KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)



tải về 3.73 Mb.
trang32/50
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích3.73 Mb.
#107
1   ...   28   29   30   31   32   33   34   35   ...   50

Trả lời: (Tại Công văn số 2841/BNV-CQĐP ngày 24/8/2010)

Liên Bộ, Bội Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã có Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT – BNV – BTC – BLĐTB&XH ngày 27/5/2010 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 92/2009/NĐ – CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.

Khoản 3, Điều 8 Thông tư quy định: Cán bộ có thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo quy định tại Nghị định số 09/1998/NĐ – CP ngày 22/01/1998 của Chính phủ mà chưa hưởng trợ cấp một lần (kể cả trường hợp đã có quết định nghỉ hưu chờ giải quyết chế độ nhưng chưa gửi hồ sơ đến cơ quan bảo hiểm xã hội), thì được bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội để giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội khi đủ điều kiện theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Như vậy, các đối tượng là cán bộ xã, phường, thị trấn nghỉ theo Nghị định 09/1998/NĐ – CP thì sau ngày Thông tư có hiệu lực sẽ được các địa phương tổ chức hướng dẫn thực hiện.

Riêng các chức danh Phó các đoàn thể cấp xã, cán bộ thôn là người hoạt động không chuyên trách nên thời gian làm việc không được tính để hưởng chế độ bảo hiểm xã hội.

30. Cử tri tỉnh Quảng Trị kiến nghị:Những người đảm nhận chức vụ là Chủ tịch UBND, Bí thư Đảng ủy cấp xã hệ số lương là 2,85. Sau 2 nhiệm kỳ liên tục nay đảm nhận chức vụ Chủ tịch MTTQ xã hưởng hệ số lương 2,45 và đây là 5 năm cuối để tính xếp lương hưu gây thiệt thòi đến quyền lợi của đối tượng này. Đề nghị Chính phủ, Bộ Nội vụ nghiên cứu cho họ được hưởng hệ số lương như khi làm Chủ tịch UBND hoặc Bí thư đảng ủy cấp xã.

Trả lời: (Tại Công văn số 2881/BNV-TL ngày 24/8/2010)

1. Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã quy định việc xếp lương đối với cán bộ cấp xã:

- Cán bộ cấp xã có trình độ sơ cấp hoặc chưa đào tạo trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thực hiện xếp lương chức vụ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 5 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP.

- Cán bộ cấp xã đã tốt nghiệp trình độ đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ từ trung cấp trở lên thực hiện xếp lương như công chức hành chính quy định tại bảng lương số 2 (bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước) ban hành kèm theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang quy định tại điểm b khoản 1 Điều 5 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP.

2. Theo quy định về nguyên tắc thực hiện chế độ tiền lương tại điểm a khoản 3 Điều 3 Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang thì cán bộ, công chức, viên chức và các đối tượng thuộc lực lượng vũ trang khi thay đổi công việc được chuyển xếp lại lương và phụ cấp chức vụ (nếu có) cho phù hợp với công việc mới đảm nhiệm. Trường hợp thôi giữ chức danh lãnh đạo (trừ trường hợp bị kỷ luật bãi nhiệm, cách chức hoặc không được bổ nhiệm lại) để làm công việc khác hoặc giữ chức danh lãnh đạo khác (trừ trường hợp thuộc diện luân chuyển) mà có mức lương chức vụ hoặc phụ cấp chức vụ thấp hơn thì được bảo lưu mức lương chức vụ hoặc phụ cấp chức vụ của chức danh lãnh đạo cũ trong 06 tháng, sau đó xếp lại lương hoặc phụ cấp chức vụ (nếu có) theo công việc mới đảm nhiệm. Căn cứ quy định xếp lương và bảo lưu lương này, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính đã hướng dẫn thực hiện đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang (trong đó có cán bộ cấp xã) từ tháng 10 năm 2004 cho đến nay.

31. Cử tri TP Hồ Chí Minh và các tỉnh Phú Thọ, Lâm Đồng, Phú Yên, Hải Dương kiến nghị:Cử tri cho rằng trong những năm qua, Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong công tác cải cách thủ tục hành chính, song cử tri cho rằng hiệu quả chưa cao. Thủ tục hành chính (nhất là thủ tục về nhà, đất, quản lý dự án đầu tư xây dựng…) vẫn còn nhiêu khê, chậm, gây phiền hà cho nhân dân và doanh nghiệp; các văn bản quy định cấp giấy phép của các bộ còn chồng chéo (cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất; quản lý dự án đầu tư xây dựng…) ; trình độ nghiệp vụ, thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ, công chức còn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới… Cử tri đề nghị cần đẩy mạng công tác cải cách thủ tục hành chính một cách đồng bộ từ trung ương đến cơ sở, tăng cường bồi dưỡng, giáo dục đạo đức, năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ công chức, xử lý kỷ luật nghiêm khắc đối với cán bộ quan liêu, sách nhiễu dân.

Trả lời: (Tại Công văn số 2856/BNV-VP ngày 24/8/2010)

Trong những năm qua, cải cách hành chính luôn được Đảng và Nhà nước xác định là một chủ trương quan trọng trong đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đặc biệt từ khi Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và chỉ đạo thực hiện, công cuộc cải cách hành chính đã được triển khai một cách toàn diện với các nội dung: cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy hành chính, đổi mới nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, cải cách tài chính công và hiện đại hóa nền hành chính trên phạm vi toàn quốc. Có thể khẳng định rằng, cải cách hành chính những năm qua đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả bước đầu quan trọng mà cải cách hành chính đã đạt được thì nền hành chính vẫn còn nhiều yếu kém, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước, còn gây nhiều phiền hà đối với người dân và doanh nghiệp. Thủ tục hành chính vẫn còn phức tạp, gây phiền hà cho cá nhân và tổ chức, năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng, một bộ phận cán bộ, công chức tiêu cực. Sự trì trệ của nền hành chính, sự không hài lòng của người dân và doanh nghiệp đối với hoạt động của các cơ quan hành chính, của cán bộ, công chức và yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của đất nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra yêu cầu như cử tri đã nêu là phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính một cách đồng bộ từ trung ương đến cơ sở, tăng cường bồi dưỡng, giáo dục đạo đức, năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, công chức, xử lý kỷ luật nghiêm khắc đối với cán bộ quan liêu, sách nhiễu dân. Để đáp ứng yêu cầu đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đang tiếp tục chỉ đạo phải đẩy mạnh cải cách hành chính trong phạm vi phụ trách và chịu trách nhiệm về công tác cải cách. Chính phủ đang tập trung chỉ đạo đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. Hiện tại, các cơ quan hành chính đang tích cực thực hiện Đề án 30 về đơn giản hoá thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, thông qua đó phấn đấu trong năm 2010 giảm tối thiểu 30% các quy định về thủ tục hành chính. Tất cả các thủ tục hành chính từ trung ương đến địa phương được tập hợp thống nhất vào bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính và được công khai trên mạng thông tin điện tử, sau khi loại bỏ những thủ tục rườm rà, không cần thiết sẽ áp dụng chung trong cả nước.

Quy trình, thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai đã được quy định khá rõ và thoáng, thời gian giải quyết cũng đã được rút ngắn hơn rất nhiều so với trước đây (Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ quy định thời gian cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 50 ngày, cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị mất hoặc Giấy chứng nhận về đất mà có nhu cầu bổ sung chứng nhận quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất thì được quy định 30 ngày, 20 ngày đối với cấp đổi đơn thuần mà không phải thuộc 2 dạng , 5 ngày đối với đăng ký biến động không trích đo địa chính thửa đất …).

Trong thời gian tới, ngoài việc kiểm tra, giám sát thường xuyên, tiếp tục rà soát loại bỏ, sửa đổi các thủ tục không hợp lý, loại bỏ các quy định còn chồng chéo, các cơ quan hành chính nhà nước phải chấn chỉnh lề lối và phương thức làm việc, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông nhằm giảm đến mức tối đa những khó khăn, phức tạp gây ra đối với người dân và doanh nghiệp.

Cùng với việc tăng cường cải cách thủ tục hành chính, cần có những giải pháp phù hợp để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Trong những năm qua, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đã được cải thiện một bước, song vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, năng lực của cán bộ, công chức vẫn còn hạn chế, mức độ chuyên nghiệp còn thấp, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của một bộ phận cán bộ, công chức còn yếu, phong cách làm việc còn chậm đổi mới... Thực hiện Luật Cán bộ, công chức, một loạt các Nghị định đã được Chính phủ ban hành, trong đó tập trung làm tốt các khâu từ tuyển dụng qua thi tuyển đảm bảo tiêu chuẩn chức danh công chức, thi nâng ngạch, đào tạo, bồi dưỡng và nhất là xử lý nghiêm những trường hợp cán bộ, công chức vi phạm kỷ luật, có hành vi tiêu cực trong tiếp dân, giải quyết thủ tục hành chính. Mặt khác, về chế độ chính sách cũng cần có những giải pháp phù hợp về cải cách tiền lương nhằm tạo động lực, tạo sự yên tâm để cán bộ, công chức làm việc, thực thi công vụ.

32. Cử tri tỉnh Lào Cai kiến nghị:Cử tri phản ánh Nghị quyết Trung ương 5 quy định về chính quyền đô thị nhưng hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn, xã, phường, thị trấn khác nhau về tính chất chứ không chỉ tên gọi nhưng hiện nay vẫn coi xã, phường, thị trấn như nhau. Cử tri đề nghị sớm ban hành văn bản hướng dẫn về chính quyền đô thị.

Trả lời: (Tại Công văn số 2826/BNV-CQĐP ngày 23/8/2010)

Về nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương từ cấp tỉnh đến cấp xã (bao gồm xã, phường, thị trấn) được quy định tại Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (sửa đổi) năm 2003. Hiện nay, Luật này đang được Quốc hội chỉ đạo Chính phủ nghiên cứu, sửa đổi. Một trong những nội dung được yêu cầu sửa đổi là làm rõ sự khác biệt về tổ chức bộ máy giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. Ngày 15/11/2008, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 26/2008/QH12 về thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường. Sau hơn một năm rưỡi thực hiện thí điểm, bước đầu đã phân biệt về bộ máy, điều chỉnh, bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn giữa chính quyền khu vực đô thị và nông thôn. Trên cơ sở tổng hợp kinh nghiệm từ thực tiễn và kết quả thực hiện hệ thống văn bản có liên quan từ trước tới nay, đồng thời đảm bảo yêu cầu của tình hình mới trong công tác quản lý, phát triển toàn diện kinh tế – xã hội của địa phương, việc sửa đổi Luật sẽ được thực hiện đối với cả ba cấp một cách đồng bộ, chứ không ban hành những văn bản hướng dẫn riêng lẻ đối với từng cấp chính quyền địa phương.



33. Cử tri tp Hồ Chí Minh kiến nghị:Áp dụng thống nhất mô hình tổ chức các cơ quan chuyên môn quận-huyện thuộc thành phố như nhau đối với Phòng Kinh tế và Phòng Quản lý đô thị.

Trả lời: (Tại Công văn số 2563/BNV-TCBC ngày 03/8/2010)

Tại khoản 1, khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 8 Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và khoản 2 Điều 1 Nghị định số 12/2010/NĐ-CP ngày 26/02/2010 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2008/NĐ-CP quy định ở quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có Phòng Kinh tế và Phòng Quản lý đô thị; ở huyện có Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phòng Kinh tế và Hạ tầng. Đối với các huyện có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, tốc độ đô thị hóa cao, đang có định hướng phát triển thành thị xã hoặc thành phố thuộc tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định thành lập Phòng Kinh tế và Phòng Quản lý đô thị.

Việc quy định các cơ quan chuyên môn nêu trên cho phù hợp với từng loại hình đơn vị hành chính cấp huyện để căn cứ vào tình hình phát triển thực tế của địa phương Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân quận - huyện (hầu hết các Bộ, ngành và địa phương nhất trí trước khi ban hành các Nghị định nêu trên).

Vì vậy, không quy định việc áp dụng thống nhất mô hình tổ chức các cơ quan chuyên môn quận - huyện thuộc thành phố như nhau đối với Phòng Kinh tế và Phòng Quản lý đô thị như ý kiến của cử tri nêu trên.



34. Cử tri tỉnh Bắc Kạn kiến nghị:Đối với các địa phương có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, đề nghị Chính phủ cho phép thành lập Phòng Dân tộc thuộc UBND cấp huyện.

Trả lời: (Tại Công văn số 2570/BNV-TCBC ngày 04/8/2010)

Ngày 26 tháng 02 năm 2010 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/2010/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm 2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; trong đó bổ sung cho phép thành lập Phòng Dân tộc cấp huyện đối với các địa phương có một trong hai tiêu chí quy định tại điểm a khoản 3 Điều 2 Nghị định số 53/2004/NĐ- CP ngày 18 tháng 02 năm 2004 của Chính phủ về kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân tộc thuộc Ủy ban nhân dân các cấp như sau:

1. Có ít nhất 5000 (năm nghìn) người dân tộc thiểu số đang cần Nhà nước tập trung giúp đỡ, hỗ trợ phát triển;

2. Có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở địa bàn xung yếu về an ninh, quốc phòng; địa bàn xen canh, xen cư; biên giới có đông đồng bào dân tộc thiểu số nước ta và nước láng giềng thường xuyên qua lại.

Căn cứ theo quy định, các địa phương có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số khi đáp ứng một trong hai tiêu chí nêu trên thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được thành lập Phòng Dân tộc thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện.

35. Cử tri tỉnh Bắc Kạn kiến nghị:Theo Nghị định 14 ngày 04/02/2008 của Chính phủ quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện và Thông tư số 04 ngày 04/6/2008 của Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm cụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Nội vụ, Phòng Nội vụ thuộc UBND cấp tỉnh, huyện không có chức năng nhiệm vụ về công tác tuyển sinh nhưng hiện nay, Phòng Nội vụ cấp huyện đang phải làm rất nhiều việc liên quan đến công tác tuyển sinh như: tiếp nhận hồ sơ, lập danh sách… tuyển sinh đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp đối với thí sinh tự do; tuyển sinh các trường tạo nguồn; tuyển sinh phổ thông dân tộc nội trú lớp 6 và lớp 9… Do đặc thù của công tác tuyển sinh thường tập trung vào một khoảng thời gian nhất định trong năm và tốn rất nhiều thời gian, vì vậy Phòng thường cần bố trí 1 cán bộ chuyên làm công tác này trong khi biên chế của Phòng không có. Để giải quyết tình trạng trên, đề nghị Chính phủ quy định thêm chức năng, nhiệm vụ này cho Phòng đồng thời cấp kinh phí để tổ chức thực hiện nhiệm vụ tuyển sinh hàng năm.

Trả lời: (Tại Công văn số 2535/BNV-TCBC ngày 30/7/2010)

1.Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm 2008, Nghị định số 12/2010/NĐ-CP ngày 26 tháng 02 năm 2010 của Chính phủ, trong đó, quy định ở cấp huyện có 10 Phòng được tổ chức thống nhất, 02 Phòng được tổ chức để phù hợp với từng loại hình đơn vị hành chính cấp huyện và 01 Phòng được tổ chức theo đặc thù (Phòng Dân tộc) ở từng địa phương. Thực hiện nguyên tắc Phòng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, hiệu lực, hiệu quả; bảo đảm sự thống nhất, thông suốt trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực từ Trung ương đến cơ sở, theo đó chức năng của Phòng Nội vụ và Phòng Giáo dục và Đào tạo cấp huyện được quy định như sau:

a) Tại khoản 1 Điều 7 Nghị định số 14/2008/NĐ-CP quy định Phòng Nội vụ: tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước các lĩnh vực: tổ chức, biên chế các cơ quan hành chính, sự nghiệp nhà nước; cải cách hành chính; chính quyền địa phương; địa giới hành chính; cán bộ, công chức, viên chức; cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn; hội, tổ chức phi chính phủ; văn thư, lưu trữ; tôn giáo; thi đua khen thưởng.

b) Tại khoản 7 Điều 7 Nghị định số 14/2008/NĐ-CP quy định Phòng Giáo dục và Đào tạo: tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, bao gồm: mục tiêu, chương trình và nội dung giáo dục và đào tạo; tiêu chuẩn nhà nước và tiêu chuẩn cán bộ quản lý giáo dục; tiêu chuẩn cơ sở vật chất, thiết bị trường học và đồ chơi trẻ em; quy chế thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ; bảo đảm chất lượng giáo dục và đào tạo.

c) Căn cứ Nghị định 13/2008/NĐ-CP, Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm 2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 35/2008/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 14 tháng 7 năm 2008 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Giáo dục và Đào tạo thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Giáo dục và Đào tạo thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, trong đó đã quy định phòng Giáo dục và Đào tạo là cơ quan tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác tuyển sinh, kinh phí để tuyển sinh trên địa bàn.

2.Căn cứ các quy định nêu trên, đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn hướng dẫn Ủy ban nhân dân cấp huyện quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Giáo dục và Đào tạo, Phòng Nội vụ theo quy định của Chính phủ và Thông tư liên tịch hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ.



36. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị: Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách tinh giản biên chế theo Nghị định số 132/2007/NĐ-CP nhằm tạo điều kiện cho thế hệ trẻ vừa tốt nghiệp ra trường có việc làm ổn định và tạo cơ hội phát triển.

Trả lời: (Tại Công văn số 2537/BNV-TCBC ngày 30/7/2010)

Nghị định số 132/2007/NĐ-CP ngày 08/8/2007 của Chính phủ về chính sách tinh giản biên chế có hiệu lực thi hành đến hết 31/12/2011. Hiện nay các Bộ, ngành, địa phương trong đó có tỉnh Thái Nguyên vẫn đang tổ chức thực hiện Nghị định nêu trên.



37. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Đề nghị trung ương sớm có chủ trương tăng biên chế dự phòng cấp tỉnh khoảng 5%, cấp huyện 10%, cấp cơ sở từ 15-20% để thực hiện việc luân chuyển, đào tạo, tạo nguồn cán bộ trẻ, cán bộ nữ.

Trả lời: (Tại Công văn số 2540/BNV-TCBC ngày 30/7/2010)

Luật Cán bộ, công chức và Nghị định số 21/2010/NĐ-CP ngày 08/3/2010 của Chính phủ về quản lý biên chế công chức quy định việc xác định biên chế công chức phải căn cứ vào vị trí việc làm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của cơ quan, tổ chức, đơn vị được cấp có thẩm quyền quy định. Theo đó, đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang căn cứ vào các quy định của Nghị định số 21/2010/NĐ-CP lập kế hoạch biên chế công chức và điều chỉnh biên chế công chức hàng năm của tỉnh gửi Bộ Nội vụ để thẩm định trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Căn cứ Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nội vụ triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Điều 14 Nghị định số 21/2010/NĐ-CP nêu trên, trong đó có việc điều chỉnh biên chế công chức trong phạm vi biên chế công chức dự phòng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Về luân chuyển công chức, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 52 Luật Cán bộ, công chức, việc luân chuyển công chức chỉ thực hiện đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý để đáp ứng các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 36 Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức.

Từ những quy định nêu trên, việc đề nghị tăng biên chế công chức dự phòng ở các địa phương như kiến nghị của tỉnh Tiền Giang là chưa phù hợp với quy định của pháp luật về quản lý biên chế công chức và tuyển dụng, sử dụng, quản lý công chức.



38. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Hiện nay ở cấp xã, phường của tỉnh Phú Thọ đang thiếu cán bộ thực hiện các công việc liên quan đến lĩnh vực tư pháp trong khi công việc ngày càng nhiều, đề nghị Chính phủ nghiên cứu tăng biên chế cho cán bộ tư pháp xã, phường theo hướng mỗi xã ít nhất có 02 định biên (01 định biên làm công tác hộ tịnh, 01 định biên làm công tác hành chính tư pháp)

Trả lời: (Tại Công văn số 2838/BNV-CQĐP ngày 24/8/2010)

Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức ở cấp xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, trong đó:

1. Chính phủ quy định số lượng cán bộ, công chức cấp xã được bố trí theo phân loại đơn vị hành chính như sau:


  • Cấp xã loại 1: Không quá 25 người;

  • Cấp xã loại 2: Không quá 23 người;

  • Cấp xã loại 3: Không quá 21 người;

2. Chính phủ giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định số lượng cán bộ, công chức cấp xã cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cho từng xã, phường, thị trấn, không nhất thiết xã, phường thị trấn nào bố trí tối đa số lượng cán bộ cán bộ, công chức quy định như trên; đồng thời căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của từng xã, phường, thị trấn hướng dẫn việc kiêm nhiệm và việc bố trí những chức danh công chức được tăng thêm người đảm nhiệm. Riêng chức danh Văn hóa – xã hội và chức danh Địa chính – nông nghiệp – xây dựng và môi trường ( đối với xã) được bố trí 02 người cho một chức danh theo quy định của nghị định số 92/2009/NĐ-CP. Số công chức còn lại được bố trí phù hợp theo yêu cầu nhiệm vụ và đội ngũ cán bộ, công chức hiện có của xã, phường, thị trấn theo hướng ưu tiên bố trí thêm cho các chức danh Tư pháp - hộ tịch, Văn phòng – Thống kê, Tài chính – kế toán, bảo đảm các lĩnh vực công tác, các nhiệm vụ của cấp ủy, chính quyền cấp xã đều có người đảm nhiệm.

Như vậy, việc đề nghị định biên (số lượng) cho công chức Tư pháp- Hộ tịch ở cấp xã, phương theo hướng mỗi đơn vị ít nhất có 02 công chức là trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh khi thấy chức danh đó là cần thiết ở địa phương.



39. Cử tri tỉnh Đắk Nông kiến nghị: Theo Nghị định 13/2008/NĐ-CP, Nghị định 14/2008/NĐ-CP ngày 04/2/2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, huyện (thay thế Nghị định 171, 172 ngày 29/9/2004 của Chính phủ) đã quy định rõ và cụ thể về tổ chức các cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh, huyện. Tuy nhiên, việc chia tách các đơn vị chuyên môn đã làm cho hoạt động của đơn vị kém hiệu quả… đề nghị Chính phủ sơ kết đánh giá hiệu quả quá trình thực hiện mô hình này và xem xét lại nên tổ chức hoạt động theo mô hình khi chưa có nghị định trên.

Trả lời: (Tại Công văn số 2449/BNV-TCBC ngày 26/7/2010)

1. Các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện trước đây được thực hiện theo Nghị định số 171/2004/NĐ-CP và Nghị định số 171/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 9 năm 2004 của Chính phủ, nay thực hiện theo Nghị định số 13/2008/NĐ-CP và Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm 2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. Trong quá trình tổ chức và hoạt động chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan này được điều chỉnh, bổ sung để đáp ứng mục tiêu, yêu cầu cải cách hành chính nhà nước và thực hiện nguyên tắc Sở quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, hiệu lực, hiệu quả; không nhất thiết ở Trung ương có cơ quan nào thì cấp tỉnh, cấp huyện có tổ chức tương ứng; bảo đảm sự thống nhất, thông suốt trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực từ Trung ương đến cơ sở.

2. Thực hiện Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ về việc đánh giá tình hình thực hiện Nghị định nêu trên, Bộ Nội vụ đã báo cáo Chính phủ tại văn bản số 2578/BC-BNV ngày 07 tháng 8 năm 2009 đánh giá tình hình thực hiện Nghị định số 13/2008/NĐ-CP và Nghị định số 14/2008/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, trong đó qua thực tế sắp xếp, kiện toàn tổ chức và hoạt động ở các địa phương, Bộ Nội vụ đề nghị Chính phủ giữ nguyên tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân các cấp như hiện nay để đảm bảo tính thống nhất và ổn định của các cơ quan này.

Tuy nhiên, theo đề nghị của một số tỉnh miền núi và Uỷ ban Dân tộc về thành lập Phòng Dân tộc thuộc Uỷ ban nhân dânh cấp huyện khi đủ các tiêu chí quy định tại điểm a khoản 3 Điều 2 Nghị định số 53/2004/NĐ-CP ngày 18 tháng 02 năm 2004 của Chính phủ về kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân tộc thuộc Uỷ ban nhân dân các cấp, ngày 26 tháng 02 năm 2010 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 14/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm 2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong đó thành lập Phòng Dân tộc để tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác dân tộc trên địa bàn; đổi tên Phòng Công thương thành Phòng Kinh tế và Hạ tầng để bao quát cả lĩnh vực quản lý của Phòng này.

Thực tế tổ chức và hoạt động của các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện đều thực hiện có kết quả chức năng, nhiệm vụ của mình, phát huy vai trò, tác dụng tốt, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt về quản lý ngành, lĩnh vực; vì vậy, chưa có cơ sở cho rằng hoạt động của các cơ quan này kém hiệu quả và hiện nay chưa có địa phương nào phản ánh tình hình hoạt động kém hiệu quả trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước trên từng ngành, lĩnh vực.

40. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Đề nghị Chính phủ chỉ đạo bộ, ngành có liên quan tham mưu trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 122 ngày 18/5/2004 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức pháp chế của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh và doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là vị trí, vai trò và tổ chức pháp chế ở các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh và doanh nghiệp nhà nước theo hướng thống nhất thành lập Phòng Pháp chế tại các Sở, ngành.


Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn số: 1588

tải về 3.73 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   28   29   30   31   32   33   34   35   ...   50




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương