười phương. Thánh phàm ai ai cũng sẵn đủ. Tâm tánh này là thể chất của đời sống nhưng chúng ta quên hẳn vì mải mê với vọng tưởng lăng xăng. Hễ trở về sống với bản tánh tức là thành Phật, là người giác tỉnh. Then chốt tu hành là nhận rõ được tâm tánh chân thật của mình.

III. Tôn chỉ của kinh

Tôn chỉ là đường lối thiết yếu. Đây là cương lĩnh của tất cả công hạnh tu trì kinh A Di Đà.

A/. Tin: l) Tin mình: Thế giới An Lạc vốn sẵn đang ở ngay trong tâm tánh mình. Chỉ cần tận lực tỉnh ra, đừng để kiến-hoặc tư-hoặc rối loạn bưng bít, không thể trở về với tâm chân thật của mình. 2) Tin người: Tin Phật Thích Ca không nói dối, tin Phật A Di Đà không nguyện suông, tin sáu phương Phật tướng lưỡi rộng dài quyết không hai lời. 3) Tin nhân: Tin mỗi tiếng niệm Phật chính là cái nhân để vãng sanh cõi Phật. 4) Tin quả: Các thượng thiện nhân đang tụ hội ở cõi An Lạc đều do niệm Phật mà đã kết quả. 5) Tin sự: Cõi An Lạc là một cảnh giới có thật ở phương Tây. Phật A Di Đà đang phóng hào quang thật sự đi khắp mười phương để tiếp dẫn chúng sanh niệm Phật. 6) Tin lý: Bao nhiêu hoa đốm xanh đỏ quay cuồng đều do thần kinh mỏi nhọc mà tự thấy ra. Cảnh giới Sa Bà đã do sáu căn tuần nghiệp xấu ác mà phát hiện thì nay sáu căn thanh tịnh làm nhân, theo duyên thanh tịnh tiếp dẫn là đức Phật, hẳn về Tịnh-độ trang nghiêm còn nghi ngờ gì nữa.

B/. Nguyện: Đã tin chắc cõi Sa Bà nhơ uế là do cộng nghiệp những tâm tánh nhơ uế hiện ra, đúng lý ta nên chán bỏ. Cõi An Lạc thanh tịnh là do cộng nghiệp những người thanh tịnh tạo ra, đúng lý mình nên vui cầu. Do trạch pháp đã thấy đáng bỏ thì quyết định chán bỏ. Đã thấy nên cầu thì nhất định vui cầu.

Sách Diệu Tông nói: Bỏ hết rồi thì không còn gì phải bỏ nữa. Lấy hết rồi thì không còn gì phải lấy nữa. Ai chưa trọn vẹn thủ xả, đã tuyên bố tôi không thủ xả, là người chấp lý bỏ sự. Ngược lại, sự đã bỏ chẳng xong thì lý hẳn chưa thấu triệt.

Ở đây chỉ là chuyển phiền não thành Bồ-đề, chuyển pháp giới phàm mê thành pháp giới thanh lương.

Chí nguyện này phải minh bạch rõ ràng.

C/. Hnh: Chấp trì danh hiệu Phật A Di Đà, lấy nhất tâm bất loạn làm hẹn kỳ, lấy vãng sanh làm mục đích. Tu Tịnh-độ có nhiều phương pháp, đức Phổ Hiền nói 10 nguyện vương, kinh Vô Lượng Thọ nói trăm ngàn công hạnh, Quán Vô Lượng Thọ dạy nhiếp niệm quán tưởng. Kinh này chỉ duy một pháp trì danh. Đây là pháp môn liễu nghĩa vô thượng, tối cực viên đốn.

*

Khác với các pháp tu nhị thừa, tam thừa, tiểu thừa, đại thừa, tôn chỉ Tín Nguyện Hạnh của kinh này là cái mầm nhân chân thật của đạo nhất thừa, chỉ có duy nhất một hướng phương là quả Vô-thượng Bồ-đề.



Đây chính là tông chỉ của kinh Pháp Hoa.

IV. Lực dụng của kinh

Sanh sang Tịnh-độ, lên ngôi bất thoái là lực dụng của kinh.

Tịnh-độ có 4 cõi, mỗi cõi đều có 9 phẩm.

1) Niệm Phật chưa đoạn trừ được kiến-hoặc tư-hoặc, tùy theo tâm tán loạn hay yên định, sẽ sang 9 phẩm ở Đồng Cư (phàm thánh ở chung).

2) Niệm Phật đến sự nhất tâm bất loạn, kiến-hoặc tư-hoặc tiêu hết, sẽ được sanh sang cõi Phương Tiện Hữu Dư (riêng cho các vị Thanh-văn, Duyên-giác).

3) Niệm Phật đến lý nhất tâm bất loạn, phá được từ 1 đến 41 phẩm vô minh, sẽ được sanh sang cõi Thật Báo Trang Nghiêm (cõi này riêng cho Báo-thân Phật và các đại Bồ-tát), có khi chứng được một phần ở cõi Thường Tịch Quang.

4) Niệm Phật phá hết 42 phẩm vô minh, thời được sanh lên thượng thượng phẩm ở cõi Thật Báo Trang Nghiêm, hay là ở cõi rốt ráo Thường Tịch Quang (cõi này riêng của Báo-thân Phật và Pháp-thân Phật).

Cõi An Lạc nói trong kinh là Đồng Cư Tịnh-độ mà 3 Tịnh-độ trên cũng có đủ cả ở ngang ngay đấy.

Bất thoái có 4 nghĩa:

1- Niệm bất thoái.

2- Hạnh bất thoái.

3- Vị bất thoái.

4- Tất cánh bất thoái.

1) Nim bất thoái: Phá hết vô minh, hiểu rõ Phật tánh, sanh cõi Thật Báo, hay cõi phần chứng Thường Tịch Quang.

2) Hnh bất thoái: Đoạn hết kiến-hoặc, tư-hoặc, trần sa hoặc, sanh cõi Phương Tiện.

3) Vbất thoái: Mang cả ác nghiệp sanh cõi Đồng Cư, gửi thể chất vào hoa sen, vĩnh viễn dứt hết mọi ác duyên thoái chuyển.

4) Tất cánh bất thoái: Niệm Phật bất luận nhất tâm hay tán loạn, hiểu hay chẳng hiểu, đều là nhân duyên giải thoát một ngày mai. Danh hiệu Phật A Di Đà, danh hiệu kinh này, danh hiệu chư Phật sáu phương, 3 thứ này khi đã lọt vào tai rồi không bao giờ luống uổng.

Đặc biệt kinh có lực dụng lạ lùng là có thể khiến người tu đới nghiệp vãng sanh về cõi Đồng Cư chứng Vị bất thoái cùng Bồ-tát bổ xứ ở chung.

V. Giáo tướng

Kinh A Di Đà thuộc về Đại thừa Bồ-tát tạng, loại “không ai hỏi mà Phật tự nói”. Bí áo của Hoa Nghiêm(1), cốt tủy của Pháp Hoa(2), tâm yếu của chư Phật(3), chỉ nam của Bồ-tát hạnh(), đều có ở bộ kinh này. Tán thán bao nhiêu cũng chưa đủ, thỉnh các bậc trí tuệ để ý.



tải về 183.06 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương