KỲ HỌp thứ TÁM, quốc hội khóa XIII (20/10/2014 – 28/11/2014)



tải về 6.12 Mb.
trang20/86
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích6.12 Mb.
#1452
1   ...   16   17   18   19   20   21   22   23   ...   86

Trả lời: Tại công văn số 3001/BNV- TL ngày 06/8/2014

Thực hiện Kết luận số 23-KL/TW ngày 29 tháng 5 năm 2012 của Hội nghị Trung ương 5 khóa XI về “một số vấn đề về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020” và căn cứ Nghị quyết số 32/2012/QH13 ngày 10 tháng 11 năm 2012 của Quốc hội khóa XIII về dự toán ngân sách nhà nước năm 2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/2013/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2013 quy định từ ngày 01 tháng 7 năm 2013 điều chỉnh mức lương tối thiểu từ 1,05 triệu đồng/tháng lên 1,15 triệu đồng/tháng áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang và được gọi là mức lương cơ sở. Việc quy định mức lương cơ sở 1,15 triệu đồng/tháng từ ngày 01 tháng 7 năm 2013 nêu trên là do khả năng của ngân sách nhà nước.



90. Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị: Đề nghị kéo dài thời gian được hưởng phụ cấp thu hút theo Nghị định số 116/2010/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (Hiện nay đang thực hiện theo quy định là 5 năm).

Trả lời: Tại công văn số 2968/BNV- TL ngày 05/8/2014

Theo quy định tại Khoản 5 Điều 6 Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang thỡ chế độ phụ cấp thu hút áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức đến làm việc ở những vùng kinh tế mới, cơ sở kinh tế và đảo xa đất liền có điều kiện sinh hoạt đặc biệt khó khăn, gồm 4 mức: 20%; 30%; 50% và 70% mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lónh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có), thời gian hưởng phụ cấp thu hút từ 3 đến 5 năm. Để đồng bộ với quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP nêu trên thì tại Điều 4 Nghị định số 116/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2010 của Chính phủ về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đó quy định thời gian hưởng phụ cấp thu hút không quá 5 năm với mức 70% đối với cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xó hội đặc biệt khó khăn. Việc quy định thời gian hưởng nêu trên phù hợp với ý nghĩa thiết kế của chế độ phụ cấp thu hút.

Ngoài chế độ phụ cấp thu hút thì cán bộ, công chức, viên chức được hưởng phụ cấp công tác lâu năm ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn gồm 3 mức: Từ đủ 5 năm đến dưới 10 năm được hưởng 0,5 mức lương cơ sở; từ đủ 10 năm đến dưới 15 năm được hưởng 0,7 mức lương cơ sở; từ đủ 15 năm trở lên được hưởng 1,0 mức lương cơ sở.

91. Cử tri tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu kiến nghị: Về trợ cấp thu hút cán bộ, công chức đến làm việc tại huyện Côn Đảo đã bị cắt từ tháng 10/2013 gây khó khăn cho đời sống của cán bộ, công chức đang làm việc tại huyện, cử tri đề nghị các Bộ có liên quan và Uỷ ban nhân dân tỉnh tiếp tục cho cán bộ, công chức đang công tác tại huyện Côn Đảo được hưởng chế độ này.

Trả lời: Tại công văn số 3000/BNV- TL ngày 06/8/2014

Theo đề nghị của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và sau khi trao đổi với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ đã có công văn số 1169/BNV-TL ngày 11 tháng 4 năm 2014 thống nhất áp dụng phụ cấp thu hút mức 50% mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có) đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong các cơ quan, đơn vị sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội làm việc tại huyện Côn Đảo tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, kể từ ngày 01 tháng 10 năm 2013 (kèm theo).



92. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Đề nghị Bộ Nội vụ kịp thời cập nhật văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực của ngành, văn bản chỉ đạo điều hành kịp thời trên cổng thông tin điện tử của Bộ, tạo điều kiện để địa phương, chủ động triển khai thực hiện.

Trả lời: Tại công văn số 2932/BNV- TTTT ngày 01/8/2014

Hiện nay, Trang thông tin điện tử của Bộ Nội vụ, có địa chỉ www.moha.gov.vn , do Trung tâm Thông tin – Bộ Nội vụ quản lý, vận hành, đã cập nhật đầy đủ, kịp thời 5079 văn bản quy phạm pháp luật, 5125 văn bản hành chính (trong đó có các văn bản chỉ đạo điều hành của Lãnh đạo Bộ) thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ, nhằm cung cấp thông tin trên mạng internet tới cá nhân, tổ chức và người dân theo Điều 28 của Luật Công nghệ thông tin.

Thực hiện Quyết định số 273/QĐ-BNV ngày 29/3/2012 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ phê duyệt Dự án “Xây dựng cổng thông tin điện tử Bộ Nội vụ trên cơ sở nâng cấp Trang thông tin điện tử Bộ Nội vụ”, Bộ Nội vụ đnga phối hợp với các đơn vị liên quan nghiên cứu, xây dựng Cổng thông tin điện tử của Bộ Nội vụ đáp ứng đầy đủ các quy định của Luật Công nghệ thông tin và Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước. Trong năm 2015, Cổng thông tin điện tử của Bộ Nội vụ sẽ được đưa vào hoạt động chính thức, cung cấp đầy đủ, kọp thời các nội dung thông tin theo quy định.

93. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Đối với cán bộ không chuyên trách công tác tại xã đặc biệt khó khăn, đề nghị được hưởng chế độ, chính sách theo Nghị định 116/2010/NĐ-CP của Chính phủ.

Trả lời: Tại công văn số 2926/BNV- CQĐP ngày 01/8/2014

Chế độ, chính sách quy định tại Nghị định số 116/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ chỉ áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, không áp dụng đối với những người hoạtd dộng không chuyên trách ở cấp xã. Đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được hưởng chế độ, chính sách quy định tại Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã và Nghị định số 29/2013 ngày 08/4/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 92/2009/NĐ-CP nêu trên



94. Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: Đề nghị ban hành các văn bản dưới Luật như: Hướng dẫn về cấp chứng chỉ hành nghề lưu trữ; hướng dẫn về nguồn nộp lưu tài liệu lưu trữ vào kho lưu trữ lịch sử cấp tỉnh... để triển khai, thi hành Luật Lưu trữ năm 2011 hiệu quả hơn.

Trả lời: Tại công văn số 3308/BNV- VTLTNN ngày 15/8/2014

Sau khi Luật Lưu trữ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2012, Bộ Nội vụ đã rà soát, ban hành kế hoạch xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện Luật Lưu trữ, trong đó có 02 Thông tư hướng dẫn các vấn đề mà cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị gửi tới Kỳ họp thứ Bảy, Quốc hội khóa XIII. Tiếp thu ý kiến của cử tri, Bộ Nội vụ sẽ ban hành 02 Thông tư này trong năm 2014.



BỘ CÔNG THƯƠNG
1. Cử tri các tỉnh An Giang, Hưng Yên, Nghệ An, Long An, Tây Ninh, Tuyên Quang, Yên Bái, TP Hồ Chí Minh kiến nghị: Đề nghị kiểm soát giá thành sản xuất điện, làm cơ sở điều chỉnh giá bán điện kịp thời theo cơ chế thị trường, để các công ty điện lực có lợi nhuận hợp lý, từ đó tái đầu tư phát triển và khuyến khích các thành phần kinh tế khác đầu tư vào ngành điện; đồng thời có chính sách bình ổn giá điện để đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng.

Trả lời: Tại công văn số 8044/BCT-KH ngày 20/8/2014

Ngày 10 tháng 7 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 854/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển 5 năm 2011 - 2015 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, trong đó tại điểm a khoản 4 mục III Điều 1 quy định:

“Phê duyệt định hướng kế hoạch tài chính, kinh doanh của Tập đoàn Điện lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015 như sau:

- Thực hiện phân bổ các khoản lỗ do sản xuất kinh doanh điện từ trước năm 2011 cho các năm 2012 và 2013; phân bổ các khoản chênh lệch tỷ giá trong giai đoạn từ năm 2012 đến 2015 theo hướng dẫn của Bộ Tài chính;

- Từng bước nâng dần giá bán điện, đến năm 2013 giá bán điện bình quân theo giá thị trường;

- Trong các năm 2012 - 2013, Tập đoàn Điện lực Việt Nam đảm bảo kinh doanh có lãi;

- Đến năm 2015, các chỉ tiêu tài chính đáp ứng yêu cầu của các tổ chức tài chính cho vay vốn: hệ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu nhỏ hơn 3 lần; tỷ lệ tự đầu tư lớn hơn 30%; hệ số thanh toán nợ: lớn hơn 1,5 lần.”

Căn cứ chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản nêu trên, Bộ Công Thương đã phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng lộ trình điều chỉnh giá điện giai đoạn 2013 - 2015 để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt. Lộ trình điều chỉnh giá điện giai đoạn 2013 - 2015 được xây dựng căn cứ theo kết quả kiểm tra giá thành sản xuất, kinh doanh điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam các năm 2010, 2011 và 2012 của Tổ công tác liên ngành2; kế hoạch vận hành và kế hoạch sản xuất, kinh doanh điện các năm 2013 - 2015 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Ngày 11 tháng 11 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân các năm 2013-2015 tại Quyết định số 2165/QĐ-TTg, theo đó, khung giá của giá bán lẻ điện bình quân các năm 2013 - 2015 (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng) gồm: mức giá bán lẻ điện bình quân tối thiểu là 1.437 đồng/kWh và tối đa là 1.835 đồng/kWh. Giá bán lẻ điện bình quân các năm 2013 - 2015 được điều chỉnh không thấp hơn mức giá tối thiểu và không cao hơn mức giá tối đa của khung giá theo cơ chế điều chỉnh giá bán điện tại Quyết định số 69/2013/QĐ-TTg ngày 19 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định về cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân. Trong quý III năm 2014, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan tổ chức kiểm tra, tính toán giá thành sản xuất, kinh doanh điện năm 2013 để làm cơ sở điều chỉnh giá bán điện trong thời gian tới.

Cũng theo quy định tại Quyết định số 69/2013/QĐ-TTg (có hiệu lực từ ngày 10 tháng 01 năm 2014), giá điện sẽ được tiếp tục được thực hiện theo cơ chế thị trường, theo đó trong năm tài chính, giá bán điện bình quân được xem xét điều chỉnh khi thông số đầu vào cơ bản (gồm giá nhiên liệu, tỷ giá ngoại tệ và cơ cấu sản lượng điện phát) biến động so với thông số đã được sử dụng để xác định giá bán điện bình quân cơ sở; hàng năm, căn cứ kết quả kiểm tra, tính toán giá thành sản xuất, kinh doanh điện năm tài chính, tình hình sản xuất, kinh doanh điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam và tình hình kinh tế xã hội, Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính xem xét phương án giá bán điện bình quân; thời gian điều chỉnh giá bán điện bình quân giữa hai lần liên tiếp tối thiểu là 6 tháng; giá điện được thực hiện công khai, minh bạch, trường hợp cần thiết Nhà nước sử dụng Quỹ bình ổn giá và các biện pháp khác theo quy định để bình ổn giá điện nhằm giảm thiểu tác động bất lợi đến ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội.

Như vậy, trong các năm vừa qua cũng như trong thời gian tới, việc điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân sẽ tiếp tục được thực hiện theo cơ chế thị trường trong phạm vi khung giá quy định tại Quyết định số 2165/QĐ-TTg và cơ chế điều chỉnh quy định tại Quyết định số 69/2013/QĐ-TTg; giá thành sản xuất kinh doanh điện tiếp tục được kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước làm cơ sở điều chỉnh giá bán điện kịp thời theo cơ chế thị trường, để các đơn vị điện lực có lợi nhuận hợp lý, đảm bảo các chỉ tiêu tài chính đáp ứng yêu cầu của các tổ chức tài chính cho vay vốn, từ đó tái đầu tư phát triển và khuyến khích các thành phần kinh tế khác đầu tư vào ngành điện. Tuy nhiên, để ổn định giá bán điện, đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng, thời điểm điều chỉnh và lượng điều chỉnh sẽ được căn cứ vào tình hình kinh tế, xã hội của từng thời kỳ.



2. Cử tri các tỉnh/thành phố Bà Rịa – Vũng Tàu, Đà Nẵng, Đồng Nai, Quảng Bình, Quảng Ngãi, TP Hồ Chí Minh kiến nghị: Đề nghị quy định chặt chẽ việc xả lũ của các công trình thủy điện, phải vận hành theo đúng quy trình, không làm thiệt hại đến tính mạng và tài sản của người dân như thời gian vừa qua; trong trường hợp phát hiện vi phạm, phải xác định rõ trách nhiệm trong việc quy hoạch thủy điện cũng như công tác quản lý, vận hành các công trình thủy điện, tránh đùn đẩy trách nhiệm khi có sự cố nghiêm trọng xảy ra; kịp thời khắc phục hậu quả cho người bị thiệt hại.

Trả lời: Tại công văn số 8065/BCT-KH ngày 20/8/2014

Hầu hết các hồ chứa thuỷ điện đã vận hành hoặc chuẩn bị đưa vào vận hành đều có Quy trình vận hành hồ chứa được cấp có thẩm quyền (Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương hoặc Ủy ban nhân dân tỉnh) phê duyệt.

Những năm gần đây, công tác quản lý, vận hành các hồ chứa thủy lợi, thủy điện thường xuyên được Chính phủ quan tâm chỉ đạo thực hiện. Tại Quyết định số 1879/QĐ-TTg ngày 13 tháng 10 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng để ban hành Quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông lớn đối với 61 hồ chứa thủy lợi, thủy điện quan trọng. Đến nay, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy trình vận hành liên hồ về mùa lũ trên 5 lưu vực sông thường xuyên xảy ra lũ lụt (gồm 20 hồ chứa đã vận hành: Lưu vực sông Hồng: Quy trình vận hành liên hồ chứa Sơn La, Hòa Bình, Tuyên Quang và Thác Bà; Lưu vực sông Ba: Quy trình vận hành liên hồ chứa Sông Ba Hạ, Sông Hinh, Krông Hnăng, Ayun Hạ và An Khê - Ka Nắk; Lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn: Quy trình vận hành liên hồ chứa A Vương, Đắk Mi 4 và Sông Tranh 2; Lưu vực sông Srêpốk: Quy trình vận hành liên hồ chứa Buôn Tua Srah, Buôn Kuốp, Srêpốk 3 và Srêpốk 4; Lưu vực sông Sê San: Quy trình vận hành liên hồ chứa Plei Krông, Ialy, Sê San 4 và Sê San 4A). Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đang tập trung xây dựng, bổ sung, sửa đổi để trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy trình vận hành liên hồ chứa cả về mùa lũ và mùa kiệt cho các lưu vực sông lớn, dự kiến hoàn thành trong năm nay.

Thực hiện Nghị quyết số 62/2013/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2013 của Quốc hội; Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 18 tháng 02 năm 2014 của Chính phủ về tăng cường công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình thủy điện, các Bộ ngành và địa phương đang triển khai tích cực trên các lĩnh vực rà soát quy hoạch, vận hành hồ chứa, quản lý an toàn đập, trồng rừng thay thế… Bộ Công Thương đã tiến hành kiểm tra, rà soát các quy định và việc thực hiện vận hành xả lũ tại các hồ chứa thủy điện khu vực miền Trung, Tây nguyên. Qua kiểm tra thực tế, làm việc với Ủy ban nhân dân các tỉnh, phân tích các số liệu vận hành của các hồ chứa, trong thời gian qua cho thấy, việc xả lũ, cấp nước cho nông nghiệp và sinh hoạt về mùa khô của các hồ chứa thuỷ điện đã được thực hiện nghiêm túc theo các quy định trong Quy trình vận hành hồ chứa. Về mùa lũ đã có tác dụng giảm đỉnh lũ, về mùa khô đã có vai trò rất tích cực trong việc chống hạn, đặc biệt là khu vực miền Trung.

Trong nội dung của Quy trình vận hành hồ chứa, liên hồ chứa đã quy định đầy đủ, chặt chẽ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, sự phối hợp của Chủ hồ đập với Ban chỉ huy phòng chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn của địa phương và Trung ương trong việc an toàn vận hành xả lũ, kế hoạch phối hợp với địa phương trong việc cấp nước. Ngày 10 tháng 3 năm 2014 Bộ Công Thương đã ban hành Kế hoạch hành động số 2046/QĐ-BCT thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ tại Nghị quyết số 11/NQ-CP về tăng cường công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng và vận hành khai thác công trình thủy điện. Theo kế hoạch hành động này, Bộ Công Thương triển khai các nhiệm vụ chủ yếu sau:

- Thực hiện rà soát: Quy hoạch thuỷ điện; năng lực của các cơ quan tư vấn lập quy hoạch và thiết kế công trình thuỷ điện; đảm bảo chất lượng, an toàn công trình, tuân thủ các yêu cầu về môi trường; tuân thủ các quy định của pháp luật về đầu tư đối với các công trình thuỷ điện đang triển khai xây dựng; thực hiện quy trình vận hành hồ chứa; cấp hoặc thu hồi giấy phép hoạt động điện lực trong lĩnh vực thuỷ điện;

- Chủ trì thẩm tra, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét đầu tư, khởi công các Dự án thuỷ điện; thanh tra, kiểm tra, giám sát việc kiểm định, xử lý vi phạm về phòng chống lụt bão, an toàn đập, hồ chứa thuỷ điện; chỉ đạo xây dựng phương án phòng chống lũ, lụt cho vùng hạ du các hồ chứa thuỷ điện trên các lưu vực sông lớn trong trường hợp xả lũ khẩn cấp hoặc vỡ đập (trước mắt là khu vực miền Trung, Tây Nguyên);

- Tổ chức các Đoàn kiểm tra tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ tại các địa phương;

- Ban hành các Chỉ thị, văn bản chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Công Thương yêu cầu các địa phương và các đơn vị quản lý các nhà máy thủy điện tăng cường công tác quản lý an toàn đập thủy điện trong mùa lũ; công tác phòng, chống thiên tai, lụt, bão và tìm kiếm cứu nạn; công tác cảnh báo trong vận hành hồ chứa và nhà máy thủy điện để đảm bảo an toàn cho vùng hạ du các nhà máy thủy điện; công tác quản lý vận hành hồ chứa thủy điện;

- Rà soát hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với các công trình thủy điện, đề xuất việc xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về thủy điện;

- Xây dựng cơ chế tài chính đối với các nhà máy thủy điện vận hành cấp nước cho hạ du vào mùa khô theo yêu cầu sản xuất, sinh hoạt;

- Xây dựng tài liệu, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về vai trò của các công trình thủy điện, phổ biến quy hoạch thủy điện và công tác phòng chống bão lụt;

- Hàng năm tổng hợp báo cáo Chính phủ kết quả thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP và chuẩn bị báo cáo Quốc hội kết quả thực hiện Nghị quyết 62/2013/QH13 của Quốc hội.

Bộ Công Thương cũng đã ban hành 4 Chỉ thị liên quan thủy điện: Chỉ thị số 07/CT-BCT ngày 28 tháng 3 năm 2014 về tăng cường công tác quản lý an toàn đập thủy điện trong mùa lũ 2014; Chỉ thị số 13/CT-BCT ngày 29 tháng 4 năm 2014 về công tác phòng, chống thiên tai, lụt, bão và tìm kiếm cứu nạn năm 2014; Chỉ thị số 15/CT-BCT ngày 13 tháng 5 năm 2014 về việc thực hiện công tác cảnh báo trong vận hành hồ chứa và nhà máy thủy điện để đảm bảo an toàn cho vùng hạ du các nhà máy thủy điện; Chỉ thị số 23/CT-BCT ngày 11 tháng 7 năm 2014 về tăng cường công tác quản lý vận hành hồ chứa thủy điện.

Ngoài việc ban hành Kế hoạch hành động và các văn bản chỉ đạo, đôn đốc nêu trên, Bộ Công Thương cũng đã chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tích cực thực hiện các nội dung theo yêu cầu của Nghị quyết số 11/NQ-CP, cụ thể như sau:

- Chủ trì (phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng Tập đoàn Điện lực Việt Nam) tổ chức Lễ phát động trồng rừng tại Nhà máy thuỷ điện Sơn La ngày 22 tháng 3 năm 2014;

- Thực hiện thẩm định, phê duyệt phương án Phòng chống lụt bão, đảm bảo an toàn đập năm 2014 đối với các dự án thủy điện trên địa bàn cả nước;

- Tổ chức 4 Đoàn công tác đi làm việc và kiểm tra về quy hoạch, chất lượng xây dựng công trình, quy trình vận hành hồ chứa và các vấn đề liên quan đến lĩnh vực thuỷ điện trên địa bàn các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Quảng Nam, Phú Yên. Đoàn công tác đã đi kiểm tra tại hiện trường một số Dự án thuỷ điện, khu tái định cư của các Dự án thủy điện và đã tổ chức các cuộc họp với Ủy ban nhân dân các tỉnh và các Sở: Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài nguyên và Môi trường, Xây dựng, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, các Chủ đập thủy điện trên địa bàn tỉnh;

- Đã phối hợp với sự chủ trì của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn dự thảo các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư các dự án thủy lợi, thủy điện và Quy định về ổn định đời sống và sản xuất cho người dân sau tái định cư các dự án thủy lợi, thủy điện;

- Phối hợp với sự chủ trì của Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng, góp ý Quy trình vận hành liên hồ chứa mùa lũ các lưu vực Sông Vu Gia - Thu Bồn, sông Ba, sông Hương, sông Kôn - Hà Thanh, sông Hồng, sông Mã, sông Cả, sông Trà Khúc và sông Đồng Nai, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt;

- Chỉ đạo, triển khai thực hiện các Quyết định mới ban hành của Thủ tướng Chính phủ về Quy trình vận hành liên hồ chứa các lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn và Sông Ba.

Ngày 06 tháng 8 năm 2014, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng đã chủ trì cuộc họp với sự tham dự của đại diện các Bộ: Xây dựng, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài nguyên và Môi trường, cùng lãnh đạo 38 tỉnh, thành phố có hồ đập thủy điện trong cả nước để đánh giá tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ, Nghị quyết số 62/2013/QH13 của Quốc hội. Tại cuộc họp, Bộ Công Thương và các Bộ, ngành và địa phương đã đánh giá hiệu quả và những tồn tại trong quá trình thực hiện, đưa ra các phương hướng để triển khai mạnh mẽ hơn nữa Nghị quyết số 11/NQ-CP trong thời gian tới và có Báo cáo tổng thể báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XIII.



3. Cử tri các tỉnh An Giang, Tuyên Quang kiến nghị: Hiện nay, ngành điện tính giá theo giá trị bậc thang đối với người tiêu dùng là không phù hợp, đề nghị xem xét, điều chỉnh.

Trả lời: Tại công văn số 8061/BCT-KH ngày 20/8/2014

Thực hiện khoản 13 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện lực trong đó quy định giá điện theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước và khoản 15 Điều 1 giao Thủ tướng Chính phủ quy định cơ cấu biểu giá bán lẻ điện, ngày 07 tháng 4 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 28/2014/QĐ-TTg về cơ cấu biểu giá bán lẻ điện có hiệu lực từ ngày 01 tháng 6 năm 2014 (thay thế Quyết định số 268/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 23 tháng 02 năm 2011) với các mục tiêu chính sau:

- Giảm dần việc bù chéo giá điện giữa các đối tượng sử dụng điện và không bán điện dưới giá thành;

- Tách bạch hoạt động sản xuất kinh doanh điện của doanh nghiệp điện với thực hiện chính sách an sinh - xã hội của Đảng, Nhà nước đối với hộ nghèo, hộ chính sách xã hội thông qua hỗ trợ tiền điện trực tiếp từ ngân sách Nhà nước;

- Biểu giá bán lẻ điện được xây dựng phù hợp theo hướng không quy định quá nhiều bậc thang, qua đó tạo thuận lợi cho người tiêu dùng và cơ quan quản lý theo dõi, áp dụng.

Thực hiện mục tiêu trên, giá bán lẻ điện cho sinh hoạt tiếp tục được thiết kế theo các bậc để phù hợp với các mức sử dụng điện khác nhau của các hộ dân với giá điện của các bậc tăng dần nhằm khuyến khuyến khích các hộ dân sử dụng điện hiệu quả, tiết kiệm (hộ sử dụng điện càng nhiều, không tiết kiệm điện, sử dụng các thiết bị tiêu hao nhiều năng lượng sẽ phải áp dụng giá điện cao hơn). Thực tế áp dụng trong những năm qua cho thấy việc áp dụng giá bán điện sinh hoạt theo các bậc là đơn giản trong áp dụng nhưng vẫn đạt được mục tiêu khuyến khích sử dụng điện tiết kiệm hiệu quả.

Như vậy, việc thiết kế giá bán điện sinh hoạt theo các bậc là phù hợp trong giai đoạn hiện nay. Trong thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tiếp thu ý kiến của cử tri và nghiên cứu cơ chế giá bán điện sinh hoạt phù hợp với thực tế sử dụng điện của các hộ sử dụng điện.

4. Cử tri các tỉnh An Giang, Bình Định, Long An, Quảng Ngãi, TP Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đề nghị làm rõ nguyên nhân của việc đầu tư thủy điện tràn lan; bên cạnh đó, cần nghiên cứu kỹ về quy trình, thủ tục lập, thẩm định, báo cáo đánh giá tác động môi trường khi thực hiện các dự án thủy điện để tránh gây thất thoát lãng phí nguồn ngân sách nhà nước; quy định cụ thể, chặt chẽ hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan, chủ đầu tư trong việc vận hành, xả nước, công tác thông tin của các thủy điện để không gây thiệt hại cho sản xuất và an toàn tính mạng của nhân dân.

Trả lời: Tại công văn số 8041/BCT-KH ngày 20/8/2014

Ở nước ta, với hơn 3.450 sông, suối lớn nhỏ, tiềm năng thủy điện về lý thuyết khá lớn với tổng công suất khoảng 35.000 MW và điện lượng khoảng 300 tỷ kWh/năm. Tuy nhiên, về mức độ khả thi, thì chỉ có thể khai thác được khoảng 26.000 MW với điện lượng khoảng 100 tỷ kWh/năm. Đây là tài nguyên quý giá của quốc gia, là nguồn năng lượng sạch, có khả năng tái tạo, cần được khai thác hợp lý.

Thực hiện chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, để đáp ứng nhu cầu cao về năng lượng cho phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, Bộ Công Thương (trước đây là Bộ Công nghiệp) đã phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương liên quan triển khai nghiên cứu, phê duyệt quy hoạch thủy điện để khai thác.

Đến nay, về cơ bản, quy hoạch thủy điện ở nước ta đã được lập và phê duyệt, làm cơ sở xem xét cho triển khai thực hiện các dự án đầu tư. Đối với quy hoạch bậc thang thủy điện (chủ yếu xem xét các dự án lớn), các quy hoạch này được nghiên cứu, thẩm định, phê duyệt chặt chẽ, xem xét khá đầy đủ các nội dung về khai thác tổng hợp nguồn nước, có sự phối hợp tốt với các ngành, các địa phương, các cơ quan tư vấn chuyên ngành có kinh nghiệm. Đối với quy hoạch thủy điện nhỏ: để phát triển tiềm năng thủy điện nhỏ tại các địa phương, Ủy ban nhân dân các tỉnh đã phối hợp với Bộ Công Thương và các Bộ, ngành tổ chức lập quy hoạch khai thác. Các Dự án thủy điện nhỏ nhìn chung đều thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn nên tài liệu cơ bản phục vụ lập quy hoạch bị hạn chế, điều kiện khảo sát thực địa không thuận lợi... Vì vậy, chất lượng quy hoạch bộc lộ khá nhiều hạn chế, không ít dự án phải điều chỉnh trong quá trình đầu tư.

Tại Nghị quyết số 62/2013/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2013, Quốc hội đã ghi nhận: các công trình thủy điện đã góp phần quan trọng bảo đảm an ninh năng lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Các hồ thủy điện lớn đa mục tiêu đã góp phần cắt, giảm lũ, điều tiết lưu lượng, cấp nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất và bảo vệ môi trường. Quá trình đầu tư xây dựng, vận hành khai thác các công trình thủy điện đã tạo nhiều việc làm cho người lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình thủy điện còn nhiều hạn chế; chất lượng quy hoạch và quyết định đầu tư xây dựng nhiều công trình thủy điện, nhất là các công trình vừa và nhỏ chưa đáp ứng đầy đủ mục tiêu, yêu cầu về bảo đảm an toàn, bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý tài nguyên nước và hiệu quả tổng hợp kinh tế - xã hội. Tại một số công trình thủy điện, việc quản lý chất lượng xây dựng, bảo đảm an toàn vận hành khai thác, thực hiện quy trình vận hành hồ chứa, điều tiết nước chưa tuân thủ nghiêm quy định của pháp luật, gây tác động tiêu cực....

Thực hiện Nghị quyết số 62/2013/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2013 của Quốc hội; Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 18 tháng 02 năm 2014 của Chính phủ về tăng cường công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình thủy điện, các Bộ, ngành và địa phương đang triển khai tích cực trên các lĩnh vực rà soát quy hoạch, vận hành hồ chứa, quản lý an toàn đập, trồng rừng thay thế… Bộ Công Thương đã tiến hành kiểm tra, rà soát các quy định và việc thực hiện vận hành xả lũ tại các hồ chứa thủy điện khu vực miền Trung, Tây nguyên. Qua kiểm tra thực tế, làm việc với Ủy ban nhân dân các tỉnh, phân tích các số liệu vận hành của các hồ chứa, trong thời gian qua cho thấy, việc xả lũ, cấp nước cho nông nghiệp và sinh hoạt về mùa khô của các hồ chứa thuỷ điện đã được thực hiện nghiêm túc theo các quy định trong Quy trình vận hành hồ chứa. Về mùa lũ đã có tác dụng giảm đỉnh lũ, về mùa khô đã có vai trò rất tích cực trong việc chống hạn, đặc biệt là khu vực miền Trung.

Quy trình vận hành hồ chứa, liên hồ chứa đã quy định đầy đủ, chặt chẽ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, sự phối hợp của Chủ hồ đập với Ban Chỉ huy phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn của địa phương và Trung ương trong việc an toàn vận hành xả lũ, kế hoạch phối hợp với địa phương trong việc cấp nước. Ngày 10 tháng 3 năm 2014, Bộ Công Thương đã ban hành Kế hoạch hành động số 2046/QĐ-BCT thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ tại Nghị quyết số 11/NQ-CP về tăng cường công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng và vận hành khai thác công trình thủy điện. Theo kế hoạch hành động này, Bộ Công Thương triển khai các nhiệm vụ chủ yếu sau:

- Thực hiện rà soát: Quy hoạch thuỷ điện; năng lực của các cơ quan tư vấn lập quy hoạch và thiết kế công trình thuỷ điện; đảm bảo chất lượng, an toàn công trình, tuân thủ các yêu cầu về môi trường; tuân thủ các quy định của pháp luật về đầu tư đối với các công trình thuỷ điện đang triển khai xây dựng; thực hiện quy trình vận hành hồ chứa; cấp hoặc thu hồi giấy phép hoạt động điện lực trong lĩnh vực thuỷ điện;

- Chủ trì thẩm tra, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét đầu tư, khởi công các Dự án thuỷ điện; thanh tra, kiểm tra, giám sát việc kiểm định, xử lý vi phạm về phòng chống lụt bão, an toàn đập, hồ chứa thuỷ điện; chỉ đạo xây dựng phương án phòng chống lũ, lụt cho vùng hạ du các hồ chứa thuỷ điện trên các lưu vực sông lớn trong trường hợp xả lũ khẩn cấp hoặc vỡ đập (trước mắt là khu vực miền Trung, Tây Nguyên);

- Tổ chức các Đoàn kiểm tra tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ tại các địa phương;

- Ban hành các Chỉ thị, văn bản chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Công Thương yêu cầu các địa phương và các đơn vị quản lý các nhà máy thủy điện tăng cường công tác quản lý an toàn đập thủy điện trong mùa lũ; công tác phòng, chống thiên tai, lụt, bão và tìm kiếm cứu nạn; công tác cảnh báo trong vận hành hồ chứa và nhà máy thủy điện để đảm bảo an toàn cho vùng hạ du các nhà máy thủy điện; công tác quản lý vận hành hồ chứa thủy điện;

- Rà soát hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với các công trình thủy điện, đề xuất việc xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về thủy điện;

- Xây dựng cơ chế tài chính đối với các nhà máy thủy điện vận hành cấp nước cho hạ du vào mùa khô theo yêu cầu sản xuất, sinh hoạt;

- Xây dựng tài liệu, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về vai trò của các công trình thủy điện, phổ biến quy hoạch thủy điện và công tác phòng chống bão lụt;

- Hàng năm tổng hợp báo cáo Chính phủ kết quả thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP và chuẩn bị báo cáo Quốc hội kết quả thực hiện Nghị quyết số 62/2013/QH13 của Quốc hội.

Bộ Công Thương cũng đã ban hành 4 Chỉ thị liên quan thủy điện: Chỉ thị số 07/CT-BCT ngày 28 tháng 3 năm 2014 về tăng cường công tác quản lý an toàn đập thủy điện trong mùa lũ 2014; Chỉ thị số 13/CT-BCT ngày 29 tháng 4 năm 2014 về công tác phòng, chống thiên tai, lụt, bão và tìm kiếm cứu nạn năm 2014; Chỉ thị số 15/CT-BCT ngày 13 tháng 5 năm 2014 về việc thực hiện công tác cảnh báo trong vận hành hồ chứa và nhà máy thủy điện để đảm bảo an toàn cho vùng hạ du các nhà máy thủy điện; Chỉ thị số 23/CT-BCT ngày 11 tháng 7 năm 2014 về tăng cường công tác quản lý vận hành hồ chứa thủy điện.

Ngoài việc ban hành Kế hoạch hành động và các văn bản chỉ đạo, đôn đốc nêu trên, Bộ Công Thương đã chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tích cực thực hiện các nội dung theo yêu cầu của Nghị quyết số 11/NQ-CP, cụ thể như sau:

- Chủ trì (phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng Tập đoàn Điện lực Việt Nam) tổ chức Lễ phát động trồng rừng tại Nhà máy Thuỷ điện Sơn La ngày 22 tháng 3 năm 2014;

- Thực hiện thẩm định, phê duyệt phương án Phòng chống lụt bão, đảm bảo an toàn đập năm 2014 đối với các dự án thủy điện trên địa bàn cả nước;

- Tổ chức 4 Đoàn công tác đi làm việc và kiểm tra về quy hoạch, chất lượng xây dựng công trình, quy trình vận hành hồ chứa và các vấn đề liên quan đến lĩnh vực thuỷ điện trên địa bàn các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Quảng Nam, Phú Yên. Đoàn công tác đã đi kiểm tra tại hiện trường một số Dự án thuỷ điện, khu tái định cư của các Dự án thủy điện và đã tổ chức các cuộc họp với Ủy ban nhân dân các tỉnh và các Sở: Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài nguyên và Môi trường, Xây dựng, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, các Chủ đập thủy điện trên địa bàn tỉnh;

- Đã phối hợp với sự chủ trì của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn dự thảo các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư các dự án thủy lợi, thủy điện và Quy định về ổn định đời sống và sản xuất cho người dân sau tái định cư các dự án thủy lợi, thủy điện;

- Phối hợp với sự chủ trì của Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng, góp ý Quy trình vận hành liên hồ chứa mùa lũ các lưu vực Sông Vu Gia - Thu Bồn, sông Ba, sông Hương, sông Kôn - Hà Thanh, sông Hồng, sông Mã, sông Cả, sông Trà Khúc và sông Đồng Nai, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt;

- Chỉ đạo, triển khai thực hiện các Quyết định mới ban hành của Thủ tướng Chính phủ về Quy trình vận hành liên hồ chứa các lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn và Sông Ba.

Ngày 06 tháng 8 năm 2014, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng đã chủ trì cuộc họp với sự tham dự của đại diện các Bộ: Xây dựng, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài nguyên và Môi trường, cùng lãnh đạo 38 tỉnh, thành phố có hồ đập thủy điện trong cả nước để đánh giá tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ, Nghị quyết số 62/2013/QH13 của Quốc hội. Tại cuộc họp, Bộ Công Thương và các Bộ, ngành và địa phương đã đánh giá hiệu quả và những tồn tại trong quá trình thực hiện, đưa ra các phương hướng để triển khai mạnh mẽ hơn nữa Nghị quyết số 11/NQ-CP trong thời gian tới và có Báo cáo tổng thể báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XIII.



5. Cử tri tỉnh Bạc Liêu kiến nghị: Đặc điểm của vùng trung du, miền núi và vùng sâu, vùng xa, dân cư thưa thớt, mặc dù Nhà nước quan tâm phát triển lưới điện quốc gia phục vụ nhân dân, nhưng hiện nay vẫn còn khoảng 10% người dân không có điện sử dụng. Đề nghị tiếp tục quan tâm đầu tư hệ thống điện lưới cho người dân được sử dụng.

Каталог: userfiles -> files -> TAI%20LIEU%20KY%20HOP%20THU%208
TAI%20LIEU%20KY%20HOP%20THU%208 -> UỶ ban quốc phòng và an ninh cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
files -> UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ SÁU quốc hội khoá XII
files -> Phụ lục số 1 danh mục các văn bản hưỚng dẫn thi hành pháp luật về giao thôNG
files -> PHỤ LỤC 1 KẾt quả XỬ LÝ ĐƠN, thư CỦa uỷ ban tư pháp từ sau kỳ HỌp thứ SÁU ĐẾn truớc kỳ HỌp thứ BẢy quốc hội khóa XII
files -> Phần I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
TAI%20LIEU%20KY%20HOP%20THU%208 -> KỲ HỌp thứ TÁM, quốc hội khóa XIII (20/10/2014 – 28/11/2014)

tải về 6.12 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   16   17   18   19   20   21   22   23   ...   86




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương