KỲ HỌp thứ TÁM, quốc hội khóa XIII (20/10/2014 – 28/11/2014)



tải về 6.12 Mb.
trang82/86
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích6.12 Mb.
#1452
1   ...   78   79   80   81   82   83   84   85   86

Trả lời: Tại công văn số 5876/NHNN-VP ngày 14/8/2014

Về chủ trương mở rộng mạng lưới của các NHTM trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, trên cơ sở kết quả buổi làm việc giữa NHNN Việt Nam và tỉnh Đắk Nông ngày 05/4/2014 để triển khai các giải pháp về hoạt động ngân hàng năm 2014 nhằm thúc đẩy, hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn, Thống đốc NHNN đã có ý kiến: “Đối với các địa bàn đặc thù như tỉnh Đắk Nông, NHNN cho phép các NHTM mặc dù chưa đáp ứng được đầy đủ tiêu chí để mở chi nhánh, phòng giao dịch nhưng có đầy đủ hồ sơ được mở rộng mạng lưới”. Đồng thời, NHNN đã chỉ đạo NHNN chi nhánh Đăk Nông khẩn trương tổng hợp nhu cầu và phối hợp với cấp uỷ chính quyền địa phương nghiên cứu địa điểm mở chi nhánh, phòng giao dịch hợp lý để báo cáo NHNN xem xét cấp phép mở rộng mạng lưới các chi nhánh, phòng giao dịch của NHTM trên địa bàn”.

Theo đó, ngày 18/04/2014, NHNo&PTNT Việt Nam đã gửi hồ sơ đề nghị được thành lập một số phòng giao dịch trên địa bàn tỉnh Đăk Nông, trong đó có Phòng giao dịch Quảng Sơn, huyện Đắk G’long. Hiện nay, theo yêu cầu của NHNN, NHNo&PTNT Việt Nam đang hoàn thiện, bổ sung hồ sơ theo quy định. NHNN sẽ xem xét, cấp phép thành lập Phòng giao dịch Quảng Sơn, huyện Đăk G’long sau khi NHNo&PTNT Việt Nam hoàn thiện và trình NHNN đầy đủ hồ sơ.

12. Cử tri tỉnh Đắk Lắk kiến nghị: Cử tri cho rằng thủ tục vay tiền tại các ngân hàng vẫn còn nhiều, lệ phí vay vốn quá cao, đề nghị có chính sách hỗ trợ và chỉ đạo quyết liệt hơn nữa để các doanh nghiệp, người dân có điều kiện tiếp cận vay vốn ngân hàng phát triển sản xuất, vì trên thực tế việc vay vốn đầu tư phát triển sản xuất, chăn nuôi rất khó khăn; đồng thời có chính sách ưu đãi lãi suất cho vay đối với sản xuất nông nghiệp để giảm bớt khó khăn cho nông dân.

Trả lời: Tại công văn số 5874/NHNN-VP ngày 14/8/2014

- Về đơn giản thủ tục vay vốn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận vốn ngân hàng:

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và NHNN về cải cách hành chính, thời gian qua, các tổ chức tín dụng đã có nhiều đổi mới trong việc xây dựng quy trình cho vay theo hướng đơn giản hóa thủ tục vay vốn, thông thoáng hơn, giảm bớt phiền hà cho khách hàng nhưng vẫn đảm bảo an toàn vốn vay và phù hợp với quy định của pháp luật. Trong đó, để phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh tại địa bàn nông thôn, các tổ chức tín dụng đã rà soát và hoàn thiện hồ sơ tín dụng theo hướng tiết giảm tối đa thủ tục, giấy tờ như: áp dụng các sản phẩm tín dụng với hình thức đơn giản, phù hợp cho người sản xuất, như cho vay liên vụ, cho vay qua sổ tín dụng, xuống tận địa bàn để cho vay, thu nợ (gốc, lãi) thay vì người vay phải đến trụ sở ngân hàng, áp dụng cho vay qua sổ đối với những khoản vay dưới 50 triệu đồng,... Những giải pháp này đã giúp người nông dân dễ dàng tiếp cận hơn với vốn vay ngân hàng.

Đồng thời, để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận nguồn vốn tín dụng, NHNN đã ban hành Quyết định 780/QĐ-NHNN ngày 23/04/2012, Chỉ thị 04/CT-NHNN ngày 17/9/2013, văn bản số 7558/NHNN-TD ngày 14/10/2013 và Thông tư 09/2014/TT-NHNN ngày 18/3/2014 chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) xem xét thực hiện một số giải pháp tháo gỡ khó khăn liên quan đến điều kiện và thủ tục tín dụng như: (i) Cơ cấu lại thời hạn trả nợ; xem xét cơ cấu lại các khoản vay trên cơ sở đánh giá các biện pháp khắc phục khó khăn trong hoạt động sản xuất-kinh doanh nhằm đảm bảo thời hạn cho vay phù hợp với chu kỳ sản xuất-kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng vay, nhưng không nhằm mục đích che giấu nợ xấu của TCTD, che giấu thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính không lành mạnh của khách hàng vay; (ii) Các TCTD xem xét và quyết định xử lý đối với các khoản nợ đến hạn mà khách hàng gặp khó khăn trong việc trả nợ như miễn, giảm lãi vay, không thu lãi quá hạn, ưu tiên thu nợ gốc trước, thu nợ lãi sau...; (iii) Cho phép các TCTD không xem xét các điều kiện về các khoản nợ cũ khi khách hàng vay vốn mới có dự án, phương án kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo thu hồi được nợ; (iv) Yêu cầu các TCTD phối hợp chặt chẽ với nhau và làm việc với khách hàng để tháo gỡ khó khăn cho khách hàng trong trường hợp nhiều TCTD cùng cho vay đối với 1 khách hàng;

Bên cạnh đó, NHNN đã chỉ đạo: (i) Triển khai chương trình kết nối doanh nghiệp – ngân hàng trên địa bàn các tỉnh, thành phố nhằm kịp thời nắm bắt và tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp được tiếp cận nguồn vốn vay với lãi suất hợp lý để duy trì, phục hồi, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm bớt những khó khăn về vốn và chi phí lãi vay cho doanh nghiệp, từ đó giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; (ii) Kịp thời ban hành các quy định tín dụng đối với một số đối tượng đặc thù với thủ tục cho vay đơn giản hơn nhằm nâng cao hiệu quả và giảm chi phí hoạt động cho vay, hỗ trợ khách hàng vay vốn đầu tư, sản xuất - kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm (mô hình cho vay liên kết ứng dụng công nghệ cao; chính sách cho vay đối với chăn nuôi, thủy sản, cà phê; chính sách cho vay nhà ở đối với người có thu nhập thấp; cơ chế bảo lãnh tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa...).

Việc triển khai đồng bộ các giải pháp nêu trên đã góp phần khơi thông nguồn vốn tín dụng, hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp, người dân trong việc tiếp cận vốn. Trên thực tế, các doanh nghiệp, khách hàng có nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh và có năng lực tài chính tốt, dự án, phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, khả thi đã tiếp cận vốn dễ dàng hơn với lãi suất hợp lý.

Trong thời gian tới, NHNN sẽ bám sát chỉ đạo của Chính phủ, căn cứ tình hình thực tế tiếp tục rà soát cơ chế, thủ tục cho vay để xem xét chỉnh sửa hoặc bổ sung chính sách tín dụng đối với các lĩnh vực đặc thù cho phù hợp hơn với tình hình mới. Tuy nhiên, một số quy trình, thủ tục được điều chỉnh bởi những quy định khác của pháp luật và thuộc thẩm quyền giải quyết của các Bộ, ngành khác như: cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, công chứng hợp đồng thế chấp, đăng ký giao dịch bảo đảm...Vì vậy, quá trình đơn giản hóa thủ tục cho vay còn phụ thuộc vào sự phối hợp đồng bộ của các Bộ, ngành, địa phương trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan để đơn giản hóa quy trình, thủ tục cho vay, rút ngắn thời gian xem xét, quyết định cho vay.



- Về chính sách ưu đãi lãi suất cho vay với nông nghiệp, nông thôn:

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, ngành Ngân hàng đã triển khai nhiều giải pháp, trong đó có giải pháp về lãi suất nhằm tạo điều kiện tốt nhất và hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Cụ thể:

+ Từ năm 2012, NHNN đã quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với một số lĩnh vực ưu tiên, trong đó lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay này phù hợp với xu hướng giảm của mặt bằng lãi suất thị trường để hỗ trợ cho các hộ nông dân duy trì và phát triển sản xuất, kinh doanh. Theo đó, mặt bằng lãi suất cho vay đã giảm mạnh20.

+ Bên cạnh đó, NHNN đã chỉ đạo 05 ngân hàng thương mại Nhà nước thực hiện cho vay mới đối với các hộ gia đình, trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp phát triển sản xuất chăn nuôi, giết mổ để cấp đông, chế biến thịt lợn, thịt gia cầm, nuôi và chế biến cá tra, tôm xuất khẩu với lãi suất tối đa 8%/năm; chỉ đạo, hướng dẫn Ngân hàng Chính sách xã hội hỗ trợ cho vay hộ nghèo trên địa bàn huyện nghèo mua giống gia súc, gia cầm, thủy sản hoặc phát triển ngành nghề với lãi suất ưu đãi bằng 50% lãi suất cho vay hộ nghèo. Trong những tháng đầu năm 2014, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã quy định mức lãi suất cho vay tối đa là 7%/năm đối với các thương nhân vay thu mua tạm trữ thóc gạo vụ Đông Xuân 2014.

+ Hỗ trợ 100% lãi suất vốn vay tại ngân hàng thương mại trong hai năm đầu, 50% trong năm thứ ba đối với các khoản vay dài hạn, trung hạn, ngắn hạn bằng đồng Việt Nam để mua máy, thiết bị nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp; được hỗ trợ phần chênh lệch giữa lãi suất thương mại đối với các khoản vay dài hạn, trung hạn bằng đồng Việt Nam và lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước để thực hiện các dự án đầu tư dây chuyền máy, thiết bị giảm tổn thất trong nông nghiệp theo quy định tại Quyết định 68/2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp.

+ Để tạo cơ sở thúc đẩy ngành thủy sản phát triển nhanh, hiệu quả phù hợp với thực tiễn, trên cơ sở đề nghị của các Bộ, ngành liên quan trong đó có NHNN, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 7/7/2014 về một số chính sách phát triển thủy sản. Theo đó, chủ tàu được vay vốn tối đa đến 95% tổng giá trị tàu đóng mới với lãi suất 7%/năm (chủ tàu chỉ phải trả lãi suất 1%-3%/năm, ngân sách nhà nước cấp bù mức chênh lệch lãi suất), thời hạn cho vay 11 năm, trong đó năm đầu tiên chủ tàu được miễn lãi và chưa phải trả nợ gốc. Ngoài việc cho vay để đóng mới tàu, Nghị định 67 cũng quy định về chính sách cho vay tối đa đến 70% nhu cầu vốn lưu động để chi trả chi phí đi biển với lãi suất 7%/năm. Hiện nay, NHNN đang khẩn trương xây dựng văn bản hướng dẫn để chính sách tín dụng được triển khai ngay khi nghị định có hiệu lực ngày 25/8/2014.

+ Ngoài ra, NHNN đã chủ động phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu xây dựng để triển khai Chương trình thí điểm các mô hình liên kết nhằm phát triển nền nông nghiệp theo hướng hiện đại, có năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng cao. Ngày 28/5/2014, NHNN đã ban hành Quyết định số 1050/QĐ-NHNN ngày 28/5/2014 quy định về việc cho vay thí điểm đối với các mô hình liên kết trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, các mô hình ứng dụng khoa học và công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp. Theo đó, các dự án thuộc chương trình cho vay thí điểm được vay vốn với lãi suất cho vay tối đa ngắn hạn 7%/năm, trung hạn 10%/năm, dài hạn 10,5%/năm, thời gian thực hiện thí điểm cho vay là 2 năm kể từ ngày 28/5/2014. Hiện nay, NHNN đang tích cực phối hợp với các Bộ, Ngành có liên quan, cấp ủy Đảng, chính quyền các tỉnh, thành phố tạo điều kiện cho doanh nghiệp và các hộ dân tham gia mô hình liên kết, ứng dụng công nghệ cao.

13. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Cử tri phản ánh, các chương trình, dự án đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn của Nhà nước là rất hiệu quả, đúng hướng, hợp lòng dân, nhưng các thủ tục giải ngân còn chậm, nhiều thủ tục, người dân khó tiếp cận được các nguồn vốn vay, thủ tục quyết toán ngân sách khó khăn, phức tạp như việc hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng ở khu vực nông thôn. Theo Quyết định số 497/2009/QĐ-TTg ngày 17/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ, khi quyết toán phải có hóa đơn đỏ, tạo nên thủ tục hành chính rườm rà. Đề nghị nên bỏ thủ tục phải có hóa đơn giá trị gia tăng và thay vào đó là giấy xác nhận hoặc phiếu thu để người dân thuận lợi trong việc tiếp cận nguồn vốn đầu tư của Nhà nước.

Trả lời: Tại công văn số 6108/NHNN-VP ngày 21/8/2014

- Về đơn giản hóa thủ tục vay vốn phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận vốn dễ dàng:

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và NHNN về cải cách hành chính, thời gian qua, các tổ chức tín dụng (TCTD) đã có nhiều đổi mới trong việc xây dựng quy trình cho vay theo hướng đơn giản hóa thủ tục vay vốn, giảm bớt phiền hà cho khách hàng nhưng vẫn đảm bảo an toàn vốn vay và phù hợp với quy định của pháp luật. Đặc biệt, để phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh tại địa bàn nông thôn, các TCTD đã rà soát và hoàn thiện hồ sơ tín dụng theo hướng tiết giảm tối đa thủ tục, giấy tờ như: áp dụng các sản phẩm tín dụng với hình thức đơn giản, phù hợp cho người sản xuất, như cho vay liên vụ, cho vay qua sổ tín dụng, xuống tận địa bàn để cho vay, thu nợ (gốc, lãi) thay vì người vay phải đến trụ sở ngân hàng, áp dụng cho vay qua sổ đối với những khoản vay dưới 50 triệu đồng,...Ngoài ra, các hộ nông dân, hộ sản xuất kinh doanh, hợp tác xã, chủ trang trại được vay không có tài sản bảo đảm tối đa đến 50 triệu đồng, 200 triệu đồng và 500 triệu đồng.

Đồng thời, để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận nguồn vốn tín dụng, NHNN đã ban hành Quyết định 780/QĐ-NHNN ngày 23/04/2012, Chỉ thị 04/CT-NHNN ngày 17/9/2013, văn bản số 7558/NHNN-TD ngày 14/10/2013 và Thông tư 09/2014/TT-NHNN ngày 18/3/2014 chỉ đạo các TCTD xem xét thực hiện một số giải pháp tháo gỡ khó khăn liên quan đến điều kiện và thủ tục tín dụng như: (i) Cơ cấu lại thời hạn trả nợ; xem xét cơ cấu lại các khoản vay trên cơ sở đánh giá các biện pháp khắc phục khó khăn trong hoạt động sản xuất-kinh doanh nhằm đảm bảo thời hạn cho vay phù hợp với chu kỳ sản xuất-kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng vay, nhưng không nhằm mục đích che giấu nợ xấu của TCTD, che giấu thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính không lành mạnh của khách hàng vay; (ii) Các TCTD xem xét và quyết định xử lý đối với các khoản nợ đến hạn mà khách hàng gặp khó khăn trong việc trả nợ như miễn, giảm lãi vay, không thu lãi quá hạn, ưu tiên thu nợ gốc trước, thu nợ lãi sau...; (iii) Cho phép các TCTD không xem xét các điều kiện về các khoản nợ cũ khi khách hàng vay vốn mới có dự án, phương án kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo thu hồi được nợ; (iv) Yêu cầu các TCTD phối hợp chặt chẽ với nhau và làm việc với khách hàng để tháo gỡ khó khăn cho khách hàng trong trường hợp nhiều TCTD cùng cho vay đối với 1 khách hàng;

Ngoài ra, NHNN đã chỉ đạo các TCTD ưu tiên tập trung nguồn vốn cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn; thực hiện hỗ trợ các ngân hàng thương mại có tỷ trọng cho vay nông nghiệp nông thôn lớn (từ 40% trở lên) thông qua hình thức tái cấp vốn và giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc; quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với các lĩnh vực ưu tiên là 8%/năm, thấp hơn 2-3% so với lãi suất cho vay các lĩnh vực khác; chỉ đạo các TCTD triển khai các chương trình tín dụng đối với một số đối tượng đặc thù với thủ tục cho vay đơn giản hơn nhằm nâng cao hiệu quả và giảm chi phí hoạt động cho vay, hỗ trợ khách hàng vay vốn đầu tư, sản xuất - kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm (mô hình cho vay liên kết, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp và chuỗi liên kết sản xuất – chế biến – xuất khẩu các hàng hóa nông sản nhằm phát triển nền nông nghiệp theo hướng hiện đại, có năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng cao; chính sách cho vay đối với chăn nuôi, lúa gạo, thủy sản, cà phê; chính sách hỗ trợ giảm tổn thất trong nông nghiệp...).

Việc triển khai đồng bộ các giải pháp nêu trên đã góp phần khơi thông nguồn vốn tín dụng và giúp người dân ở khu vực nông nghiệp, nông thôn dễ dàng tiếp cận hơn với vốn vay ngân hàng.

Trong thời gian tới, NHNN sẽ bám sát chỉ đạo của Chính phủ, căn cứ tình hình thực tế tiếp tục rà soát cơ chế, thủ tục cho vay để xem xét chỉnh sửa hoặc bổ sung chính sách tín dụng đối với các lĩnh vực đặc thù cho phù hợp hơn với tình hình mới. Tuy nhiên, một số quy trình, thủ tục được điều chỉnh bởi những quy định khác của pháp luật và thuộc thẩm quyền giải quyết của các Bộ, ngành địa phương, như: cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, công chứng hợp đồng thế chấp, đăng ký giao dịch bảo đảm...Vì vậy, cần có sự phối hợp đồng bộ của các Bộ, ngành, địa phương trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan để đơn giản hóa quy trình, thủ tục cho vay, rút ngắn thời gian xem xét, quyết định cho vay.



- Về kiến nghị bỏ quy định phải có hóa đơn đỏ khi vay vốn theo Quyết định 497/2009/QĐ-TTg:

Chương trình hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy móc thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn theo Quyết định 497/QĐ-TTg ngày 17/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ được áp dụng cho các khoản vay theo hợp đồng tín dụng được ký kết, giải ngân trong khoảng thời gian từ ngày 01/5/2009 đến ngày 31/12/2009 với thời hạn vay được hỗ trợ lãi suất tối đa là 24 tháng. Đến nay, chương trình đã kết thúc. Trong quá trình thực hiện chương trình, các quy định tại Quyết định 497/QĐ-TTg cũng như tại các văn bản liên quan đều không yêu cầu khách hàng vay vốn phải cung cấp hóa đơn giá trị gia tăng.



14. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Đề nghị có chủ trương tăng cường nguồn vốn vay cho nông dân, đặc biệt là nguồn vốn vay giải quyết việc làm, vốn vay cho hộ cận nghèo và các hộ có nhu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh hàng hóa.

Trả lời: Tại công văn số 6108/NHNN-VP ngày 21/8/2014

Thực hiện Nghị quyết 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011-2020, ngày 23/2/2013, Ngân hàng Nhà nước đã trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định 15/2013/QĐ-TTg về tín dụng đối với hộ cận nghèo, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh của hộ cận nghèo, giúp cho hộ mới thoát nghèo phát triển kinh tế, giảm nguy cơ tái nghèo, thoát nghèo bền vững. Theo đó, mức vay tối đa đối với hộ cận nghèo không vượt quá mức cho vay hộ nghèo theo Nghị định 78/2002/NĐ-CP, lãi suất cho vay được điều chỉnh giảm từ 130% xuống bằng 120% lãi suất cho vay hộ nghèo (được điều chỉnh theo Quyết định 1826/QĐ-TTg ngày 9/10/2013).

Bên cạnh đó, chương trình cho vay giải quyết việc làm do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội là cơ quan chủ trì, quản lý hiện đang được thực hiện tại Ngân hàng Chính sách xã hội theo Quyết định 71/2005/QĐ-TTg ngày 5/4/2005 và Quyết định 15/2008/QĐ-TTg ngày 23/1/2008 của Thủ tướng Chính phủ; theo đó, đối với cơ sở sản xuất kinh doanh mức cho vay tối đa không quá 500 triệu đồng/dự án và không quá 20 triệu đồng/1 lao động được thu hút mới; đối với hộ gia đình mức cho vay tối đa không quá 20 triệu đồng/hộ.

Theo báo cáo của Ngân hàng Chính sách xã hội, tính đến 30/6/2014, dư nợ chương trình cho vay hộ nghèo đạt 40.422 tỷ đồng, chiếm 31,91% tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách tại NHCSXH; chương trình cho vay hộ cận nghèo dư nợ đạt 13.636 tỷ đồng chiếm 10,77% tổng dư nợ; chương trình cho vay giải quyết việc làm dư nợ đạt 5.860 tỷ đồng, chiếm 4,63% tổng dư nợ.

Trong điều kiện Ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp và nguồn cho vay các chương trình chủ yếu từ Ngân sách Nhà nước, Chính phủ và các Bộ, ngành đã tạo mọi điều kiện để đáp ứng đủ nguồn vốn cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo, các đối tượng khó khăn được vay vốn tín dụng ưu đãi phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống. Trong năm 2014, trên cơ sở kiến nghị của cử tri, Đại biểu Quốc hội, để đáp ứng tốt hơn nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh, nhằm góp phần thực hiện chính sách an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, ngày 26/4/2014, Thống đốc NHNN kiêm Chủ tịch Hội đồng Quản trị NHCSXH đã ký ban hành Quyết định 34/QĐ-HĐQT điều chỉnh mức cho vay tối đa đối với hộ nghèo từ 30 triệu đồng/hộ lên 50 triệu đồng/hộ, theo đó mức cho vay tối đa đối với hộ cận nghèo cũng được điều chỉnh tương ứng lên 50 triệu đồng/hộ.

Ngoài ra, để tiếp tục thực hiện cơ chế ưu đãi về lãi suất đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 14/NQ-CP ngày 5/3/2014, NHNN đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định 872/QĐ-TTg ngày 6/6/2014 về điều chỉnh giảm lãi suất cho vay đối với một số chương trình tín dụng chính sách, bao gồm: chương trình cho vay hộ nghèo; cho vay học sinh, sinh viên; cho vay giải quyết việc làm; cho vay xuất khẩu lao động.

Trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục phối hợp tích cực với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, tham mưu giúp Chính phủ có chính sách tạo điều kiện tốt hơn để các hộ nghèo, hộ cận nghèo, các đối tượng khó khăn phát triển sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống.

15. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Dư nợ cho vay vốn để đóng mới, cải hoán tàu thuyền công suất lớn để đánh bắt thủy hải sản còn thấp. Trong khi đó, ngư dân cần vốn để mở rộng đánh bắt thủy hải sản ở ngư trường xa, còn các ngân hàng thương mại thì ngại cho vay các trường hợp trên. Cử tri đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quan tâm, chỉ đạo các đơn vị liên quan có phương án cho ngư dân vay vốn.

Trả lời: Tại công văn số 5884/NHNN-VP ngày 14/8/2014

Phát triển kinh tế biển, nâng cao đời sống ngư dân gắn liền với bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, biển đảo quốc gia là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Thời gian qua, nhiều chủ trương, chính sách đã được ban hành nhằm hỗ trợ ngư dân, phát triển ngành thủy sản như: Nghị quyết 09-NQ/TW, ngày 09/02/2007 của Ban chấp hành Trung ương, Nghị quyết 27/NQ-CP của Chính phủ về Chiến lược biển Việt Nam, Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách tín dụng hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp, và Nghị quyết số 14/NQ-CP ngày 5/3/2014 của Chính phủ, trong đó có chính sách tín dụng ưu tiên đối với ngư dân. Đặc biệt, ngày 7/7/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 67/2014/NĐ-CP về một số chính sách phát triển thủy sản, trong đó quy định các chính sách ưu đãi về đầu tư, bảo hiểm, tín dụng; chính sách ưu đãi thuế và một số chính sách khác áp dụng đối với tổ chức, cá nhân hoạt động thủy sản; tổ chức, cá nhân đóng mới tàu, nâng cấp tàu phục vụ hoạt động khai thác thủy sản.

Quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Ngành ngân hàng đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, chỉ đạo, triển khai chính sách tín dụng đặc thù để hỗ trợ ngư dân và phát triển ngành thủy sản như: Thông tư 14/2010/TT-NHNN về hướng dẫn thực hiện Nghị định 41/2010/NĐ-CP, Thông tư 13/2014/TT-NHNN về hướng dẫn cho vay theo Quyết định 68/QĐ-TTg và Quyết định 1050/QĐ-NHNN về việc cho vay thí điểm đối với các mô hình liên kết trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, các mô hình ứng dụng khoa học và công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp triển khai Nghị quyết 14/NQ-CP.

Như vậy, về chính sách tín dụng, hiện nay, ngư dân trong lĩnh vực nuôi trồng, khai thác, chế biến thủy sản được hưởng những điều kiện ưu đãi. Cụ thể như sau:

- Được vay vốn không cần tài sản đảm bảo tại các TCTD để đóng tàu, mua ngư lưới cụ, trang thiết bị phục vụ đánh bắt hải sản và bảo quản, chế biến ngư nghiệp tối đa 50 triệu đồng đối với các cá nhân, hộ sản xuất phục vụ nông nghiệp nông thôn; 200 triệu đồng đối với hộ sản xuất, kinh doanh; 500 triệu đồng đối với hợp tác xã21;

- Được vay vốn để mua sắm các loại máy, thiết bị, ngư lưới cụ phục vụ đánh bắt xa bờ và được Ngân sách nhà nước hỗ trợ 100% lãi suất trong 2 năm đầu, 50% lãi suất từ năm thứ 3 trở đi. Đối với các dự án đầu tư chế biến thủy sản (thiết bị làm lạnh, cấp đông, tái đông; sản xuất nước đá, đá vảy; thiết bị hấp sấy...) được vay vốn theo lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước22;

- Được xem xét cơ cấu lại nợ khi gặp khó khăn về tài chính do nguyên nhân khách quan;

- Đối với các dự án nuôi trồng thủy sản, sản xuất theo chuỗi liên kết từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, được vay với lãi suất vay thấp hơn lãi suất thông thường từ 1-1,5%/năm và được xem xét cho vay không cần tài sản đảm bảo khi các TCTD kiểm soát được dòng tiền;

- Chủ tàu được vay vốn tối đa từ 70% đến 95% tổng giá trị tàu đóng mới, nâng cấp tùy thuộc vào loại tàu, công suất máy chính, chất liệu đóng mới, nâng cấp; lãi suất 7%/năm (chủ tàu chỉ phải trả lãi suất 1%-3%/năm, ngân sách nhà nước cấp bù mức chênh lệch lãi suất); thời hạn cho vay 11 năm, trong đó năm đầu tiên chủ tàu được miễn lãi và chưa phải trả nợ gốc; đồng thời, được vay tối đa đến 70% nhu cầu vốn lưu động để chi trả chi phí đi biển hoặc giá trị cung cấp dịch vụ hậu cần khai thác hải sản với lãi suất 7%/năm23.

Hiện nay, NHNN đang khẩn trương hoàn thiện ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định 67 để triển khai chính sách tín dụng phát triển thủy sản ngay sau khi Nghị định này có hiệu lực từ ngày 25/8/2014. NHNN sẽ chỉ đạo các ngân hàng thương mại nhà nước bố trí nguồn vốn, chủ động tiếp cận khách hàng để đáp ứng kịp thời các nhu cầu vay vốn đóng mới, nâng cấp tàu, vay vốn lưu động của bà con ngư dân.

Bên cạnh đó, để phối hợp, triển khai có hiệu quả chính sách tín dụng đối với ngành thủy sản, các Bộ/ Ngành liên quan cần sớm có hướng dẫn cụ thể về yêu cầu kỹ thuật đối với con tàu đánh bắt xa bờ, tàu dịch vụ hậu cần nghề cá; phê duyệt mẫu thiết kế tàu; chính sách bảo hiểm, cấp bù lãi suất,…; UBND các tỉnh, thành phố cần chỉ đạo việc xem xét, phê duyệt danh sách các chủ tàu đủ điều kiện được vay vốn ngân hàng để đóng mới, nâng cấp tàu phục vụ khai thác hải sản xa bờ, làm cơ sở để ngành Ngân hàng triển khai xét duyệt cho vay.

16. Cử tri tỉnh Quảng Bình kiến nghị: Hiện nay, một số ngân hàng thương mại (như Ngân hàng BIDV) có chủ trương thẩm định tài sản thế chấp khi vay hoặc đánh giá lại tài sản thế chấp định kỳ thì bắt buộc phải mời đơn vị thẩm định giá độc lập, việc làm này nhằm đánh giá chính xác giá trị tài sản để cho vay. Tuy nhiên, chí phí mời đơn vị thẩm định giá, người đi vay phải trả với tỉ lệ % theo tổng giá trị tài sản thế chấp, vấn đề này đã gây nhiều khó khăn cho đối tượng đi vay, nhất là các doanh nghiệp phải trả thêm chi phí khá lớn khi vay vốn trong lúc các doanh nghiệp đang cố gắng vực dậy trong bối cảnh kinh tế suy thoái hiện nay. Đề nghị NHNN kiểm tra, xem xét nhằm tạo điều kiện thuận lợi giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn theo chủ trương của Chính phủ.


Каталог: userfiles -> files -> TAI%20LIEU%20KY%20HOP%20THU%208
TAI%20LIEU%20KY%20HOP%20THU%208 -> UỶ ban quốc phòng và an ninh cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
files -> UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ SÁU quốc hội khoá XII
files -> Phụ lục số 1 danh mục các văn bản hưỚng dẫn thi hành pháp luật về giao thôNG
files -> PHỤ LỤC 1 KẾt quả XỬ LÝ ĐƠN, thư CỦa uỷ ban tư pháp từ sau kỳ HỌp thứ SÁU ĐẾn truớc kỳ HỌp thứ BẢy quốc hội khóa XII
files -> Phần I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
TAI%20LIEU%20KY%20HOP%20THU%208 -> KỲ HỌp thứ TÁM, quốc hội khóa XIII (20/10/2014 – 28/11/2014)

tải về 6.12 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   78   79   80   81   82   83   84   85   86




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương