KỲ HỌp thứ TÁM, quốc hội khóa XIII (20/10/2014 – 28/11/2014)



tải về 6.12 Mb.
trang42/86
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích6.12 Mb.
#1452
1   ...   38   39   40   41   42   43   44   45   ...   86

Trả lời: Tại công văn số 3042/BCA-V11 ngày 11/9/2014

Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị (khóa IX) về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ Công an luôn quan tâm chỉ đạo, ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho hệ thống các cơ sở tạm giữ, tạm giam. Đối với Công an tỉnh Nghệ An, hiện có 18 nhà tạm giữ và 01 trại tạm giam được đưa vào dự án tổng thể đầu tư xây dựng công trình: Xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp các cơ sở nhà tạm giữ, trại tạm giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng thuộc Bộ Công an quản lý (giai đoạn II) do Bộ trưởng Bộ Công an phê duyệt tại Quyết định số 2277/QĐ-BCA(H11), ngày 25/12/2008. Đến nay đã có 10/18 nhà tạm giữ thuộc Công an tỉnh được phê duyệt đầu tư đảm bảo quy mô giam giữ; trại tạm giam Công an tỉnh cũng đã được phê duyệt đầu tư khu cán bộ, đáp ứng nhu cầu sử dụng theo tiêu chuẩn. Thời gian tới, Bộ Công an sẽ tiếp tục chỉ đạo các đơn vị chức năng rà soát, thẩm định, đầu tư kinh phí nâng cấp trại tạm giam, nhà tạm giữ các địa phương, trong đó có tỉnh Nghệ An.



34. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Đề nghị Chính phủ nghiên cứu trình Quốc hội sớm ban hành Luật về tạm giữ, tạm giam thay thế Quy chế về tạm giữ, tạm giam hiện hành; đồng thời trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2004, trong đó có một số quy định về bắt, tạm giữ, tạm giam.

Trả lời: Tại công văn số 3042/BCA-V11 ngày 11/9/2014

Để nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả công tác tạm giữ, tạm giam, Bộ Công an đã báo cáo Chính phủ đề nghị Quốc hội đưa dự án Luật Tạm giữ, tạm giam vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII (2011 – 2016). Tại Kỳ họp thứ 7, ngày 30/5/2014, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 70/2014/QH13, trong đó dự án Luật Tạm giữ, tạm giam đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015. Quốc hội sẽ cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 9 và thông qua tại Kỳ họp thứ 10, năm 2015.

Triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội và phân công của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công an đã ban hành Kế hoạch xây dựng dự án Luật Tạm giữ, tạm giam; thành lập Ban soạn thảo, Tổ Biên tập xây dựng Luật tạm giữ, tạm giam; tổng kết, rà soát hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về công tác tạm giữ, tạm giam; đồng thời, chỉ đạo tiến hành khảo sát thực tiễn công tác tạm giữ, tạm giam ở các địa phương. Đến nay, Ban Soạn thảo đã xây dựng xong dự thảo gửi các đơn vị chức năng của Bộ Công an tham gia ý kiến. Bộ Công an sẽ tổ chức xin ý kiến và tiếp thu ý kiến tham gia của các bộ, ngành có liên quan để sớm hoàn thiện, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội theo đúng tiến độ, quy định của Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.

Đối với đề nghị trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, trong đó có một số quy định về bắt, tạm giữ, tạm giam: Hiện nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đang chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng dự án Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi, bổ sung, trong đó có sửa đổi các quy định về bắt, tạm giữ, tạm giam.



35. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Các tệ nạn xã hội có chiều hướng phát triển như: ma túy, cướp giật, xã hội đâm chém người không thương tiếc, tai nạn giao thông… Công tác quản lý nhà nước và cơ quan chức năng vào cuộc chưa quyết liệt, có biểu hiện không trong sáng, bảo kê, bao che của cơ quan chức năng. Cử tri đề nghị Nhà nước có biện pháp giải quyết mong muốn của nhân dân một cách triệt để.

Trả lời: Tại công văn số 3042/BCA-V11 ngày 11/9/2014

a) Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, lực lượng Công an nhân dân đã tập trung tham mưu với cấp ủy, chính quyền các cấp chỉ đạo các cơ quan, ban, ngành, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong công tác phòng, chống tội phạm, liên tục triển khai các chương trình, kế hoạch, biện pháp tăng cường phòng ngừa, đấu tranh, kiềm chế gia tăng tội phạm, vi phạm pháp luật, góp phần giữ vững an ninh, trật tự của đất nước. Năm 2013, lực lượng Công an đã điều tra, khám phá 44.033 vụ phạm tội về trật tự xã hội, bắt xử lý 88.259 đối tượng, đạt tỷ lệ 74,49% cao hơn 1,09% so với năm 2012; bắt 7.980 vụ cờ bạc, 721 vụ mại dâm, 18.384 vụ phạm tội về ma túy; triệt phá 2.640 băng, nhóm tội phạm. Trong 6 tháng đầu năm 2014, đã điều tra, khám phá 22.002 vụ phạm tội về trật tự xã hội, bắt xử lý 45.261 đối tượng, đạt tỷ lệ 75,58%, cao hơn 0,1% so với cùng kỳ năm 2013; bắt 4.569 vụ cờ bạc, 351 vụ mại dâm, 9.347 vụ phạm tội về ma túy; triệt phá 1.469 băng, nhóm tội phạm, trong đó có nhiều băng, nhóm tội phạm nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm.

Tuy nhiên, tình hình tệ nạn xã hội vẫn diễn biến phức tạp, là nguồn phát sinh, phát triển tội phạm; tệ nạn cờ bạc dưới hình thức chơi “lô đề” diễn ra phổ biến ở các địa phương; tệ nạn mại dâm có xu hướng mở rộng về phạm vi, quy mô hoạt động và diện đối tượng tham gia; tình trạng thanh, thiếu niên sử dụng ma túy tổng hợp trong các nhà hàng, vũ trường, bar, karaoke diễn ra phức tạp.

Nguyên nhân của tình trạng trên, chủ yếu là do: (1) Tình hình kinh tế còn khó khăn, số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động tiếp tục gia tăng kéo theo nhiều người lao động mất việc làm tạo áp lực lớn đến các vấn đề xã hội. (2) Đạo đức trong gia đình, nhà trường, xã hội, lối sống thực dụng, hưởng thụ, chạy theo lợi ích vật chất, nhất là trong thanh, thiếu niên rất đáng lo ngại. (3) Tác động tiêu cực của ấn phẩm đồi trụy, trò chơi trực tuyến trên mạng Internet (game online) đối với thanh, thiếu niên đang trong độ tuổi phát triển về nhận thức, tâm, sinh lý chưa có giải pháp ngăn chặn hiệu quả. (4) Số người nghiện ma túy chưa giảm, số người nghiện ma túy tổng hợp có chiều hướng tăng và diễn biến phức tạp, nhất là ở địa bàn các thành phố lớn, tiềm ẩn nhiều yếu tố làm nảy sinh tội phạm (cả nước hiện có trên 180.000 người nghiện ma túy). (5) Công tác phòng ngừa xã hội, phòng ngừa nghiệp vụ còn nhiều hạn chế, công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn nhiều sơ hở. (6) Phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc chưa được duy trì thường xuyên. (7) Ý thức cảnh giác, tự bảo vệ tài sản của nhiều người còn hạn chế, chủ quan, sơ hở bị tội phạm lợi dụng, ý thức chấp hành pháp luật về trật tự an toàn giao thông còn chưa cao.

Trước tình hình trên, Bộ Công an đã và đang tập trung chỉ đạo Công an các đơn vị, địa phương thực hiện các công tác trọng tâm sau:

- Tham mưu với cấp ủy, chính quyền các cấp chỉ đạo tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW, ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị (khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”; Chỉ thị số 21-CT/TW, ngày 26/3/2008 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma tuý trong tình hình mới” gắn với thực hiện Nghị quyết số 37/2012/QH13, ngày 23/11/2012, Nghị quyết số 63/2013/QH13, ngày 27/11/2013 của Quốc hội về tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm và các chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, phòng, chống ma túy, phòng, chống mua bán người giai đoạn 2012-2015; tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TW, ngày 01/12/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới”, Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày 04/9/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông”; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bài trừ tệ nạn xã hội, bảo đảm an ninh, trật tự.

- Phối hợp chặt chẽ với các ngành, đoàn thể đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân; triển khai thực hiện các chương trình, nghị quyết, thông tư liên tịch nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm và tệ nạn xã hội, giáo dục các đối tượng có nguy cơ cao về tội phạm, vi phạm pháp luật hoặc bị tội phạm xâm hại; đẩy mạnh xây dựng các phong trào quần chúng tham gia phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội, bảo vệ an ninh Tổ quốc như mô hình “Tuần tra nhân dân”, “Tổ an ninh xã hội”, “Khu dân cư an toàn về an ninh, trật tự”.

- Tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát, bảo đảm an ninh, trật tự. Tiếp tục duy trì và xây dựng các đội săn bắt cướp, nhân rộng mô hình tổ công tác phối hợp 03 lực lượng (Cảnh sát giao thông, Cảnh sát cơ động, Cảnh sát hình sự) ở Công an các đơn vị, địa phương trong phòng, chống tội phạm, nhất là phòng, chống cướp, cướp giật tài sản, tàng trữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, các vụ gây rối trật tự công cộng.

- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, trong đó tập trung thực hiện có hiệu quả Pháp lệnh Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ; Nghị định số 72/2009/NĐ-CP, ngày 03/9/2009 của Chính phủ quy định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; Chỉ thị số 08/CT-BCA, ngày 19/9/2013 của Bộ Công an về tăng cường công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ cầm đồ, dịch vụ đòi nợ.

- Tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định về công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; tiếp tục thiết lập, tổ chức hoạt động của các “đường dây nóng” (điện thoại, email), hòm thư tố giác tội phạm để tiếp nhận, xử lý kịp thời mọi thông tin, tài liệu liên quan đến tội phạm.

- Triển khai liên tục các cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, tập trung trấn áp các băng, nhóm tội phạm nguy hiểm, hoạt động đâm thuê, chém mướn, tội phạm sử dụng vũ khí gây án, giết người, cướp, cướp giật tài sản; các băng, nhóm đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, các đường dây môi giới mại dâm, tàng trữ, vận chuyển, mua bán và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy... Phối hợp chặt chẽ và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, bảo đảm khách quan, nghiêm minh, không để tội phạm hoạt động lộng hành. Điều tra khám phá nhanh các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận xã hội; phối hợp với Viện kiểm sát, Tòa án đưa ra xét xử kịp thời các vụ án điểm nhằm răn đe tội phạm.

- Tập trung rà soát, nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp luật, tạo hành lang pháp lý đầy đủ phục vụ công tác phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội.

b) Kiến nghị của cử tri về hiện tượng bảo kê, bao che cho tội phạm của các cơ quan chức năng, Bộ Công an xin trả lời, như sau:

Xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh là mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng ủy Công an Trung ương và lãnh đạo Bộ Công an luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Để phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hiện tượng tiêu cực của cán bộ, chiến sĩ công an trong thi hành nhiệm vụ, ngày 28/9/2011, Bộ Công an đã ban hành Chỉ thị số 12/2011/CT-BCA về tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, ngăn chặn, chấn chỉnh, xử lý vi phạm và các hiện tượng tiêu cực trong thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ công an; Đồng thời, thường xuyên tổ chức các đoàn kiểm tra, thanh tra nhằm phát hiện, chấn chỉnh, khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật; kiên quyết xử lý những cán bộ chiến sĩ có biểu hiện tiêu cực, bao che cho tội phạm.

Bộ Công an đề nghị cử tri, các cơ quan thông tin đại chúng tiếp tục quan tâm, giúp đỡ, giám sát hoạt động của lực lượng Công an, kịp thời hỗ trợ, bảo vệ, động viên cán bộ, chiến sĩ công an trong khi làm nhiệm vụ; đồng thời phát hiện các biểu hiện tiêu cực để phản ánh kịp thời cho cấp có thẩm quyền xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật.

36. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Hiện tượng tách hộ cho người già, người khuyết tật… thành một hộ riêng để thực hiện chính sách ưu đãi xảy ra ở nhiều địa phương, ảnh hưởng đến việc thống kê, điều tra và giải quyết các chính sách cho hộ nghèo và các chính sách ưu đãi khác. Vì vậy, đề nghị các bộ liên quan cần quy định cụ thể về điều kiện tách hộ, xác lập hộ khẩu để đảm bảo yêu cầu quản lý và thực hiện chính sách đồng bộ.

Trả lời: Tại công văn số 3042/BCA-V11 ngày 11/9/2014

Nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý cư trú, ngày 11/7/2013, Quốc hội đã ban hành Văn bản hợp nhất Luật Cư trú số 03/VBHN/VPQH, hợp nhất Luật Cư trú năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cư trú. Ngày 18/4/2014, Chính phủ ban hành Nghị định số 31/2014/NĐ-CP, quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luât Cư trú số 03/VBHN/VPQH. Tại khoản 1, Điều 27 Luật Cư trú số 03/VBHN/VPQH, quy định về tách sổ hộ khẩu: “Trường hợp có cùng một chỗ ở hợp pháp được tách sổ hộ khẩu: Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có nhu cầu tách sổ hộ khẩu; người đã nhập vào sổ hộ khẩu quy định tại khoản 3, Điều 25 và khoản 2, Điều 26 của luật này mà được chủ hộ đồng ý cho tách sổ hộ khẩu bằng văn bản”. Do vậy, những trường hợp có đủ điều kiện tách sổ hộ khẩu theo quy định nêu trên và có nhu cầu tách hộ sẽ được cơ quan đăng ký thường trú giải quyết tách sổ hộ khẩu theo đúng quy định của Luật Cư trú và theo đúng thẩm quyền.

Việc giải quyết các chính sách ưu đãi ở địa phương là do nhiều Bộ, ngành có liên quan cùng xem xét, quyết định và căn cứ vào nhiều tiêu chí, không thể căn cứ vào các quy định về cư trú để hạn chế các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân.

37. Cử tri tỉnh Quảng Bình kiến nghị: Ông Võ Văn Đi, cử tri thôn Hoành Vinh, xã An Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình phản ánh, ông là Công an viên có thời gian công tác đã hơn 20 năm nhưng chưa có chế độ gì. Đề nghị Bộ Công an nghiên cứu, đề xuất cho những đối tượng này được hưởng chế độ.

Trả lời: Tại công văn số 3031/BCA-V11 ngày 11/9/2014

Trong những năm qua, Chính phủ, Bộ Công an và Ủy ban nhân dân các cấp rất quan tâm đến việc kiện toàn tổ chức bộ máy và hoạt động của lực lượng Công an xã, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự ở khu vực nông thôn. Việc thực hiện chế độ, chính sách đối với Công an xã nói chung, Công an viên nói riêng thuộc trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp, được quy định tại Pháp lệnh Công an xã và Nghị định số 73/2009/NĐ-CP, ngày 07/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Công an xã, cụ thể là:

- Tại Khoản 3, Điều 23, Chương IV Pháp lệnh Công an xã quy định trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp, như sau: “Thực hiện chức năng quản lý, chỉ đạo tổ chức, hoạt động của Công an xã theo thẩm quyền và theo hướng dẫn của Công an cấp trên; bố trí trụ sở hoặc nơi làm việc cho Công an xã; cấp kinh phí bảo đảm cho hoạt động của Công an xã và thực hiện các chế độ, chính sách đối với Trưởng Công an xã, Phó trưởng Công an xã và Công an viên.”

- Tại Khoản 4, Điều 7 Nghị định số 73/2009/NĐ-CP quy định chế độ, chính sách đối với Công an viên, như sau: “Phó trưởng Công an xã và Công an viên có thời gian công tác liên tục từ đủ 15 năm trở lên nếu nghỉ việc vì lý do chính đáng thì được hưởng trợ cấp một lần, cứ mỗi năm công tác được tính bằng 1,5 tháng mức bình quân phụ cấp hiện hưởng; khi được cử đi tập trung đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng chính trị, pháp luật, nghiệp vụ được hưởng chế độ bồi dưỡng bằng mức tiền ăn cơ bản của chiến sỹ phục vụ có thời hạn cho Công an nhân dân; khi đi công tác được hưởng chế độ như đối với công chức cấp xã.”

- Tại Mục b, Khoản 3, Điều 8 Nghị định số 73/2009/NĐ-CP quy định nhiệm vụ chi của địa phương, như sau: “Chi trả tiền lương, phụ cấp và đóng, nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Thực hiện các chế độ, chính sách: bồi dưỡng, trợ cấp, ốm đau, thai sản, tai nạn, bị thương, bị hy sinh hoặc từ trần. Chi cho công tác đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng chính trị, pháp luật, nghiệp vụ do địa phương tổ chức và bảo đảm chế độ bồi dưỡng cho Phó trưởng Công an xã và Công an viên khi được cử đi học tập tại các đợt đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng đó. Mua sắm trang phục, phù hiệu và in, cấp Giấy chứng nhận Công an xã theo mẫu quy định của Bộ Công an. Chi sơ kết, tổng kết và khen thưởng đơn vị, tổ chức, cá nhân có thành tích trong công tác xây dựng lực lượng Công an xã do địa phương tổ chức. Các khoản chi khác cho Công an xã theo quy định của pháp luật thuộc trách nhiệm của địa phương.

Đối với một số nhiệm vụ chi nếu đã thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế thì do cơ quan bảo hiểm xã hội chi trả, ngân sách nhà nước không thực hiện nhiệm vụ chi này.”

Hiện nay, do điều kiện thực tế của từng địa phương nên việc thực hiện chế độ, chính sách và phụ cấp đối với Công an xã nói chung, Công an viên nói riêng có sự khác nhau. Căn cứ vào các quy định nêu trên, việc thực hiện chế độ, chính sách đối với Công an viên thuộc trách nhiệm của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; đề nghị cử tri kiến nghị với Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình về vấn đề này.

38. Cử tri tỉnh Quảng Bình kiến nghị: Hiện nay, thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực quản lý hộ tịch, hộ khẩu (như đăng ký hộ khẩu, đăng ký thường trú,... ) Công an xã không có thẩm quyền nên người dân phải đến huyện mới làm được. Đề nghị Bộ Công an nghiên cứu, quy định theo hướng giao thẩm quyền cho Công an xã về một số lĩnh vực để dân đỡ phải đi lại.

Trả lời: Tại công văn số 3031/BCA-V11 ngày 11/9/2014

Thực hiện chương trình cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong công tác quản lý nhà nước, Bộ Công an đã triển khai thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự trong lĩnh vực quản lý cư trú, quản lý hộ tịch, hộ khẩu, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đăng ký hộ khẩu, đăng ký thường trú. Sau khi Luật Cư trú năm 2006 được ban hành, Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 52/2010/TT-BCA, ngày 30/11/2010 hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Cư trú và quy định cụ thể, chi tiết thủ tục đăng ký thường trú, quản lý cư trú đối với công dân. Ngày 11/7/2013, Quốc hội đã ban hành Văn bản hợp nhất Luật Cư trú số 03/VBHN/VPQH, hợp nhất Luật Cư trú năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cư trú. Ngày18/4/2014, Chính phủ ban hành Nghị định số 31/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luât Cư trú số 03/VBHN/VPQH. Tại Điều 21, Luật Cư trú số 03/VBHN/VPQH, quy định nơi tiếp nhận hồ sơ đăng ký thường trú của công dân: “Người đăng ký thường trú nộp hồ sơ đăng ký thường trú tại cơ quan Công an sau đây: Đối với thành phố trực thuộc trung ương thì nộp hồ sơ tại Công an huyện, quận, thị xã; Đối với tỉnh thì nộp hồ sơ tại Công an xã, thị trấn thuộc huyện, Công an thị xã, thành phố thuộc tỉnh”. Điều 9, Thông tư 52/2010/TT-BCA, quy định về thẩm quyền của các cơ quan đăng ký thường trú: Công an cấp huyện, quận, thị xã thuộc thành phố trực thuộc Trung ương; Công an thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh có thẩm quyền đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương và thành phố trực thuộc tỉnh; Công an xã, thị trấn có thẩm quyền đăng ký thường trú tại các xã, thị trấn của huyện thuộc tỉnh.

Như vậy, Bộ Công an đã giao thẩm quyền tiếp nhận và đăng ký thường trú cho Công an cấp xã, cấp huyện bảo đảm đúng quy định và có sự thống nhất quản lý theo từng khu vực. Theo đó, Công an cấp xã, thị trấn, cấp huyện thuộc tỉnh có thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ và đăng ký thường trú, cấp sổ hộ khẩu trên địa bàn phụ trách. Thời gian tới, Bộ Công an sẽ nghiên cứu, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong đăng ký, quản lý hộ khẩu, đăng ký thường trú theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, đồng thời bảo đảm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh, trật tự.

39. Cử tri tỉnh Quảng Bình kiến nghị: Hiện nay, một số tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, lô đề,... vẫn tiếp tục diễn biến làm ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân. Đề nghị Bộ Công an tiếp tục chỉ đạo hệ thống ngành dọc vào cuộc, tổ chức truy quét và xử phạt nghiêm minh.

Trả lời: Tại công văn số 3031/BCA-V11 ngày 11/9/2014

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, lực lượng Công an nhân dân đã tập trung tham mưu với cấp ủy, chính quyền các cấp chỉ đạo các cơ quan, ban, ngành, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội, liên tục triển khai các chương trình, kế hoạch, biện pháp tăng cường phòng ngừa, đấu tranh, kiềm chế sự gia tăng các loại tội phạm, tệ nạn xã hội, góp phần giữ vững an ninh, trật tự của đất nước. Năm 2013, lực lượng Công an đã điều tra, khám phá 44.033 vụ phạm tội về trật tự xã hội, bắt xử lý 88.259 đối tượng, đạt tỷ lệ 74,49% cao hơn 1,09% so với năm 2012; triệt phá 2.640 băng, nhóm tội phạm; phát hiện, bắt giữ 18.384 vụ, 28.534 đối tượng phạm tội về ma túy. Trong 6 tháng đầu năm 2014, đã điều tra, khám phá 22.002 vụ phạm tội về trật tự xã hội, bắt xử lý 45.261 đối tượng, đạt tỷ lệ 75,58%, cao hơn 0,1% so với cùng kỳ năm 2013, triệt phá 1.469 băng, nhóm tội phạm; bắt 9.347 vụ, 13.953 đối tượng phạm tội về ma túy; 351 vụ, 763 đối tượng chứa mại dâm, môi giới mại dâm; 4.568 vụ, 20.547 đối tượng đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.... Riêng tháng 7/2014, đã bắt, xử lý hơn 600 vụ, gần 4.000 đối tượng đánh bạc, tổ chức đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá, thu giữ 14,244 tỷ đồng, gần 82.000 USD...

Tuy nhiên, tình hình tệ nạn xã hội vẫn diễn biến phức tạp, nhất là cờ bạc, mại dâm, mê tín, nghiện ma túy... ảnh hưởng xấu đến kinh tế, văn hóa, xã hội, là nguồn phát sinh, phát triển tội phạm. Tệ nạn cờ bạc dưới hình thức chơi “lô đề” diễn ra phổ biến ở các địa phương, trong nhiều tầng lớp nhân dân; một số băng, nhóm tổ chức chơi “lô đề” qua điện thoại di động, Internet, máy Fax. Tệ nạn mại dâm có xu hướng mở rộng về phạm vi, quy mô hoạt động và diện đối tượng tham gia, tình trạng mại dâm nam, mại dâm đồng tính diễn biến phức tạp. Số người nghiện ma túy chưa giảm và có xu hướng tăng; tình trạng thanh, thiếu niên sử dụng ma túy tổng hợp trong các nhà hàng, vũ trường, bar, karaoke diễn ra phức tạp.

Nguyên nhân của tình trạng trên chủ yếu là do: (1) Công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tệ nạn xã hội có nơi, có lúc chưa được chú trọng, nội dung còn nghèo nàn, nặng về hình thức. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về công tác phòng, chống tệ nạn xã hội, thậm chí xem nhẹ và coi đây chỉ là nhiệm vụ của ngành Công an. (2) Công tác quản lý xã hội ở một số nơi còn có mặt hạn chế, bất cập; việc quản lý các cơ sở dịch vụ có điều kiện, như nhà nghỉ, karaokê, massage, cà phê đèn mờ, cầm đồ... còn lỏng lẻo; việc xử lý các tổ chức, cá nhân kinh doanh các ngành, nghề dịch vụ để xảy ra tệ nạn xã hội có nơi, có lúc chưa nghiêm. (3) Hệ thống các văn bản pháp luật còn có những bất cập, nhất là các quy định liên quan đến xử lý tình trạng vay nợ, “tín dụng đen”, chế tài đối với các hành vi vi phạm chưa đủ sức răn đe; việc xử lý đối tượng vi phạm gặp nhiều khó khăn. (4) Công tác chữa bệnh, giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm cho các đối tượng tệ nạn xã hội ở một số địa phương chưa thực sự có hiệu quả; việc quản lý số đối tượng này còn lỏng lẻo, tỷ lệ tái phạm còn cao; nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh chưa thực sự chia sẻ trách nhiệm với xã hội trong việc chăm lo, giải quyết việc làm cho người nghiện ma túy và gái mại dâm tái hòa nhập cộng đồng. (5) Sự vào cuộc của chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng có lúc, có nơi còn chậm, hiệu quả chưa cao. (6) Nguyên nhân của tệ nạn mê tín còn do trình độ dân trí thấp, thiếu thông tin, bị các đối tượng lợi dụng để trục lợi.

Trước tình hình trên, Bộ Công an đã và đang tập trung chỉ đạo Công an các đơn vị, địa phương thực hiện các công tác trọng tâm sau:

- Tham mưu với cấp ủy, chính quyền các cấp chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể tiếp tục thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chủ trương của Đảng, Nhà nước về phòng ngừa, chống tội phạm và tệ nạn xã hội, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân tích cực tham gia công tác đấu tranh phòng, chống, bài trừ tệ nạn xã hội.

- Tham mưu chính quyền các cấp trong xây dựng và triển khai các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường các chương trình kiểm tra, giám sát phù hợp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, đặc biệt là ở địa bàn cơ sở. Từ đó góp phần làm giảm nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển tội phạm và tệ nạn xã hội.

- Tăng cường phối hợp tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống, ý thức chấp hành pháp luật, nâng cao nhận thức, tạo dư luận quần chúng rộng rãi, lên án mạnh mẽ các tệ nạn xã hội. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội đối với việc quản lý, giáo dục thanh, thiếu niên, học sinh, nhất là số đối tượng tham gia hoặc có nguy cơ cao về hoạt động tệ nạn xã hội; làm tốt công tác tái hòa nhập cộng đồng cho các đối tượng tệ nạn xã hội, giúp họ đoạn tuyệt với quá khứ, xóa bỏ mặc cảm lầm lỗi. Tranh thủ, phát huy vai trò của người có uy tín trong làng, bản, khu phố góp phần phòng, chống tệ nạn xã hội.

- Chủ động phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn thể triển khai thực hiện các chương trình, nghị quyết, thông tư liên tịch về phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma túy, mại dâm, cờ bạc, mê tín; phát động phong trào toàn dân tham gia phòng, chống tệ nạn xã hội, xây dựng khu dân cư văn hóa, nhân rộng các mô hình không tệ nạn xã hội; xã hội hóa nguồn lực, tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế trong phòng, chống tệ nạn xã hội và lồng ghép nội dung phòng ngừa tệ nạn xã hội với các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương.

- Tăng cường nắm tình hình, rà soát, phát hiện kịp thời các đối tượng, tụ điểm tệ nạn xã hội để có biện pháp đấu tranh. Tăng cường quản lý giáo dục các loại đối tượng tệ nạn xã hội trên địa bàn, làm tốt công tác lập hồ sơ đưa các đối tượng đi cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, trung tâm cai nghiện... Quản lý chặt chẽ các cơ sở kinh doanh dịch vụ có điều kiện về an ninh, trật tự, xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân kinh doanh các ngành, nghề dịch vụ để xảy ra tệ nạn xã hội.

- Tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định về công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; tiếp tục thiết lập, tổ chức hoạt động của các đường dây “nóng” (điện thoại, email), hòm thư tố giác tội phạm để tiếp nhận, xử lý kịp thời mọi thông tin, tài liệu liên quan đến tội phạm.

- Triển khai các cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, tệ nạn xã hội, triệt phá các băng, nhóm đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc; các đường dây môi giới mại dâm; tổ chức hoạt động mê tín; tàng trữ, vận chuyển, mua bán và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Phối hợp với Viện kiểm sát, Tòa án đưa xét xử kịp thời các vụ án điểm, các đối tượng cầm đầu nhằm răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

- Tập trung rà soát, nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp luật, tạo hành lang pháp lý đầy đủ phục vụ công tác phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội.

40. Cử tri các tỉnh Quảng Ngãi, Hà Nam kiến nghị: Tai nạn giao thông đã cướp đi nhiều sinh mạng, gây tang thương cho hàng vạn gia đình hàng năm. Trong nhiều nguyên nhân có nguyên nhân liên quan đến công tác quản lý trật tự, an toàn giao thông của lực lượng Cảnh sát giao thông. Cử tri đề nghị tập trung chỉ đạo, tăng cường công tác tuần tra, xử lý vi phạm, đảm bảo lực lượng chức năng thực hiện nghiêm trách nhiệm, quyền hạn được giao, góp phần hạn chế tai nạn giao thông, ổn định an ninh, trật tự xã hội.


Каталог: userfiles -> files -> TAI%20LIEU%20KY%20HOP%20THU%208
TAI%20LIEU%20KY%20HOP%20THU%208 -> UỶ ban quốc phòng và an ninh cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
files -> UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ SÁU quốc hội khoá XII
files -> Phụ lục số 1 danh mục các văn bản hưỚng dẫn thi hành pháp luật về giao thôNG
files -> PHỤ LỤC 1 KẾt quả XỬ LÝ ĐƠN, thư CỦa uỷ ban tư pháp từ sau kỳ HỌp thứ SÁU ĐẾn truớc kỳ HỌp thứ BẢy quốc hội khóa XII
files -> Phần I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
TAI%20LIEU%20KY%20HOP%20THU%208 -> KỲ HỌp thứ TÁM, quốc hội khóa XIII (20/10/2014 – 28/11/2014)

tải về 6.12 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   38   39   40   41   42   43   44   45   ...   86




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương