KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)



tải về 3.73 Mb.
trang26/50
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích3.73 Mb.
#107
1   ...   22   23   24   25   26   27   28   29   ...   50

Trả lời: (Tại Công văn số 8429/BCT-KH ngày 20/8/2010)

Theo Nghị định 112/2008/NĐ-CP ngày 20 tháng 10 năm 2008 của Chính phủ về quản lý, bảo vệ, khai thác tổng hợp tài nguyên và môi trường các hồ chứa thủy điện, thủy lợi thì việc khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên và môi trường trong hành lang bảo vệ hồ chứa phải trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Thẩm quyền phê duyệt các nội dung trên thuộc Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh và UBND tỉnh chịu trách nhiệm chính trong việc quản lý và bảo vệ hồ chứa; chủ trì, phối hợp với chủ đập và các cơ quan liên quan xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng tài nguyên và môi trường trong hành lang bảo vệ hồ chứa và vùng lòng hồ. Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng phải được thực hiện theo các dự án thuộc qui hoạch đã được duyệt. Do vậy, ý kiến của cử tri Gia Lai về bồi thường và giải phóng mặt bằng diện tích đất từ hành lang bảo vệ hồ chứa trở xuống (được hiểu là từ mực nước dâng bình thường đến cao trình mực nước cao nhất, ứng với lũ thiết kế hoặc cao trình đỉnh đập) thuộc các dự án thực hiện theo Qui hoạch do UBND tỉnh phê duyệt.

Riêng đối với các công trình thủy điện sông Ba Hạ, An Khê-Ka Năk, Chủ đầu tư đã tiến hành bồi thường và giải phóng mặt bằng từ mực nước dâng bình thường trở xuống theo các quy định của nhà nước tại thời điểm đền bù giải phóng mặt bằng.

31. Cử tri tỉnh Bình Phước kiến nghị: Bình Phước là một tỉnh miền núi, có 72 xã là các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn, trong đó 45 xã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý cho phép thực hiện đề án điện theo cơ chế, chính sách như đang thực hiện tại các tỉnh Tây Nguyên tại Quyết định 25/2008/QĐ-TTg ngày 05/02/2008 và Công văn số 588/TTg-ĐP ngày 24/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ, còn 27 xã không được hưởng chính sách như trên. Để tạo điều kiện cho 27 xã còn lại phát triển kinh tế - xã hội, đề nghị Chính phủ cho phép tỉnh Bình Phước được áp dụng đầu tư điện nông thôn cho 27 xã nêu trên theo Quyết định 25/2008/QĐ-TTg ngày 05/02/2008 của Thủ tướng Chính phủ; đồng thời bỏ tiêu chí các xã, huyện có tỷ lệ nghèo trên 50% (quy định tại Công văn 588/TTg-ĐP ngày 24/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ), vì đến cuối năm 2009, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh còn 4,79 (theo chuẩn cũ), trong đó hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 16,2% tổng số hộ đồng bào dân tộc thiểu số toàn tỉnh. Nếu thực hiện theo tiêu chí trên thì việc đầu tư điện cho các thôn, ấp đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh sẽ không thực hiện được.

Trả lời: (Tại Công văn số 8279/BCT-KH ngày 17/8/2010)

Xác định điện khí hoá nông thôn là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng, thể hiện tính ưu việt trong chính sách của Đảng và Nhà nước ta, góp phần thay đổi căn bản diện mạo kinh tế - xã hội ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, đóng góp hiệu quả vào công cuộc xoá đói giảm nghèo, trong giai đoạn 2006 - 2010, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã đầu tư hàng chục ngàn tỷ đồng để đưa điện về nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng “Phấn đấu đến năm 2010, trên 90% hộ dân nông thôn có điện”, Bộ Công Thương đã chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam phối hợp với các cấp chính quyền địa phương, tăng cường nguồn vốn đầu tư cấp điện cho vùng nông thôn. Tính đến thời điểm hiện nay, 100% số huyện trong cả nước có điện lưới và điện tại chỗ; 10.794/10.996 xã, phường ( đạt 98,16%), trong đó 8.904/9.106 xã ( đạt 97,78%) có điện lưới quốc gia; 20,5/21,2 triệu hộ dân trên cả nước được cung cấp điện (đạt tỷ lệ 96,57%), trong đó có 14,2/14,9 triệu hộ dân nông thôn có điện (đạt 95,4%), vượt 5,08% so với chỉ tiêu Đại hội đề ra. Tỷ lệ dân nông thôn có điện ở nước ta cao hơn nhiều nước trong khu vực kể cả các nước có thu nhập bình quân đầu người dân cao hơn nước ta như Indonesia (53%), Ấn Độ (43%) ... .

Mặc dù tỷ lệ hộ dân chưa có điện không cao, nhưng các hộ này lại sống rải rác, suất đầu tư cấp điện rất lớn (khoảng 25-90 triệu đ/hộ), nên cần một lượng vốn đầu tư rất lớn, mà hiệu quả sản xuất kinh doanh điện lại không cao, không hấp dẫn các nhà đầu tư, trong khi đó ngân sách nhà nước đang khó cân đối, vì vậy trong chương trình Cấp điện cho các thôn, buôn, bản chưa có điện trong cả nước giai đoạn 2010-2020 cần phải đưa ra các tiêu chí sắp xếp ưu tiên và tiến độ phù hơp với các chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm phát triển kinh tế ổn định đều trên các vùng miền trong cả nước.

Để đảm bảo tính công bằng xã hội, chính sách điều hoà vĩ mô nền kinh tế và chủ động sắp xếp kế hoạch đầu tư dài hạn, Bộ Công Thương đang xin phép Chính phủ cho triển khai xây dựng đề án tổng thể “Cấp điện cho các thôn, buôn, bản chưa có điện giai đoạn 2010-2020”, trên cơ sở đó sẽ tổng hợp nhu cầu đầu tư cấp điện cho toàn bộ các thôn, buôn, bản chưa có điện trong cả nước, có bước đi thích hợp nhằm đảm bảo mục tiêu mà Đảng và Chính phủ đã đề ra.

Đối với đề nghị cấp điện cho các thôn, bản chưa có điện của cử tri Bình Phước, Bộ Công Thương sẽ báo cáo Chính phủ xem xét trong Chương trình Cấp điện cho các thôn, buôn, bản chưa có điện trong cả nước giai đoạn 2010-2020.

32. Cử tri tỉnh Thái Bình kiến nghị: Cử tri phấn khởi khi Quốc hội quyết định xây dựng 2 nhà máy điện: thủy điện Lai Châu và nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận. Song cử tri đề nghị Chính phủ hết sức lưu ý, tính toán đến việc điều hành các nhà máy thủy điện đảm bảo nước tưới cho vùng châu thổ sông Hồng cũng như chống nhiễm mặn cho vùng này khi biến đổi khí hậu nước biển đang dâng cao và đảm bảo tuyệt đối an toàn cho nhà máy điện hạt nhân.

Trả lời: (Tại Công văn số 8213/BCT-KH ngày 16/8/2010)

1. Về vấn đề điều hành các nhà máy thuỷ điện đảm bảo nước cho vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng

Quy hoạch bậc thang thủy điện sông Đà đã được Thủ tướng Chính phủ thông qua tại văn bản số 1320/CP-CN ngày 22 tháng 10 năm 2002, gồm các bậc thang thủy điện Hòa Bình (đã hoàn thành năm 1994), Sơn La (hiện đang xây dựng và sẽ hoàn thành năm 2012) và Lai Châu. Trong nghiên cứu Quy hoạch này, đã xem xét hiệu ích phát điện, chống lũ, cấp nước và đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của hệ thống bậc thang. Trên cơ sở đề nghị của Chính phủ, tại Nghị quyết số 49/2009/QH12 ngày 25 tháng 11 năm 2009, Quốc hội đã quyết định chủ trương đầu tư dự án thủy điện Lai Châu để cung cấp điện cho hệ thống điện quốc gia; góp phần cùng với các nhà máy thủy điện trên sông Đà phục vụ chống lũ về mùa mưa, cấp nước về mùa khô cho đồng bằng Bắc Bộ; phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lai Châu và cả vùng Tây Bắc. Đến nay, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình thủy điện Lai Châu tại Quyết định số 819/QĐ-TTg ngày 07 tháng 6 năm 2010 với các mục tiêu đầu tư xây dựng tuân thủ Nghị quyết số 49/2009/QH12 của Quốc hội.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu Quy hoạch phòng, chống lũ đồng bằng sông Hồng, sông Thái Bình của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt tại Quyết định số 92/2007/QĐ-TTg ngày 21 tháng 6 năm 2007 Phê duyệt Quy hoạch phòng, chống lũ hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình. Theo đó, trong giai đoạn 2010 - 2015, cùng với các giải pháp khác phía hạ du, các hồ chứa trên lưu vực (gồm Hòa Bình, Sơn La, Tuyên Quang, Thác Bà) sẽ đảm bảo chống lũ có chu kỳ lặp lại 500 năm. Hiện nay, khi hồ Sơn La đang xây dựng (sẽ hoàn thành vào năm 2012), việc vận hành các hồ chứa Hòa Bình, Thác Bà, Tuyên Quang trong mùa lũ hàng năm được thực hiện theo Quyết định số 80/2007/QĐ-TTg ngày 01 tháng 6 năm 2007 và Quyết định số 848/QĐ-TTg ngày 11 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ, đảm bảo an toàn chống lũ cho đồng bằng Bắc Bộ, với mọi trận lũ có chu kỳ lặp lại 150 năm và Thủ đô Hà Nội, với mọi trận lũ có chu kỳ lặp lại 250 năm. Trong mùa kiệt hàng năm, tùy theo tình hình khô hạn và nhu cầu nước phía hạ lưu, các hồ chứa nêu trên phải vận hành xả nước phục vụ nhu cầu sinh hoạt, nông nghiệp, giao thông thủy, giảm xâm nhập mặn...theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, trên cơ sở đề nghị của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang nghiên cứu lập Quy trình vận hành liên hồ chứa lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, làm cơ sở phối hợp vận hành các hồ chứa nêu trên, đảm bảo hiệu ích tổng hợp cao nhất. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, nước biển dâng như hiện nay, việc xây dựng các hồ chứa thủy lợi, thủy điện lớn đã và sẽ góp phần chủ động đáp ứng nhu cầu nước về mùa kiệt, chống lũ và đẩy mặn cho hạ du. Tuy nhiên, để phát huy hiệu quả cao trong việc cấp nước cho nông nghiệp, cần có sự đồng bộ về hệ thống công trình thủy lợi liên quan, cũng như tăng cường công tác quản lý, nhằm sử dụng nước tiết kiệm và có hiệu quả.

2. Về vấn đề an toàn điện hạt nhân

Dự án Điện hạt nhân là dự án quan trọng quốc gia, đã được nghiên cứu, xem xét trên nhiều khía cạnh, đã được ý kiến đồng tình của Hội đồng nhân các cấp của tỉnh Ninh Thuận. Trên cơ sở này, Quốc hội đã thông qua chủ trương đầu tư dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận, tỉnh Ninh Thuận. Sau khi được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận, Chính phủ đã thành lập Ban chỉ đạo Nhà nước về dự án điện hạt nhân Ninh Thuận tại Quyết định số 580/QĐ-TTg ngày 04 tháng 5 năm 2010. Trong đó, Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải là Trưởng ban và Bộ trưởng Bộ Công Thương là Phó trưởng ban Thường trực. Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 70/2010/NĐ-CP ngày 22 tháng 6 năm 2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Năng lượng nguyên tử về nhà máy điện hạt nhân về nhà máy điện hạt nhân để thực hiện, đảm bảo mục tiêu cơ bản hoàn chỉnh khung pháp lý khi phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình. Theo Nghị định này, việc đầu tư nhà máy điện hạt nhân phải tuân theo quy hoạch phát triển điện lực quốc gia và các quy hoạch khác liên quan. Mọi hoạt động liên quan đến đầu tư xây dựng, vận hành và chấm dứt hoạt động của nhà máy điện hạt nhân phải bảo đảm yêu cầu cao nhất về an toàn và an ninh. Việc đầu tư xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân phải đạt được hiệu quả kinh tế, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giảm thiểu ảnh hưởng đối với môi trường, cải thiện và nâng cao đời sống của dân cư tại địa phương nơi có nhà máy điện hạt nhân. Việc cấp phép cho nhà máy điện hạt nhân do cơ quan nhà nước thực hiện theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân, thể hiện trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc lựa chọn địa điểm, thiết kế, xây dựng, vận hành, khai thác hay chấm dứt hoạt động của các nhà máy điện hạt nhân. Quy định này không loại trừ trách nhiệm chính trong việc bảo đảm an toàn của tổ chức, cá nhân được cấp phép

Với trách nhiệm đảm bảo an toàn hạt nhân, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đã ban hành thông tư hướng dẫn đánh giá sơ bộ về an toàn hạt nhân đối với địa điểm nhà máy điện hạt nhân. Trong đó, nêu rõ mức an toàn cho người, vật nuôi và cây trồng, khoảng cách tới nhà máy…phù hợp với các quy định an toàn về bức xạ của Việt Nam, ban hành cùng với Luật Năng lượng Nguyên tử và các quy định của Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA).

Như vậy có thể thấy rằng, Chính phủ đã đặt an toàn hạt nhân làm mục tiêu hàng đầu khi xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam,



33. Cử tri tỉnh Ninh Thuận kiến nghị: Việc sẽ tiến hành xây dựng nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận rất được cử tri tỉnh nhà đồng tình ủng hộ về mặt chủ trương. Tuy nhiên, cử tri cũng kiến nghị Chính phủ cần chỉ đạo thật chặt chẽ trong đề án này về tất cả các khâu từ chuẩn bị, áp dụng công nghệ tiên tiến nhất để đảm bảo an toàn cho người dân, tạo điều kiện để nhân dân vùng có dự án được hưởng lợi, đào tạo nguồn nhân lực. Có chính sách hỗ trợ bảo hiểm đặc thù cho nhân dân sinh sống xung quanh vùng dự án nhà máy điện hạt nhân.

Trả lời: (Tại Công văn số 8282/BCT-KH ngày 17/8/2010)

Dự án Điện hạt nhân là dự án quan trọng quốc gia, đã được nghiên cứu, xem xét trên nhiều khía cạnh, đã được ý kiến đồng tình của Hội đồng nhân các cấp của tỉnh Ninh Thuận. Trên cơ sở này, Quốc hội đã thông qua chủ trương đầu tư dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận, tỉnh Ninh Thuận.

Sau khi được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư, Chính phủ đã thực hiện các nội dung sau:

- Đã thành lập Ban chỉ đạo Nhà nước về dự án điện hạt nhân Ninh Thuận tại Quyết định số 580/QĐ-TTg ngày 04 tháng 5 năm 2010 do Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải là Trưởng ban và Bộ trưởng Bộ Công Thương là Phó trưởng ban Thường trực.

- Chính phủ đã giao UBND tỉnh Ninh Thuận làm Chủ đầu tư phần bồi thường, giải phóng mặt bằng và tái định cư. Thủ tướng cũng cho phép triển khai ngay dự án hạ tầng phục vụ thi công và dự án di dân tái định cư.

- Bộ Công Thương và Chủ đầu tư (Tập đoàn Điện lực Việt Nam-EVN) đang đàm phán với tập đoàn Rosatom của Liên bang Nga (từ ngày 31 tháng 7 đến 05 tháng 8 năm 2010) về nhà máy điện hạt nhân số 1 Ninh Thuận.

- Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 70/2010/NĐ-CP ngày 22 tháng 6 năm 2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Năng lượng nguyên tử về nhà máy điện hạt nhân để cơ bản hoàn chỉnh khung pháp lý khi phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình. Theo Nghị định này, việc đầu tư nhà máy điện hạt nhân, phải tuân theo quy hoạch phát triển điện lực quốc gia và các quy hoạch khác liên quan. Mọi hoạt động liên quan đến đầu tư xây dựng, vận hành và chấm dứt hoạt động của nhà máy điện hạt nhân, phải bảo đảm yêu cầu cao nhất về an toàn và an ninh. Việc đầu tư xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân phải đạt được hiệu quả kinh tế, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giảm thiểu ảnh hưởng đối với môi trường, cải thiện và nâng cao đời sống của dân cư tại địa phương nơi có nhà máy điện hạt nhân.

- Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đã ban hành Thông tư hướng dẫn đánh giá sơ bộ về an toàn hạt nhân, đối với địa điểm nhà máy điện hạt nhân. Trong đó, nêu rõ mức an toàn cho người, vật nuôi và cây trồng, khoảng cách tới nhà máy…phù hợp với các quy định an toàn về bức xạ của Việt Nam, ban hành cùng với Luật Năng lượng Nguyên tử và các quy định của Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA).

- Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đang chủ trì xây dựng cơ chế thực hiện dự án hạt nhân đầu tiên, dự kiến sẽ trình cấp có thẩm quyền phê duyệt trong tháng 10 năm 2010.

- Liên quan tới việc lựa chọn công nghệ: Trong Báo cáo đầu tư đề xuất chọn công nghệ từ thế hệ 2 trở lên. Việc lựa chọn công nghệ nào cho NMĐNH Ninh Thuận, sẽ còn được nghiên cứu chi tiết hơn trong giai đoạn lập Dự án đầu tư thông qua tư vấn kỹ thuật nước ngoài, đề xuất nhiều phương án để lựa chọn, trong đó có các thông tin về công nghệ thế hệ 3. Khi triển khai sẽ thực hiện đúng yêu cầu mà Quốc hội đã phê duyệt là an toàn và tiên tiến.

Theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công Thương đang phối hợp với các bộ, ngành liên quan đề xuất, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện và quản lý Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Tuy nhiên, đây là 1 dự án lớn và rất mới đối với Việt Nam, nên đòi hỏi phải có thời gian để nghiên cứu một cách nghiêm túc, kỹ lưỡng đảm bảo các yêu cầu đặt ra đối với công trình, trong đó có vấn chính sách bảo hiểm.

Bộ Công Thương mong muốn cử tri tỉnh Ninh Thuận ghi nhận các bước chuẩn bị tích cực trên đây của Chính phủ, các Bộ, ngành, UBND tỉnh Ninh Thuận và Chủ đầu tư, để tạo điều kiện thuận lợi khi triển khai xây dựng công trình hạt nhân đầu tiên của nước ta.



34. Cử tri các tỉnh Long An, Gia Lai kiến nghị: Cử tri đề nghị Chính phủ khi xây dựng các nhà máy thủy điện cần cân nhắc đến việc mất nhiều diện tích rừng và ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, cần quan tâm lắng nghe ý kiến phản biện của các nhà khoa học chuyên môn đề cập đến lợi hại lâu dài khi đầu tư xây dựng quá nhiều công trình thủy điện. Trong tình hình biến đổi khí hậu hiện nay và yêu cầu phát triển bền vững thì sản xuất điện năng, bảo vệ và phát triển rừng, bảo vệ môi trường đều là các giá trị cần được giải quyết hài hòa, cân đối và phù hợp.

- Đề nghị Chính phủ ban hành quy hoạch mạng lưới thuỷ điện toàn quốc gắn với bảo vệ môi trường và hệ thống quan trắc toàn quốc; ban hành quy định chủ đầu tư trích từ lợi nhuận sản xuất thuỷ điện để tham gia với địa phương trồng lại rừng đã bị mất trên địa bàn có công trình thuỷ điện.

Trả lời: (Tại Công văn số 8281/BCT-KH ngày 17/8/2010)

Nước ta có tiềm năng khá lớn về thủy điện với công suất khoảng 35.000 MW và sản lượng điện 300 TWh/năm, tập trung chủ yếu ở vùng miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên. Trong số đó, chỉ khai thác được khoảng 20.560 MW công suất và 83,4 TWh sản lượng có hiệu quả kinh tế. Việc sớm khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá này là rất cần thiết, nhằm góp phần đảm bảo an ninh, an toàn năng lượng quốc gia, nhất là trong bối cảnh các nguồn năng lượng hóa thạch, năng lượng không tái tạo ngày càng cạn kiệt; đồng thời, cũng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp của các tỉnh trong khu vực này.

Trong các nghiên cứu của các cơ quan tư vấn chuyên ngành và quyết định của Chính phủ về chiến lược, quy hoạch phát triển năng lượng, việc phát triển thủy điện (một trong những nguồn năng lượng sạch, có khả năng tái tạo, giá thành rẻ) được xem xét ưu tiên, đặc biệt là các dự án có hiệu ích tổng hợp (chống lũ, cấp nước, phát điện...). Đến nay, hầu hết các dự án thủy điện lớn đã và đang được Chính phủ chỉ đạo đầu tư xây dựng, như Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Ialy, Trị An, Thác Bà, Tuyên Quang, Đại Ninh...và đang đóng góp trên 30% công suất cho hệ thống điện quốc gia.

Trong quá trình thẩm định, phê duyệt Quy hoạch thủy điện, Bộ Công Thương (trước đây là Bộ Công nghiệp) đã lấy ý kiến của các Bộ, ngành và địa phương liên quan, không xem xét các dự án có ảnh hưởng lớn đối với môi trường - xã hội (di cư, nhu cầu nước phía hạ lưu, đất sản xuất, đất rừng...). Trong các giai đoạn nghiên cứu để lập dự án đầu tư xây dựng công trình, Bộ đã yêu cầu phải nghiên cứu kỹ hơn về quy mô dự án (mực nước hồ chứa), các giải pháp kỹ thuật nhằm đảm bảo khai thác hợp lý nguồn thủy năng, giảm thiểu các tác động tiêu cực đối với môi trường - xã hội. Theo quy định hiện hành, khi đầu tư xây dựng công trình, Chủ đầu tư phải trồng hoàn trả các diện tích đất rừng đã chuyển đổi mục đích sử dụng. Tuy nhiên, qua kiểm tra tại các địa phương, việc trồng hoàn trả diện tích rừng rất khó khăn, chủ yếu do địa phương không còn quỹ đất; một số tỉnh chưa thực sự quan tâm đến công tác quản lý, bảo vệ rừng nên có tình trạng rừng bị chặt phá ngoài các diện tích được chuyển đổi mục đích cho dự án. Về vấn đề này, Bộ Công Thương đã có văn bản đề nghị UBND các tỉnh tăng cường công tác quản lý; kiểm tra, rà soát kỹ các dự án để điều chỉnh hợp lý quy mô, sơ đồ khai thác hoặc loại bỏ những dự án ảnh hưởng lớn tới môi trường - xã hội, không phù hợp với các quy hoạch khác hoặc không đảm bảo hiệu quả đầu tư. Đến nay, một số tỉnh đã báo cáo kết quả thực hiện, trong đó loại bỏ và điều chỉnh khá nhiều các dự án theo tiêu chí nêu trên. Trên cơ sở báo cáo kết quả kiểm tra của Bộ Công Thương, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 888/TTg-KTN ngày 31 tháng 5 năm 2010 chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương thực hiện tốt các quy định hiện hành và nghiên cứu ban hành bổ sung các quy định, đảm bảo việc đầu tư xây dựng các dự án thủy điện đạt hiệu quả tổng hợp về kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.

Nhằm mục đích xây dựng khung pháp lý về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng áp dụng rộng rãi trên cả nước, thực hiện xã hội hóa nghề rừng, bảo vệ và phát triển rừng, bảo vệ môi trường và các hệ sinh thái, nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ về thủy điện, nước, kinh doanh du lịch, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 380/QĐ-TTg ngày 10 tháng 4 năm 2008 về chính sách thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng. Trong đó, thu 20 đồng/kWh của thủy điện nộp vào Quỹ bảo vệ và phát triển rừng, do địa phương quản lý để chi trả trực tiếp cho các hộ dân tham gia trồng và bảo vệ rừng, theo hình thức giao khoán, thí điểm áp dụng tại các tỉnh Lâm Đồng và Sơn La. Đây là một trong những hướng đi quan trọng, thực hiện mục tiêu quy hoạch khoảng 44% diện tích của quốc gia cho phát triển lâm nghiệp. Với chính sách này, năm 2009 tỉnh Lâm Đồng thực hiện chi trả cho 203.335 ha và hơn 8.000 hộ bảo vệ rừng được thụ hưởng với mức bình quân 8,1 - 8,7 triệu đồng/năm, gần gấp 3 lần so với thu nhập nhận khoán trước đây. Sau hơn 2 năm thực hiện thí điểm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang hoàn chỉnh dự thảo để trình Chính phủ ban hành Nghị định về chính sách này, áp dụng rộng rãi trong cả nước.

Trên cơ sở đề nghị của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia đến năm 2020 (Quyết định số 16/2007/QĐ-TTg ngày 29 tháng 01 năm 2007). Mục tiêu tổng quát của Quy hoạch này, là xây dựng mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia, bảo đảm thống nhất trên phạm vi cả nước, đồng bộ, tiên tiến và từng bước hiện đại, đáp ứng nhu cầu thu thập và cung cấp thông tin, số liệu điều tra cơ bản về môi trường, tài nguyên nước, khí tượng thủy văn, phục vụ có hiệu quả cho công tác xử lý, khắc phục ô nhiễm môi trường, dự báo, cảnh báo, phòng, tránh, giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra, phát triển mạnh và bền vững kinh tế - xã hội của đất nước. Đối với các hồ chứa thủy điện, theo Quy trình vận hành hồ chứa được Bộ Công Thương phê duyệt, Chủ đầu tư phải phối hợp với các cơ quan dự báo khí tượng - thủy văn để vận hành hồ chứa đảm bảo an toàn theo quy định. Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu lập Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực các sông trong cả nước. Việc phối hợp vận hành các hồ chứa trên cùng lưu vực theo Quy trình vận hành liên hồ chứa sẽ phát huy hiệu quả tổng hợp của các hồ chứa, trong đó có việc tham gia cắt giảm lũ và đáp ứng nhu cầu dùng nước cho hạ du.



35. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Trong những năm vừa qua, nhân dân trên địa bàn tỉnh Gia Lai đã hy sinh đất đai, ruộng vườn, nhà cửa và Chính phủ chỉ đạo tỉnh giải phóng diện tích rừng, bàn giao cho EVN để xây dựng nhiều công trình thuỷ điện lớn, trước đây là sở hữu Nhà nước, đến nay các công trình thuỷ điện này cổ phần hoá. Việc cổ phần hóa các nhà máy thuỷ điện vừa qua không tính đầy đủ giá trị diện tích đất và rừng làm công trình. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các chủ đầu tư khi cổ phần hoá, phải tính đầy đủ giá trị diện tích rừng bị mất, giá trị đất và xác định tổng giá trị này là cổ phần của tỉnh trong các công ty cổ phần thuỷ điện. Các công ty cổ phần thủy điện phải trả cổ tức cho ngân sách tỉnh Gia Lai, để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và hỗ trợ sản xuất, chăm lo đời sống của người dân, nhất là người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số.

Trả lời: (Tại Công văn số 8429/BCT-KH ngày 20/8/2010)

Việc di dân, chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng và đất sản xuất để đầu tư xây dựng các công trình thủy điện, đều phải thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định hiện hành. Việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và các nghĩa vụ tài chính có liên quan đến các diện tích đất sử dụng cho việc xây dựng công trình, được thực hiện theo các quy định tại Luật Đất đai và các Nghị định hướng dẫn thực hiện có liên quan. Đối với đất khu vực lòng hồ, sau khi Chủ đầu tư thực hiện bồi thường giải phóng mặt bằng, việc quản lý, bảo vệ và khai thác tổng hợp tài nguyên và môi trường hồ chứa thực hiện theo Nghị định 112/2008/NĐ-CP của Chính phủ. Việc xác định giá trị sử dụng đất vào giá trị của doanh nghiệp khi cổ phần hóa, được thực hiện theo Nghị định số 109/2007/NĐ-CP của Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.

Về nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước, Chủ đầu tư dự án phải nộp các loại thuế tài nguyên, giá trị gia tăng, thu nhập...theo quy định của pháp luật. Đây là nguồn thu của ngân sách Nhà nước để đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Ngoài ra, đối với người nghèo và đồng bào thiểu số, Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã và đang có những chương trình, dự án để từng bước chăm lo, nâng cao và ổn định cuộc sống.

36. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Hiện nay, khi làm các công trình thuỷ điện lớn trên địa bàn tỉnh, việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho nhân dân trong vùng dự án còn chưa bảo đảm lợi ích, việc làm, ổn định đời sống lâu dài của người dân, chưa thực hiện tốt yêu cầu bảo đảm an sinh xã hội. Đề nghị Chính phủ quy định chính sách cho người dân trong vùng dự án được góp cổ phần vào nhà máy bằng giá trị quyền sử dụng đất và tài sản bị giải toả mặt bằng xây dựng công trình, để bảo đảm cuộc sống lâu dài của nhân dân.

Trả lời: (Tại Công văn số 8429/BCT-KH ngày 20/8/2010)

Hiện nay, ngoài các quy định của Chính phủ tại các Nghị định số 197/2004/NĐ-CP, số 17/2006/NĐ-CP, số 84/2007/NĐ-CP và số 69/2009/NĐ-CP liên quan đến việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư các dự án nói chung, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư các dự án thủy lợi, thủy điện tại Quyết định số 34/2010/QĐ-TTg ngày 08 tháng 4 năm 2010. Trong đó, nguyên tắc chung là phải đảm bảo người dân tái định cư có chỗ ở, cuộc sống ổn định, có điều kiện phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, từng bước hoàn thiện cơ sở hạ tầng; cuộc sống vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng tốt hơn nơi ở cũ, ổn định lâu dài, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng chung của địa phương; đảm bảo hài hòa lợi ích giữa người dân tái định cư với người dân sở tại; quá trình thực hiện đảm bảo dân chủ, công khai, minh bạch, đúng mục tiêu, đúng đối tượng và hiệu quả.

Việc tham gia cổ phần vào nhà máy thủy điện của người dân bị ảnh hưởng bởi dự án, cũng phải thực hiện theo quy định tại Luật Doanh nghiệp, Luật chứng khoán và các quy định của pháp luật có liên quan. Việc này cũng phải được sự đồng thuận, trên tinh thần tự nguyện của người dân. Hơn nữa, các công trình thuỷ điện thường rất phức tạp, thời gian xây dựng dự án kéo dài, sau khoảng 6-8 năm mới được hưởng cổ tức, trong thời gian này người dân sẽ khó có đủ điều kiện để trang trải cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Ngoài ra, có một số vấn đề cần quan tâm xem xét nhằm đảm bảo quyền lợi và tránh rủi ro cho người dân như, chẳng hạn như cổ phần ưu đãi hoàn lại.

37. Cử tri tỉnh Đắk Nông kiến nghị: Đề nghị Chính phủ chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam cần phối hợp tốt hơn với chính quyền địa phương trong việc xây dựng các công trình thủy điện trên địa bàn tỉnh, thời gian qua có rất nhiều ý kiến, kiến nghị và đơn thư khiếu nại của người dân liên quan đến việc đến bù, hỗ trợ và bố trí tái định cư của các dự án. Ví dụ như dự án: Thủy điện Đồng Nai 3, 4; Thủy điện Đăk Rtih; Thủy điện Buôn Tusah… Các vấn đề người dân bức xúc chủ yếu là công tác kê khai đến bù nhà cửa, cây cối, việc bố trí tái định cư chưa kịp thời, không phù hợp với điều kiện sống và canh tác của bà con, một số công trình xây dựng ở khu tái định cư diễn ra chậm, không đảm bảo chất lượng.

Trả lời: (Tại Công văn số 8283/BCT-KH ngày 17/8/2010)

Trên cơ sở kết quả kiểm tra tình hình thực hiện các dự án điện theo Quy hoạch điện VI của Bộ Công Thương, tại các cuộc họp Ban chỉ đạo nhà nước Quy hoạch điện VI, Chính phủ đã giao UBND các tỉnh phối hợp chặt chẽ với Chủ đầu tư dự án điện, sớm hoàn thành công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư - định canh; đảm bảo sớm ổn định đời sống và phục hồi sản xuất cho các hộ dân bị ảnh hưởng; Chủ tịch UBND tỉnh phải chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về việc chậm tiến độ xây dựng công trình điện, do công tác giải phóng mặt bằng, làm ảnh hưởng đến an ninh cung cấp điện. Đối với các dự án điện cấp bách, các địa phương cần khẩn trương hỗ trợ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) trong công tác giải phóng mặt bằng. Về dự án thủy điện Đồng Nai 3, đã giao UBND tỉnh Đắk Nông quy định bổ sung về mức bồi thường, hỗ trợ cho các công việc phát sinh trong quá trình thực hiện bồi thường; hỗ trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư; chỉ đạo thực hiện đáp ứng tiến độ tích nước hồ chứa từ tháng 7 năm 2010. Bộ Công Thương cũng đã làm việc với UBND tỉnh Đắk Nông và EVN, để giải quyết vấn đề hỗ trợ bổ sung về nhà ở cho nhân dân vùng tái định cư, đẩy nhanh việc xây dựng các khu tái định cư, để đảm bảo tiến độ tích nước hồ chứa. Về công tác kê khai đền bù nhà cửa, cây cối và chất lượng các hạng mục công trình phục vụ tái định cư, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục làm việc với UBND tỉnh và Chủ đầu tư các dự án, để đảm bảo thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo đúng tiến độ xây dựng công trình, tuân thủ quy định hiện hành và bảo đảm chất lượng các công trình phục vụ tái định cư.



38. Cử tri tp Đà Nẵng và các tỉnh Long An, Bạc Liêu, Bến Tre, Nam Định kiến nghị: Thời gian gần đây, chủ trương của Đảng, Nhà nước kêu gọi người tiêu dùng sử dụng hàng hóa của Việt Nam. Đây là chủ trương rất đúng đắn đã được đông đảo nhân dân hưởng ứng. Tuy nhiên, chất lượng hàng hóa nội địa chưa đảm bảo, giá cả một số mặt hàng vẫn còn cao, gây thiệt thòi cho người tiêu dùng. Cử tri kiến nghị Chính phủ cần có cơ chế, chính sách thông thoáng hơn để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh với các sản phẩm nhập khẩu.

Trả lời: (Tại Công văn số 8047/BCT-KH ngày 11/8/2010)

Sau 1 năm triển khai thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” của Bộ Chính trị, hàng hóa sản xuất trong nước đã nhận được sự quan tâm, ủng hộ ngày càng lớn của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, hiện tại, đúng như cử tri phản ánh, chất lượng của không ít hàng hoá do Việt Nam sản xuất, vẫn còn ở mức thấp và giá thành còn cao. Vì vậy, chưa đáp ứng được nguyện vọng và nhu cầu của người tiêu dùng trong nước.

Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh với các sản phẩm nhập khẩu, Bộ Công Thương, một mặt tiếp tục chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các chính sách đã ban hành; mặt khác khẩn trương rà soát để sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách có liên quan theo thẩm quyền hoặc kiến nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung. Cụ thể, trong năm 2010, Bộ Công Thương đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 03/NQ-CP ngày 15 tháng 01 năm 2010 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2010; Chỉ thị số 05/CT-BCT ngày 03 tháng 02 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Công Thương về việc tổ chức thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 2600/TTg-KTTH ngày 30 tháng 12 năm 2009 về đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu năm 2010; Chỉ thị số 13/CT-BCT ngày 12 tháng 4 năm 2010 triển khai thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về những giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010. Trong đó, có đưa ra các chính sách, giải pháp để nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm như:

- Yêu cầu các Tập đoàn, Tổng công ty, doanh nghiệp thực hiện chương trình thực hành tiết kiệm, tiết giảm các chi phí, giảm định mức tiêu hao nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng trong sản xuất, đặc biệt sử dụng tiết kiệm điện năng để hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng tăng trưởng.

- Nghiên cứu ban hành các quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, phù hợp yêu cầu bảo vệ sức khoẻ con người, môi trường sinh thái để tăng cường quản lý chất lượng hàng hoá, vệ sinh thực phẩm.

- Nghiên cứu ban hành Danh mục hoá chất không sử dụng trong sản phẩm tiêu dùng và sản phẩm gia dụng theo Luật Hoá chất.

- Xây dựng Nghị định phát triển công nghiệp hỗ trợ.

- Rà soát, đánh giá việc thực hiện quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp, trong đó có công nghiệp phục vụ tiêu dùng như dệt may, da giày, sữa, dầu thực vật... để có giải pháp phát triển ngành phù hợp trong thời gian tới.

Ngoài cơ chế, chính sách hỗ trợ sản xuất, trong lĩnh vực thương mại, Bộ Công Thương sẽ triển khai thực hiện các giải pháp và chính sách chủ yếu như sau:

- Chú trọng công tác hỗ trợ doanh nghiệp trong nước để nâng cao năng lực cạnh tranh với nhiều hoạt động như: cung cấp thông tin, khảo sát thị trường, tổ chức các chương trình đào tạo nâng cao năng lực cán bộ, huấn luyện kỹ năng chăm sóc khách hàng, xây dựng thương hiệu…

- Đẩy mạnh kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống đầu cơ, buôn lậu, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. kiểm tra việc thực hiện các quy định về niêm yết giá và bán theo giá niêm yết, xử lý kịp thời các vi phạm nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà sản xuất và người tiêu dùng.

- Tiếp tục chỉ đạo địa phương thực hiện các chính sách về khuyến khích, ưu đãi và hỗ trợ vốn đầu tư phát triển hạ tầng thương mại (chủ yếu là hệ thống chợ) được qui định tại Nghị định 114/2009/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 02/2003/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển và quản lý chợ và Quyết định 23/QĐ-TTg ngày 06 tháng 01 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án phát triển thương mại nông thôn, giai đoạn 2010-2015 và định hướng đến năm 2020”, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thiết lập hệ thống phân phối, mở rộng mạng lưới kinh doanh, qua đó giảm bớt khâu trung gian và chi phí lưu thông, tạo ra lợi thế cạnh tranh về giá bán hàng hóa.

- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là đơn giản hoá các thủ tục hành chính để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

39. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Đề nghị Chính phủ, Bộ Công thương không tính chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu cho địa phương, vì quy định như vậy sẽ xảy ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, chỉ nên tính chỉ tiêu này cho quốc gia.

Trả lời: (Tại Công văn số 8149/BCT-KH ngày 13/8/2010)

Ý kiến của cử tri tỉnh Gia Lai nêu chưa thực tế, hiện nay, chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu do Quốc hội thông qua hàng năm để định hướng cho Chính phủ điều hành các mục tiêu kinh tế - xã hội. Chính phủ, Bộ Công Thương không giao chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu cho từng địa phương. Ở các tỉnh cũng vậy, chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu của tỉnh do Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua hàng năm để định hướng cho UBND các tỉnh điều hành các mục tiêu kinh tế -xã hội của tỉnh.



40. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Đề nghị Bộ Công thương quan tâm hàng năm bố trí nguồn vốn hỗ trợ để xây dựng chợ tại những khu vực đông dân cư vùng trọng điểm chưa có chợ của tỉnh Gia Lai.

Trả lời: (Tại Công văn số 8141/BCT-KH ngày 13/8/2010)

Thực hiện Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2003 của Chính phủ về phát triển và quản lý chợ, những năm vừa qua, mặc dù phải chi cho nhiều lĩnh vực khác, ngân sách Trung ương đã dành một phần đáng kể để hỗ trợ các địa phương xây dựng chợ, trong đó có tỉnh Gia Lai. Năm 2010, ngân sách Trung ương hỗ trợ tỉnh Gia Lai 207 tỷ đồng để thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 18 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị, trong đó có hỗ trợ đầu tư hạ tầng chợ (theo Quyết định số 278/QĐ-BKH ngày 19 tháng 11 năm 2009 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc giao chỉ tiêu kế hoạch đầu tư phát triển thuộc Ngân sách nhà nước năm 2010). Vì vậy, đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Gia Lai, có ý kiến với HĐND và UBND tỉnh dành ngân sách hỗ trợ đầu tư xây dựng chợ từ nguồn vốn trên, kết hợp vốn ngân sách địa phương và các nguồn vốn khác. Về vấn đề này, Bộ Công Thương cũng đã có văn bản số 1022/BCT-TTTN ngày 25 tháng 01 năm 2010 gửi UBND và Sở Công Thương tỉnh Gia Lai.

Để triển khai thực hiện Nghị định số 114/2009/NĐ-CP, ngày 23 tháng 12 năm 2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 1 năm 2003 về phát triển, quản lý chợ và Quyết định số 23/QĐ-TTg ngày 06 tháng 01 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2010-2015 và định hướng đến năm 2020”, Bộ Công Thương đã có văn bản số 2203/BCT-TTTN ngày 05 tháng 3 năm 2010 gửi Ủy ban nhân dân, Sở Công Thương 63 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương. Trong đó, đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chỉ đạo Sở Công Thương lập danh mục chợ đề nghị hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng từ ngân sách Trung ương năm 2011 (theo quy định của Nghị định 114 nêu trên) gửi về Bộ Công Thương và Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Ngày 30 tháng 7 năm 2010, Bộ Công Thương đã có văn bản số 7599/BCT-TTTN đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét, bố trí nguồn vốn hỗ trợ đầu tư xây dựng chợ trong kế hoạch ngân sách năm 2011, trong đó có chợ đầu mối rau quả An Phú - Pleiku và Chợ Glong huyện Kông chro của tỉnh Gia Lai. Tuy nhiên, do nguồn vốn hỗ trợ đầu tư xây dựng chợ từ ngân sách Trung ương hàng năm có hạn, trong khi nhu cầu của các địa phương là rất lớn, nên bên cạnh việc huy động nguồn vốn ngân sách, Bộ Công Thương rất mong Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Gia Lai ủng hộ và đề nghị UBND tỉnh có thêm các giải pháp huy động các nguồn vốn khác, nhất là nguồn vốn của các doanh nghiệp, hộ kinh doanh để đầu tư phát triển mạng lưới chợ trên địa bàn.



41. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Đề nghị Chính phủ có chính sách hỗ trợ người sản xuất, các doanh nghiệp tạo dựng thương hiệu các mặt hàng nông nghiệp, thủy sản để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa và xuất khẩu.

Trả lời: (Tại Công văn số 8051/BCT-KH ngày 11/8/2010)

Để giải quyết những yêu cầu cấp bách về xúc tiến thương mại trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển thị trường nội địa, Bộ Công Thương đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 80/2009/QĐ-TTg ngày 21 tháng 5 năm 2009 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 2006-2010 ban hành kèm theo Quyết định số 279/2005/QĐ-TTg ngày 3 tháng 11 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ. Quyết định 80 nêu trên bắt đầu có hiệu lực từ ngày 15 tháng 7 năm 2009.

Theo Quyết định này, các cơ quan xúc tiến thương mại địa phương đủ năng lực được tham gia Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, với tư cách là đơn vị chủ trì chương trình. Ngoài ra, các tổ chức xúc tiến thương mại (bao gồm cả các địa phương) sẽ được hỗ trợ, khi tham gia chương trình xúc tiến thương mại quốc gia của các đơn vị chủ trì khác. Điều này tạo điều kiện cho các tổ chức xúc tiến thương mại của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đại diện cho doanh nghiệp địa phương tham gia vào hoạt động xúc tiến thương mại quốc gia, để xúc tiến các sản phẩm đặc trưng, có lợi thế cạnh tranh của địa phương mình. Đồng thời, tạo cơ hội cho các địa phương, ngành hàng tập hợp doanh nghiệp, quảng bá cho các thế mạnh chung của địa phương, ngành hàng trong các hoạt động xúc tiến thương mại lớn, mang tính liên ngành, liên địa phương.

Thực hiện Quyết định 80 nêu trên, trong năm 2009 và 2010, Bộ Công Thương đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhiều đề án của các địa phương nhằm quảng bá những sản phẩm thế mạnh của địa phương mình, trong đó có đề án của tỉnh Tiền Giang (tổ chức hội chợ triển lãm Rau quả đồng bằng sông Cửu Long từ ngày 19-24/4/2010 với kinh phí hỗ trợ 780 triệu đồng).

Hiện nay, Bộ Công Thương đang triển khai xây dựng Quy chế mới cho Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, dựa trên cơ sở định hướng phát triển xuất khẩu, phát triển thị trường trong nước và phát triển thương mại miền núi, biên giới và hải đảo, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nhằm tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển xuất khẩu, thị trường trong nước, thương mại miền núi, biên giới và hải đảo; tạo điều kiện xây dựng cơ sở vật chất phục vụ hoạt động xúc tiến thương mại; góp phần nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp; gắn kết các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư và du lịch. Quy chế đang trong giai đoạn soạn thảo, lấy ý kiến các Bộ ngành trước khi trình Thủ tướng Chính phủ. Ngay khi Quy chế được phê duyệt, Bộ Công Thương sẽ có thông báo công khai để các địa phương có thể chủ động tham gia.

42. Cử tri tp Hà Nội kiến nghị: Thời gian qua, tình trạng nhập siêu các mặt hàng xa xỉ ngày càng tăng, trong khi đó các mặt hàng thiết yếu như máy móc, thiết bị chưa được quan tâm đúng mức. Đề nghị Chính phủ có giải pháp quyết liệt để hạn chế nhập siêu hàng xa xỉ, tăng cường nhập khẩu máy móc, thiết bị, hàng thiết yếu phục vụ sản xuất.

Trả lời: (Tại Công văn số 8443/BCT-KH ngày 20/8/2010)

Kim ngạch nhập khẩu (KNNK) 7 tháng đầu năm 2010 ước đạt 45,709 tỷ USD, tăng 25,5% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, KNNK của nhóm hàng cần phải nhập khẩu như vật tư, nguyên liệu, thiết bị, máy móc... phục vụ sản xuất ước đạt 37,089 tỷ USD, chiếm tỷ trọng lớn (81%), nhóm hàng nhập khẩu cần phải kiểm soát như vàng, bạc, đá quý... ước đạt 5,611 tỷ USD, chiếm 12,4%, và nhóm hàng hạn chế nhập khẩu như hàng tiêu dùng xa xỉ... ước đạt 3,009 tỷ, chiếm 6,6% trong tổng KNNK.

Như vậy, cơ cấu nhập khẩu vẫn chủ yếu tập trung vào các mặt hàng cần phải nhập khẩu để phục vụ sản xuất, KNNK các mặt hàng này tăng 22,2% so với cùng kỳ năm trước, trong khi KNNK các mặt hàng tiêu dùng vừa chiếm tỷ trọng nhỏ, vừa tăng thấp hơn (tăng 15%) .

Theo cam kết về việc gia nhập WTO, Việt Nam phải xoá bỏ hạn chế nhập khẩu bằng hạn ngạch, giấy phép và giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình. Thực hiện cam kết này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2006, quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài. Nghị định quy định thương nhân được quyền nhập khẩu các mặt hàng, trừ hàng hoá thuộc danh mục hàng cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu. Do vậy, đối với các mặt hàng tiêu dùng không thuộc danh mục trên, thương nhân được quyền nhập khẩu theo nhu cầu, không cần giấy phép nhập khẩu của Bộ Công Thương, thủ tục thực hiện tại hải quan cửa khẩu.

Tuy nhiên, để kiểm soát nhập khẩu hàng tiêu dùng không khuyến khích, Bộ Công Thương đã chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành đưa ra nhiều giải pháp để quản lý nhập khẩu, cụ thể là:


  1. Thuế nhập khẩu

- Các mặt hàng tiêu dùng không khuyến khích nhập khẩu đều chịu mức thuế tối đa theo cam kết quốc tế của Việt Nam ( ví dụ : ôtô chở người dưới 09 chỗ ngồi nhập khẩu chịu các mức thuế: thuế nhập khẩu: 83%; thuế VAT: 10%; thuế tiêu thụ đặc biệt: 40% - 60%; thuế trước bạ: 10% - 15%).

- Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Tài chính tăng cường các biện pháp kiểm soát trị giá tính thuế nhập khẩu, đối với các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ.



  1. Giấy phép nhập khẩu tự động và hạn chế tiếp cận ngoại tệ

- Bộ Công Thương cấp giấy phép nhập khẩu tự động đối với các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ, theo hướng kiểm soát chặt chẽ hơn việc nhập khẩu các mặt hàng này.

- Ban hành danh mục mặt hàng không thiết yếu, hàng tiêu dùng không khuyến khích nhập khẩu (Quyết định số 1899/QĐ-BCT ngày 16 tháng 4 năm 2010) trong đó có các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ và đề nghị Ngân hàng Nhà nước thực hiện biện pháp hạn chế cho vay ngoại tệ và thanh toán đối với hàng hóa thuộc danh mục này. Đồng thời, Bộ Công Thương đề nghị các Bộ quản lý chuyên ngành, có biện pháp quản lý phù hợp đối với nhóm hàng này, góp phần hạn chế nhập khẩu.



3. Nộp thuế ngay trước khi thông quan

Theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Bộ Công Thương công bố Danh mục hàng tiêu dùng phải nộp thuế ngay trước khi thông quan, trong đó có các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ.



  1. Các biện pháp khác

  • Bộ Công Thương đã tăng cường sự phối hợp với các Bộ quản lý chuyên ngành trong việc kiểm soát nhập khẩu như có văn bản số 66/BCT-XNK ngày 25 tháng 3 năm 2010 gửi Bộ Thông tin và Truyền thông (TTTT) tăng cường kiểm soát việc nhập khẩu điện thoại 3G...

- Áp dụng các biện pháp về thủ tục hải quan, như không cho hàng tiêu dùng xa xỉ vào kho ngoại quan để hạn chế việc nhập khẩu các mặt hàng này.

43. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri kiến nghị Chính phủ tăng cường chỉ đạo các bộ, ngành liên quan nâng cao hiệu quả công tác dự báo thị trường, kể cả thị trường trong nước và thế giới để làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội có hiệu quả.

Trả lời: (Tại Công văn số 8055/BCT-KH ngày 11/8/2010)

Công tác dự báo, đặc biệt là dự báo thị trường, đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định chủ trương, đường lối và các chính sách phát triển nền kinh tế đất nước, trên cơ sở đó chủ động hạn chế những tác động tiêu cực, bất ổn của thị trường, giúp cho thị trường nói riêng và nền kinh tế nói chung, phát triển ổn định và bền vững. Nội dung cơ bản của dự báo thị trường là dự báo về cung - cầu và giá cả thị trường, trong đó dự báo về giá cả đóng vai trò đặc biệt quan trọng.

Trong nhiều năm qua, đặc biệt là từ năm 2003 đến nay, giá cả nhiều mặt hàng trọng yếu có những biến động bất thường, ảnh hưởng đến đầu vào cho sản xuất trong nước và đời sống của nhân dân. Để giúp cho Chính phủ có được những dự báo, phân tích tình hình một cách khoa học, chính xác, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) thành lập Tổ Điều hành thị trường trong nước, bao gồm đại diện của các bộ, ngành và các hiệp hội ngành hàng trọng yếu. Nhiệm vụ chính của Tổ là định kỳ báo cáo, phân tích, đánh giá và dự báo về quan hệ cung cầu, thị trường, giá cả các mặt hàng quan trọng, thiết yếu (lương thực, thực phẩm, xăng dầu, xi măng, sắt thép, phân bón, đường, muối, than, giấy, thuôc chữa bệnh, thức ăn chăn nuôi) và thống nhất kiến nghị với Chính phủ các giải pháp xử lý phù hợp, nhằm đáp ứng nhu cầu ổn định nền kinh tế, góp phần ổn định sản xuất và đời sống nhân dân.

Công tác dự báo thời gian qua được thực hiện như sau:

- Có nhóm chuyên trách theo dõi sát diễn biến thị trường trong và ngoài nước đối với một số mặt hàng thiết yếu.

- Thiết lập hệ thống mạng lưới đầu mối cộng tác viên, cung cấp thông tin tổng thể về các nhân tố có khả năng tác động tới thị trường, tới cung - cầu, giá cả hàng hóa thiết yếu (về sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu đến tiêu thụ trong nước...) từ các bộ, ngành, hiệp hội, doanh nghiệp, viện nghiên cứu...

- Tổng hợp, phân tích các thông tin thu thập được, dự báo xu hướng vận động của thị trường, giá cả, đề xuất các giải pháp phù hợp để bình ổn thị trường (chính sách thuế, tín dụng, dự trũ, lưu thông, xuất nhập khẩu, kiểm tra, kiểm soát thị trường...) và kịp thời xử lý trước những biến động tiêu cực của thị trường.

- Định kỳ hàng tháng họp Tổ để trao đổi, thống nhất ý kiến trước khi báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ.

Nhìn chung, trong thời gian vừa qua, các kết quả dự báo của Tổ điều hành thị trường trong nước tương đối sát với tình hình. Các giải pháp đề xuất của Tổ đã góp phần bảo đảm nguồn cung cho sản xuất và tiêu dùng trong nước, không để xảy ra tình trạng thiếu hàng, sốt giá, ổn định sản xuất và tiêu dùng trong nước.

Tuy nhiên, hoạt động của công tác dự báo còn một số hạn chế, bất cập:

- Khả năng tiếp cận các phương tiện, mô hình dự báo tiên tiến của thế giới và trình độ của các chuyên gia làm công tác dự báo, cả về chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn, vẫn còn có những hạn chế nhất định.

- Thị trường thế giới, nhất là trong một vài năm gần đây, diễn biến khá nhanh, gây nhiều khó khăn cho công tác dự báo. Bên cạnh đó sự thay đổi thường xuyên về chính sách, cũng gây hạn chế cho công tác này.

- Việc thu thập thông tin cần thiết (từ số liệu thống kê, tới chính sách và sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan) để đưa ra dự báo, đánh giá về thị trường còn chưa đầy đủ, khó tiếp cận, chưa đạt độ chính xác cao.

Trong thời gian tới, Bộ Công Thương tiếp tục khắc phục những hạn chế nêu trên, đặc biệt là những hạn chế chủ quan, để nâng cao dần chất lượng, hiệu quả công tác dự báo.



44. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Hiện nay, người Việt Nam sử dụng hàng sản xuất tại nước ngoài rất là nhiều, hơn nữa hàng tiêu dùng nhập lậu từ nước ngoài về Việt Nam được bán công khai trên thị trường. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành khắc phục tình trạng này.

Trả lời: (Tại Công văn số 8157/BCT-KH ngày 13/8/2010)

Trong những năm qua, mọi chính sách, cơ chế điều hành hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu đề nhằm khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho sản xuất, xuất khẩu; điều tiết, kiểm soát nhập khẩu để bảo hộ sản xuất trong nước, kiềm chế nhập siêu, tiết kiệm tiêu dùng... phù hợp với các nguyên tắc hội nhập khu vực, cam kết gia nhập WTO của Việt Nam. Tuy nhiên, hàng hoá sản xuất trong nước hiện nay chưa đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng về mẫu mã, chất lượng và giá cả, trong khi đó hàng nước ngoài mẫu mã phong phú, giá cả phải chăng, đặc biệt là hàng hoá từ Trung Quốc. Vì vậy, nhiều người vẫn sử dụng hàng hoá sản xuất tại nước ngoài.

Để khắc phục tình trạng này, cần phải thực hiện trên cả 3 lĩnh vực với 3 chủ thể khác nhau. Trước hết các doanh nghiệp cần nghiên cứu một cách đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng để có chương trình, kế hoạch đầu tư, phát triển những ngành hàng, sản phẩm thực sự có thế mạnh, có thể cạnh tranh được với các sản phẩm nhập khẩu cùng loại, bằng chất lượng và giá cả để thu hút người tiêu dùng mua sắm, sử dụng. Về phía người tiêu dùng, cần có ý thức ủng hộ, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước phát triển bằng cách từ bỏ tư tưởng, thói quen “sính hàng ngoại”, hưởng ứng cuộc vận động của Bộ Chính trị “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước, trong đó có Bộ Công Thương, lực lượng quản lý thị trường, hải quan, thuế vụ, chính quyền địa phương các cấp... sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ, đẩy mạnh công tác chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại, để tạo điều kiện cho hàng sản xuất trong nước phát triển, chiếm lĩnh thị trường.

45. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Cử tri bức xúc, việc vật tư nông nghiệp nói chung liên tục tăng giá, nhất là khi vào mùa vụ, khi có sâu bệnh, do thiếu sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền các cấp, nên các cửa hàng vật tư nông nghiệp thao túng giá cả, thậm chí mua bán cả hàng giả, hàng kém chất lượng.Vấn nạn này cử tri đã kiến nghị nhiều lần và Bộ trưởng cũng có trả lời, nhưng thực trạng và giải pháp vẫn tồn tại; việc ngăn chặn đẩy lùi chưa thấy rõ hiệu quả. Đề nghị, các Bộ, ngành liên quan phải có trách nhiệm tham mưu, đề xuất với Chính phủ biện pháp nào khả thi hơn nữa để tư thương không tự nâng giá, không bán hàng gian, hàng giả; đồng thời kiến nghị Bộ Công thương, Bộ Tài chính và Hiệp hội Doanh nghiệp phải có sự phối hợp tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ hoạt động mua bán của các tư thương và có những giải pháp kiên quyết bắt buộc từng mặt hàng niêm yết giá công khai tại các đại lý. Đề nghị nên đưa vấn đề này vào Luật và có chế tài cụ thể đối với các hành vi vi phạm.

Trả lời: (Tại Công văn số 8156/BCT-KH ngày 13/8/2010)

Hiện nay, Bộ Công Thương, Ban Chỉ đạo chống buôn lậu và gian lận thương mại (Ban Chỉ đạo 127/TW) đang phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổ chức đánh giá tình hình sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng đối với mặt hàng vật tư nông nghiệp (phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, thức ăn chăn nuôi...) để có phương án, giải pháp đẩy mạnh kiểm tra, kiểm soát và xử lý nghiêm các vi phạm đối với các mặt hàng này. Bên cạnh đó, Bộ cũng đang phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu đưa mặt hàng này vào diện sản xuất, kinh doanh có điều kiện, dự kiến trong tháng 9 năm 2010 sẽ có báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ.

Ngoài ra, Bộ cũng đang phối hợp chặt chẽ với Bộ tài chính soạn thảo trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định 169/2004/NĐ-CP Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong giá theo hướng nâng mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm về niêm yết giá, bán theo giá niêm yết và các hành vi vi phạm khác trong lĩnh giá để có tính răn đe cao.

46. Cử tri các tỉnh Long An, Bến Tre, Tiền Giang, Đà Nẵng, Thanh Hóa, Điện Biên kiến nghị: Hiện nay vấn đề hàng giả, hàng kém chất lượng, có chứa hóa chất độc hại ... vẫn còn tràn lan, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người dân, gây tâm lý hoang mang cho toàn xã hội. Cử tri rất bức xúc trước những việc làm không có lương tâm của các nhà sản xuất như trên, song việc kiểm tra, xử lý cũng như chế tài áp dụng vẫn còn quá nhẹ, chưa có tác dụng răn đe, ngăn chặn. Đề nghị Chính phủ tăng cường mạnh mẽ hơn nữa công tác quản lý, kiểm tra, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm; đồng thời nghiên cứu nâng mức tiền phạt vi phạm hành chính cũng như đề xuất nâng mức hình phạt đối với hành vi vi phạm pháp luật hình sự trong lĩnh vực này.

Trả lời: (Tại Công văn số 8152/BCT-KH ngày 13/8/2010)

Trước hết, Bộ Công Thương xin được chia sẻ với ý kiến của cử tri Bến Tre về vấn đề hàng giả, hàng kém chất lượng.

Để từng bước hạn chế tình trạng này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 28/2008/CT-TTg ngày 08 tháng 9 năm 2008 về một số biện pháp cấp bách chống hàng giả, hàng kém chất lượng. Thực hiện Chỉ thị này, Ban Chỉ đạo 127/TW của Bộ Công Thương đã ban hành Phương án kiểm tra, kiểm soát chống hàng giả, hàng kém chất lượng. Đồng thời, để đánh giá một cách toàn diện về công tác này, Ban Chỉ đạo 127/TW đang tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 31/1999/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về công tác đấu tranh chống hàng giả, qua đó đề ra những giải pháp hữu hiệu hơn trong thời gian tới.

Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu cấp bách ngăn chặn tình trạng hàng giả, hàng kém chất lượng đang diễn biến phức tạp, Bộ Công Thương đang chủ trì xây dựng Nghị định xử phạt vi phạm hành chính về hàng giả để trình Chính phủ ban hành. Nghị định này sẽ quy định thống nhất các hành vi vi phạm, chế tài xử phạt, thẩm quyền xử phạt, thủ tục xử phạt và quan hệ phối hợp trong việc kiểm tra xử lý đối với các vi phạm về hàng giả. Các chế tài sẽ được điều chỉnh theo hướng tăng nặng, nhằm tăng tính răn đe và phòng ngừa, mặt khác tăng cường hiệu lực thực thi cho các cơ quan có thẩm quyền, trong công tác đấu tranh chống hàng giả.

Khi Nghị định được ban hành sẽ là cơ sở pháp lý để các cơ quan thực thi pháp luật, doanh nghiệp và người dân thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh phòng trừ nạn hàng giả.

47. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Giá cả thị trường tăng, giảm là điều bình thường, tuy nhiên giá thép tăng liên tục là bất thường; việc công bố chỉ số giá cả tháng 4 chỉ tăng 0,14% là tín hiệu tốt nếu duy trì đà tăng này đến cuối năm sẽ không xảy ra lạm phát, nhưng giá lương thực, thực phẩm giảm cũng làm cho nông dân thiếu phấn khởi. Đề nghị Bộ Công thương kiểm tra chặt chẽ và có biện pháp xử lí kịp thời.

Trả lời: (Tại Công văn số 8158/BCT-KH ngày 13/8/2010)

Giá thép biến động tăng giảm bất thường trong những tháng qua với mức tăng mạnh trong tháng 3 và đầu tháng 4, giảm dần và ổn định trong tháng 5 và 6, nguyên nhân chủ yếu vẫn do ảnh hưởng của việc tăng giá phôi thép trên thị trường thế giới (sản xuất phôi thép của Việt Nam mới chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu).

Giá lương thực giảm do nguồn cung trong nước đang dồi dào, lượng tồn kho vụ Đông Xuân còn nhiều do xuất khẩu chưa tăng mạnh, nên giá lúa gạo trong nước giảm nhẹ. Giá thu mua gạo giảm thấp người nông dân không đủ lãi 30%, để giá lúa không xuống quá thấp, đảm bảo quyền lợi cho người nông dân sản xuất lúa, Chính phủ đã kịp thời chỉ đạo Hiệp hội Lương thực mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo. Giá gạo hiện cũng đang nhích dần lên.

Giá cả hàng hoá trên thị trường nội địa hiện nay tăng giảm theo quy luật cung cầu và còn phụ thuộc vào giá cả nguyên, nhiên liệu nhập khẩu. Bộ Công Thương với vai trò thường trực Tổ điều hành thị trường trong nước, Tổ trưởng Tổ điều hành xuất khẩu gạo, đã luôn theo dõi sát diễn biến tình hình cung ứng hàng hóa sản xuất trong nước, nguồn dự trữ, tồn kho và điều hành tốt việc nhập khẩu theo đúng tiến độ, để bảo đảm cân đối cung cầu những mặt hàng trọng yếu, như xăng dầu, xi măng, sắt thép, gạo, phân bón... ; phối hợp với các Bộ, ngành liên quan kiểm tra việc hình thành giá một số mặt hàng nhạy cảm, trong đó có mặt hàng thép và kiến nghị Chính phủ biện pháp xử lý kịp thời khi có những biến động bất thường.



48. Cử tri tỉnh Đắk Lắk kiến nghị: Đề nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ xây dựng thương hiệu, công tác xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường cho cà phê Việt Nam. Liên kết các nhà xuất khẩu cà phê trong nước nhằm chia sẻ thông tin về thị trường, đưa ra các chính sách phù hợp, điều tiết lượng xuất khẩu, góp phần hạn chế việc ép giá bởi các nhà nhập khẩu và các quỹ đầu cơ.

Trả lời: (Tại Công văn số 8159/BCT-KH ngày 13/8/2010)

Để giải quyết những yêu cầu cấp bách về xúc tiến thương mại trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển thị trường nội địa, Bộ Công Thương đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 80/2009/QĐ-TTg ngày 21 tháng 5 năm 2009 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 2006-2010 ban hành kèm theo Quyết định số 279/2005/QĐ-TTg ngày 3 tháng 11 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ. Quyết định 80 nêu trên bắt đầu có hiệu lực từ ngày 15 tháng 7 năm 2009.

Theo Quyết định này, các cơ quan xúc tiến thương mại địa phương đủ năng lực được tham gia Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, với tư cách là đơn vị chủ trì chương trình. Ngoài ra, các tổ chức xúc tiến thương mại (bao gồm cả các địa phương) sẽ được hỗ trợ, khi tham gia chương trình xúc tiến thương mại quốc gia của các đơn vị chủ trì khác. Điều này tạo điều kiện cho các tổ chức xúc tiến thương mại của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đại diện cho doanh nghiệp địa phương tham gia vào hoạt động xúc tiến thương mại quốc gia, để xúc tiến các sản phẩm đặc trưng, có lợi thế cạnh tranh của địa phương mình. Đồng thời, tạo cơ hội cho các địa phương, ngành hàng tập hợp doanh nghiệp, quảng bá cho các thế mạnh chung của địa phương, ngành hàng trong các hoạt động xúc tiến thương mại lớn, mang tính liên ngành, liên địa phương.

Thực hiện Quyết định 80 nêu trên, trong năm 2009 và 2010, Bộ Công Thương đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhiều đề án của các địa phương nhằm quảng bá những sản phẩm thế mạnh của địa phương mình, trong đó có đề án của tỉnh Đắk Lắk (tổ chức Hội chợ - triển lãm chuyên ngành cà phê 2010 từ 10 - 14/12/2010 với kinh phí hỗ trợ trên 1,7 tỷ đồng).

Hiện nay, Bộ Công Thương đang triển khai xây dựng Quy chế mới cho Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, dựa trên cơ sở định hướng phát triển xuất khẩu, phát triển thị trường trong nước và phát triển thương mại miền núi, biên giới và hải đảo, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nhằm tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển xuất khẩu, thị trường trong nước, thương mại miền núi, biên giới và hải đảo; tạo điều kiện xây dựng cơ sở vật chất phục vụ hoạt động xúc tiến thương mại; góp phần nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp; gắn kết các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư và du lịch. Quy chế đang trong giai đoạn soạn thảo, lấy ý kiến các Bộ ngành trước khi trình Thủ tướng Chính phủ. Ngay khi Quy chế được phê duyệt, Bộ Công Thương sẽ có thông báo công khai để các địa phương có thể chủ động tham gia.

Về hỗ trợ xây dựng thương hiệu

Việc hỗ trợ các hiệp hội, làng nghề xây dựng phát triển các thương hiệu tập thể, thương hiệu chứng nhận hay thương hiệu doanh nghiệp thành viên là một nội dung hỗ trợ trong Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia. Cục Xúc tiến thương mại của Bộ Công Thương là đầu mối phối hợp với các đơn vị chủ trì để phát triển một số chương trình trọng điểm. Theo kế hoạch, trong năm 2010 sẽ lựa chọn 6 ngành hàng chính là: Thuỷ sản, Dệt may, Da giầy, Đồ gỗ, Thủ công mỹ nghệ và Cà phê để hỗ trợ phát triển thương hiệu. Sản phẩm là 06 Báo cáo Tư vấn và Xây dựng mô hình phát triển thương hiệu cho 6 ngành hàng.



Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn số: 1588

tải về 3.73 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   22   23   24   25   26   27   28   29   ...   50




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương