I. thiên tai trêN ĐỊa bàn thành phố



tải về 70 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích70 Kb.
#1864


PHỤ LỤC 2

THIÊN TAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH,

THIỆT HẠI VÀ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG GIẢM NHẸ THIÊN TAI

(Ban hành kèm theo Quyết định số 5745 /QĐ-UBND



ngày 31 tháng 12 năm 2008của Ủy ban nhân dân thành phố)

__________
I. THIÊN TAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ

1. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội:

a) Vị trí địa lý:

Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong tọa độ địa lý khoảng 10010’ - 10038 độ vĩ Bắc và 106022’ - 106054độ kinh Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang.

b) Địa hình:

Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Ðông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Ðịa hình tổng quát có dạng thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Ðông sang Tây. Có thể chia thành 3 tiểu vùng địa hình:

- Vùng cao nằm ở phía Bắc - Ðông Bắc và một phần Tây Bắc (thuộc Bắc huyện Củ Chi, Đông Bắc quận Thủ Ðức và quận 9), với dạng địa hình lượn sóng, độ cao trung bình 10-25 m và xen kẽ có những đồi gò cao tới 32 m, như đồi Long Bình (quận 9).

- Vùng thấp trũng ở phía Nam - Tây Nam và Ðông Nam thành phố (thuộc các quận 9, quận 8, quận 7 và các huyện Bình Chánh, huyện Nhà Bè, huyện Cần Giờ). Vùng này có độ cao trung bình trên dưới 1 m và cao nhất 2 m, thấp nhất 0,5 m.

- Vùng trung bình, phân bố ở khu vực trung tâm thành phố, gồm phần lớn nội thành cũ, một phần các quận 2, quận Thủ Ðức, toàn bộ quận 12 và huyện Hóc Môn. Vùng này có độ cao trung bình 5-10 m.

Nhìn chung, địa hình thành phố Hồ Chí Minh không phức tạp, song cũng khá đa dạng, có điều kiện để phát triển nhiều mặt.

c) Khí hậu:

Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, đặc điểm chung của khí hậu - thời tiết thành phố Hồ Chí Minh là nhiệt độ cao đều trong năm và có hai mùa mưa - khô rõ ràng làm tác động chi phối môi trường cảnh quan sâu sắc. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Theo tài liệu quan trắc nhiều năm của trạm Tân Sơn Nhất, qua các yếu tố khí tượng chủ yếu; cho thấy những đặc trưng khí hậu thành phố Hồ Chí Minh như sau:

- Lượng bức xạ dồi dào, trung bình khoảng 140 Kcal/cm2/năm. Số giờ nắng trung bình/tháng là 160-270 giờ. Nhiệt độ không khí trung bình 270C. Nhiệt độ cao tuyệt đối 400C, nhiệt độ thấp tuyệt đối 13,80C. Tháng có nhiệt độ trung bình cao nhất là tháng 4 (28,80C), tháng có nhiệt độ trung bình thấp nhất là khoảng giữa tháng 12 và tháng 1 (25,70C). Hàng năm có tới trên 330 ngày có nhiệt độ trung bình 25-280C. Ðiều kiện nhiệt độ và ánh sáng thuận lợi cho sự phát triển các chủng loại cây trồng và vật nuôi đạt năng suất sinh học cao; đồng thời đẩy nhanh quá trình phân hủy chất hữu cơ chứa trong các chất thải, góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường đô thị.

- Lượng mưa cao, bình quân/năm 1.949 mm. Năm cao nhất 2.718 mm (1908) và năm nhỏ nhất 1.392 mm (1958). Số ngày mưa trung bình/năm là 159 ngày. Khoảng 90% lượng mưa hàng năm tập trung vào các tháng mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11; trong đó tháng 6 và tháng 9 thường có lượng mưa cao nhất. Tháng 1, tháng 2, tháng 3 mưa rất ít, lượng mưa không đáng kể. Trên phạm vi không gian thành phố, lượng mưa phân bố không đều, có khuynh hướng tăng dần theo trục Tây Nam - Ðông Bắc. Ðại bộ phận các quận nội thành và các huyện phía Bắc thường có lượng mưa cao hơn các quận - huyện phía Nam và Tây Nam.

- Ðộ ẩm tương đối của không khí bình quân/năm 79,5%; bình quân mùa mưa 80% và trị số cao tuyệt đối tới 100%; bình quân mùa khô 74,5% và mức thấp tuyệt đối xuống tới 20%.

- Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính, chủ yếu là gió mùa Tây - Tây Nam và Bắc - Ðông Bắc. Gió Tây - Tây Nam từ Ấn Ðộ Dương thổi vào trong mùa mưa, khoảng từ tháng 6 đến tháng 10, tốc độ trung bình 3,6 m/s và gió thổi mạnh nhất vào tháng 8, tốc độ trung bình 4,5 m/s. Gió Bắc - Ðông Bắc từ biển Đông thổi vào trong mùa khô, khoảng từ tháng 11 đến tháng 2, tốc độ trung bình 2,4 m/s. Ngoài ra, có gió tín phong hướng Nam - Ðông Nam, khoảng từ tháng 3 đến tháng 5 tốc độ trung bình 3,7 m/s.

d) Thủy văn:

Hầu hết các sông, rạch thành phố Hồ Chí Minh đều chịu ảnh hưởng dao động triều bán nhật của biển Ðông. Mỗi ngày, nước lên xuống hai lần, theo đó thủy triều thâm nhập sâu vào các kênh, rạch trong thành phố, gây nên tác động không nhỏ đối với sản xuất nông nghiệp và hạn chế việc tiêu thoát nước ở khu vực nội thành.

Mực nước đỉnh triều cao nhất tại trạm Phú An – sông Sài Gòn là 1,54 m (ngày 13-11-2008). Tháng có mực nước cao nhất là tháng 10, tháng 11, thấp nhất là tháng 6, tháng 7. Từ khi có các công trình thủy điện Trị An và thủy lợi Dầu Tiếng ở thượng nguồn, chế độ chảy tự nhiên chuyển sang chế độ chảy điều tiết qua tua-bin, đập tràn và cống đóng - xả nên môi trường vùng hạ du từ Bắc Nhà Bè trở nên chịu ảnh hưởng của nguồn, nói chung đã được cải thiện theo chiều hướng ngọt hóa. Dòng chảy vào mùa kiệt tăng lên, đặc biệt trong các tháng từ tháng 2 đến tháng 5 tăng 3-6 lần so với tự nhiên. Vào mùa mưa, lượng nước được điều tiết giữ lại trên hồ, làm giảm thiểu khả năng ngập lụt đối với những vùng trũng thấp; ngược lại nước mặn lại xâm nhập vào sâu hơn. Ngoài ra, việc phát triển các hệ thống kênh, mương đã có tác dụng nâng cao mực nước ngầm trên tầng mặt lên 2-3 m, tăng thêm nguồn cung cấp nước phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của thành phố.

đ) Điều kiện kinh tế - xã hội:

- Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích: 2.095,239 km2, đơn vị hành chính gồm 24 quận - huyện, dân số 6.650.942 người (theo Niên giám thống kê năm 2007), chưa tính khoảng 02 triệu người vãng lai.

- Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là trung tâm kinh tế của cả nước, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Thành phố đang đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng tỷ trọng khu vực dịch vụ. Trong đó, khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng khoảng 51%, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng khoảng 48%; khu vực nông lâm ngư nghiệp chiếm tỷ trọng khoảng 1%.

- Hiện nay, trên địa bàn thành phố, đặc biệt là các huyện và quận ven đang diễn ra quá trình đô thị hóa rất mạnh mẽ.



2. Các loại thiên tai xảy ra và có thể xảy ra trên địa bàn thành phố:

a) Bão, áp thấp nhiệt đới:

- Bão và áp thấp nhiệt đới được gọi chung là xoáy thuận nhiệt đới. Xoáy thuận nhiệt đới là một vùng gió xoáy, có đường kính rộng tới hàng trăm km, hình thành trên vùng biển nhiệt đới. Ở Bắc bán cầu, gió thổi xoáy vào trung tâm theo hướng ngược chiều kim đồng hồ. Tùy theo tốc độ gió mạnh nhất ở vùng gần tâm mà xoáy thuận nhiệt đới được phân chia thành áp thấp nhiệt đới hay là bão.

+ Khi gió mạnh nhất vùng gần tâm xoáy thuận nhiệt đới đạt từ cấp 6 đến cấp 7 (tức là từ 39 - 61 km/giờ) thì gọi là áp thấp nhiệt đới;

+ Khi gió mạnh nhất vùng gần tâm xoáy thuận nhiệt đới đạt từ cấp 8 trở lên (tức là từ 62 km/giờ trở lên) thì gọi là bão.

- Bão là hiện tượng đặc biệt nguy hiểm, gây ra gió rất mạnh, có thể đánh đắm tàu thuyền, làm đổ nhà cửa; mưa rất lớn, gây lũ lụt nghiêm trọng, có khi trở thành thảm họa.

- Trung bình mỗi năm có 10 cơn bão và áp thấp nhiệt đới xuất hiện, hoạt động trên biển Đông. Bão và áp thấp nhiệt đới chủ yếu ảnh hưởng đến phía Nam vào các tháng cuối năm.

- Trong 10 năm qua, có 2 cơn bão đổ bộ trực tiếp địa bàn thành phố vào năm 1997 (cơn bão số 5 – Linda, ngày 02-11-1997) và năm 2006 (bão số 9 – Durian, ngày 05-12-2006).

b) Lốc xoáy:

- Lốc xoáy là những xoáy nhỏ cuốn lên, có trục thẳng đứng, thường xảy ra khi khí quyển có sự nhiễu loạn và về cơ bản là không thể dự báo được. Lốc xoáy có sức gió tương đương với gió bão nhưng được hình thành và tan trong thời gian ngắn với phạm vị ảnh hưởng trong không gian hẹp từ vài km2 đến vài chục km2.

- Lốc xoáy làm hư hại cơ sở vật chất, trường học, nhà cửa, gây ngã đổ cây xanh, làm ảnh hưởng đến đời sống, sinh hoạt của nhân dân.

- Trên địa bàn thành phố, trung bình mỗi năm có khoảng 10 cơn lốc xoáy, xuất hiện chủ yếu vào tháng 4 đến tháng 10 hằng năm. Lốc xoáy chủ yếu xảy ra tại các huyện, quận ven như huyện Bình Chánh, huyện Cần Giờ, huyện Củ Chi, huyện Nhà Bè, quận 2, quận 7, quận 8, quận 9, quận 12, quận Gò Vấp...



c) Ngập úng:

Ngập úng thường do do triều cường, xả lũ, mưa to gây ra, ngập úng tuy ít gây tổn thất về người nhưng ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt, đi lại của nhân dân, sản xuất nông nghiệp và môi trường sinh thái.

- Triều cường: từ năm 1997 đến năm 2007, đỉnh triều đo được ≥ 1,3 m tại trạm Phú An là 34 đợt, trạm Nhà Bè là 37 đợt, xuất hiện chủ yếu vào 4 tháng cuối năm. Triều cường gây ngập nhiều khu vực tại quận 2, quận 6, quận 8, quận 12, quận Thủ Đức, quận Bình Thạnh, quận Gò Vấp, huyện Bình Chánh, huyện Củ Chi, huyện Hóc Môn…

- Mưa: từ năm 1982 đến năm 2007 số lần xuất hiện cường độ mưa đo được ≥ 100 mm trên địa bàn thành phố là 22 lần. Trong thời gian gần đây xuất hiện những cơn mưa ≥ 100 mm nhiều hơn so với trước đây: từ năm 1962 đến 1971 có 01 cơn, từ năm 1972 đến 1981 có 2 cơn, từ năm 1982 đến 1991 có 2 cơn, từ năm 1992 đến 2001 có 4 cơn, từ năm 2002 đến 2007 có 13 cơn. Mưa to thường làm ngập lụt một số tuyến đường ở nội thành và quận ven.

- Xả lũ: thường bắt đầu từ 8 tháng đến tháng 11 hằng năm, trong 10 năm qua lưu lượng xả lũ cao nhất của hồ Trị An 2.190 m3/s, hồ Thác Mơ là 482,33 m3/s và hồ Dầu Tiếng là 400 m3/s.

d) Sạt lở:

Sạt lở là loại hình thiên tai, ở thành phố thường xảy ra sạt lở bờ biển, bờ sông, bờ rạch vào tháng 4 đến tháng 9 hằng năm, trung bình mỗi năm có khoảng 8-10 vụ sạt lở. Sạt lở thường do các nguyên nhân: ngoại sinh (do nước), nội sinh (do biến động địa chất) và dân sinh (do khai thác khoáng sản bừa bãi hoặc thi công các công trình)... làm mất đi số lượng đáng kể diện tích đất ở, đất canh tác, làm hư hỏng, sụp đổ nhà cửa, gây thương tích và thiệt hại nhân mạng. Sạt lở chủ yếu xảy ra tại địa bàn huyện Cần Giờ, huyện Nhà Bè, huyện Bình Chánh, quận Bình Thạnh, quận Thủ Đức, quận 2.



đ) Xâm nhập mặn:

Xâm nhập mặn ở thành phố Hồ Chí Minh những năm gần đây trở nên gay gắt và có ảnh hưởng nhất định đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Vào mùa khô, lưu lượng của nguồn nhỏ, độ mặn 4% có thể xâm nhập trên sông Sài Gòn đến quá Lái Thiêu (huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương), có năm đến tận Thủ Dầu Một; trên sông Ðồng Nai đến Long Ðại (quận 9). Mùa mưa lưu lượng của nguồn lớn nên mặn bị đẩy lùi ra xa hơn và độ mặn bị pha loãng đi nhiều.



e) Động đất:

Động đất là sự rung động của mặt đất, được tạo ra bởi các dịch chuyển đột ngột của các khối địa chất trong lòng đất, các vụ nổ núi lửa, các vụ trượt lở đất, sụp đổ hang động…

Trong các năm qua, thành phố bị ảnh hưởng dư chấn động đất 2 đợt vào ngày 8/11/2005 (5,1 độ richter) và ngày 28/11/2007 (4 độ richter).

g) Sóng thần:

Sóng thần là sóng biển có chu kỳ dài, lan truyền với tốc độ lớn. Khi tới gần bờ tùy độ sâu của biển và địa hình vùng bờ, sóng thần có thể đạt độ cao hàng chục mét, tràn sâu vào đất liền gây thảm họa lớn. Sóng thần sinh ra do hậu quả của động đất ở vùng đáy đại dương.

Sóng thần tuy chưa từng xuất hiện ở thành phố nhưng đã một lần cảnh báo sóng thần đêm 26/12/2006.

h) Nước biển dâng:

Nước biển dâng là hiện tượng mực nước biển trung bình hàng năm trong những năm gần đây cao hơn mức mực nước biển trung bình nhiều năm do ảnh hưởng của biến đối khí hậu toàn cầu.



II. THIỆT HẠI DO THIÊN TAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ

Theo thống kê, trong 10 năm qua (1997-2007), thiên tai trên địa bàn thành phố đã làm 11 người chết, 47 người bị thương, 02 người mất tích; 478 căn nhà sập, hư hỏng nặng, 3.487 căn nhà hư hỏng một phần, 15 ghe, thuyền bị chìm và hư hỏng; 5.528 ha diện tích sản xuất nông nghiệp, 1.008 ha diện tích nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại; 08 dầm cầu, 05 cống bị hư hỏng; 7.619 m bờ bao và kè bị sạt lở, nhiều công trình giao thông đường bộ, cây xanh, hệ thống điện, viễn thông, trường học, bệnh viện, trụ sở cơ quan, xí nghiệp… hư hỏng. Giá trị thiệt hại ước tính trên 202 tỷ đồng. Ngoài ra, còn ảnh hưởng gián tiếp đến kinh tế - xã hội, môi trường, an ninh - trật tự.



1. Số liệu thiệt hại từng năm:

- Năm 1997: chết 1 người, bị thương 2 người, 23 căn nhà sập và nhà hư hỏng nặng, 366 căn nhà hư hỏng một phần, chìm và hư hỏng 9 ghe, thuyền, thiệt hại nông nghiệp 1.609 ha, thiệt hại thủy sản 704,5 ha, sạt lở 2.170 m bờ bao và kè, hư hỏng 3 cống thủy lợi.

- Năm 1998: thiệt hại nông nghiệp 510 ha, thiệt hại thủy sản 09 ha.

- Năm 1999: 22 căn nhà hư hỏng một phần, thiệt hại nông nghiệp 250 ha, thiệt hại thủy sản 10 ha, sạt lở 277 m bờ bao và kè.

- Năm 2000: bị thương 9 người, 209 căn nhà hư hỏng một phần, thiệt hại nông nghiệp 1.070 ha, thiệt hại thủy sản 5,8 ha, sạt lở 350 m bờ bao và kè…

- Năm 2001: chết 2 người, 5 căn nhà sập và hư hỏng nặng, 51 căn nhà hư hỏng một phần, thiệt hại nông nghiệp 240 ha.

- Năm 2002: bị thương 5 người, 7 căn nhà sập và hư hỏng nặng, 37 căn nhà hư hỏng một phần, thiệt hại nông nghiệp 42,2 ha, thiệt hại thủy sản 139,5 ha.

- Năm 2003: bị thương 18 người, 6 căn nhà sập và hư hỏng nặng, 107 căn nhà hư hỏng một phần, thiệt hại nông nghiệp 313 ha, thiệt hại thủy sản 16,9 ha, sạt lở 118 m bờ bao và kè.

- Năm 2004: bị thương 1 người, 10 căn nhà sập và hư hỏng nặng, 26 căn nhà hư hỏng một phần, thiệt hại nông nghiệp 582 ha, thiệt hại thủy sản 4 ha, sạt lở 3.727 m bờ bao và kè.

- Năm 2005: chết 1 người, bị thương 1 người, 35 căn nhà sập và hư hỏng nặng, 142 căn nhà hư hỏng một phần, thiệt hại nông nghiệp 193 ha, thiệt hại thủy sản 10 ha.

- Năm 2006: chết 4 người, mất tích 2 người, bị thương 1 người, 363 căn nhà sập và hư hỏng nặng, 2.340 căn nhà hư hỏng một phần, chìm 6 ghe, thuyền, thiệt hại nông nghiệp 335,5 ha, thiệt hại thủy sản 92,65 ha, sạt lở 504 m bờ bao và kè, hư hỏng 8 dầm cầu.

- Năm 2007: chết 3 người, bị thương 10 người, 29 căn nhà sập và hư hỏng nặng, 187 căn nhà hư hỏng một phần, thiệt hại nông nghiệp 383,3 ha, thiệt hại thủy sản 16 ha.



2. Số liệu thiệt hại từng loại thiên tai:

- Bão: chết 5 người, bị thương 2 người, mất tích 2 người, 363 căn nhà sập và hư hỏng nặng; 2.416 căn nhà hư hỏng một phần, chìm và hư hỏng 15 ghe, thuyền, thiệt hại nông nghiệp 1.282 ha, thiệt hại thủy sản 767,5 ha, sạt lở 2.308 m bờ bao và kè, hư hỏng 8 dầm cầu, 3 cống thủy lợi.

- Lốc xoáy và gió lớn: chết 4 người, bị thương 43 người, 102 căn nhà sập và hư hỏng nặng, 973 căn nhà hư hỏng một phần.

- Sạt lở: chết 2 người, 13 căn nhà sập và hư hỏng nặng, 75 căn nhà hư hỏng một phần, thiệt hại nông nghiệp 9,8 ha, sạt lở 3.892 m bờ bao và kè.

- Triều cường và mưa to: bị thương 2 người, 32 căn nhà hư hỏng một phần, thiệt hại nông nghiệp 4.236,2 ha, thiệt hại thủy sản 240,85 ha, sạt lở 1.419 m bờ bao và kè, hư hỏng 2 cống.

- Động đất: xảy ra 2 trận (ngày 8 tháng 11 năm 2005 và ngày 28 tháng 11 năm 2007), tuy nhiên không gây thiệt hại.

- Sóng thần: không xảy ra trên địa bàn thành phố.

III. CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG VÀ GIẢM NHẸ THIÊN TAI

1. Công tác chỉ đạo, điều hành, kiểm tra:

a) Hằng năm, thành phố thực hiện kiện toàn Ban Chỉ huy Phòng, chống lụt, bão các cấp, các ngành từ những tháng đầu năm và thường xuyên trong năm khi có sự thay đổi thành viên. Trong đó, phân công cụ thể nhiệm vụ của các thành viên phụ trách địa bàn, lĩnh vực liên quan để nâng cao vai trò, trách nhiệm của Ban Chỉ huy Phòng, chống lụt, bão các cấp, các ngành trong việc triển khai và kiểm tra thực hiện nhiệm vụ phòng, chống lụt, bão, thiên tai – tìm kiếm cứu nạn ở từng cấp, từng ngành.

b) Trước mùa mưa, bão, Ban Chỉ huy Phòng, chống lụt, bão thành phố, Sở - ngành, quận – huyện, phường – xã – thị trấn kịp thời tham mưu cho cấp ủy, chính quyền tổng kết, rút kinh nghiệm công tác phòng, chống lụt, bão, thiên tai năm trước và xây dựng kế hoạch, bổ sung phương án phòng, chống lụt, bão – tìm kiếm cứu nạn năm sau.

c) Ủy ban nhân dân thành phố đã ban hành quyết định để quy định trách nhiệm phòng, chống lụt, bão – thiên tai cho các sở – ngành, quận – huyện, phường – xã – thị trấn nhằm xác định nhiệm vụ, tăng tính chủ động, ứng phó nhanh ở mỗi cấp, mỗi ngành trong công tác phòng, chống lụt, bão, thiên tai – tìm kiếm cứu nạn theo phương châm bốn tại chỗ (chỉ huy tại chỗ; lực lượng tại chỗ; vật tư, phương tiện và kinh phí tại chỗ; hậu cần tại chỗ) và ba sẵn sàng (chủ động phòng tránh, đối phó kịp thời, khắc phục khẩn trương và có hiệu quả). Đồng thời, xuất phát từ thực tế tình hình của thành phố, Ủy ban nhân dân thành phố cũng đã giao bổ sung nhiệm vụ tìm kiếm cứu nạn, ứng phó với động đất, sóng thần và tràn dầu cho Ban Chỉ huy Phòng, chống lụt, bão thành phố để tập trung đầu mối điều hành, chỉ huy khi xảy ra sự cố thiên tai trên địa bàn thành phố.



2. Công tác thông tin, tuyên truyền, ứng trực, thực hiện các phương án phòng, tránh ứng phó thiên tai:

a) Thành phố luôn chú trọng công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến kiến thức và hướng dẫn các biện pháp phòng, tránh, ứng phó các loại thiên tai thường xảy ra tại thành phố cho các tầng lớp nhân dân, các cơ quan, đơn vị trên phương tiện thông tin đại chúng, in và cấp phát miễn phí các tờ bướm, sổ tay… nhằm giúp người dân, trước hết là người dân đang sinh sống và sản xuất tại các khu vực xung yếu, nhạy cảm với các loại thiên tai hiểu biết để chủ động thực hiện các biện pháp phòng, tránh, ứng phó nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại khi sự cố thiên tai xảy ra.

b) Thành phố luôn đảm bảo chế độ ứng trực thiên tai theo quy định.

c) Hằng năm, thành phố, quận – huyện, sở - ngành tổ chức rà soát, kiểm tra trang thiết bị, phương tiện phòng, chống lụt, bão, kiểm tra các công trình thủy lợi, phòng, chống lụt, bão để chủ động bổ sung xử lý kịp thời, đảm bảo cho công tác phòng, chống lụt, bão; chủ động cân đối ngân sách địa phương và Quỹ phòng, chống lụt, bão các cấp để đầu tư xây dựng công trình và mua sắm trang bị phương tiện, thiết bị cần thiết cho công tác phòng, chống lụt, bão, thiên tai, tìm kiếm cứu nạn trên địa bàn.

d) Những năm qua, kể từ sau cơn bão số 5 xảy ra vào tháng 11/2007. Hằng năm, thành phố đều bố trí kinh phí (khoảng 200 triệu đồng /năm) cho quận – huyện, phường – xã – thị trấn tổ chức diễn tập phòng, tránh, ứng phó với bão, tổ chức di dời dân ra khỏi khu vực nguy hiểm, cứu hộ, cứu nạn, cứu sập khi lụt bão, thiên tai xảy ra để không ngừng hoàn chỉnh, bổ sung phương án điều hành, chỉ huy, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai theo phương châm “4 tại chỗ”.

đ) Hàng năm tổ chức tập huấn, huấn luyện nghiệp vụ chuyên môn công tác phòng, chống lụt, bão, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ cho lực lượng chuyên trách và bán chuyên trách cấp thành phố và quận – huyện, phường – xã – thị trấn.

e) Thành phố đã chủ động xây dựng các phương án, kế hoạch phòng, tránh, ứng phó với lụt, bão, thiên tai trên địa bàn. Đến nay, Ban Chỉ huy Phòng, chống lụt, bão thành phố đã ban hành và thẩm định, phê duyệt để triển khai thực hiện các biện pháp cụ thể phù hợp với thực tế tình hình của thành phố khi xảy ra sự cố thiên tai, như sau:

- Phương án Phòng, tránh, ứng phó khi bão đổ bộ trực tiếp vào thành phố của Ban Chỉ huy Phòng, chống lụt, bão thành phố (số 151/PA-PCLB ngày 02/7/2008).

- Phương án Đảm bảo an toàn cho người và tàu thuyền hoạt động thủy sản trên địa bàn thành phố của Ban Chỉ huy Phòng, chống lụt, bão thành phố (số 147/QĐ-PCLB ngày 24/6/2008 ).

- Phương án Ứng phó khắc phục hậu quả động đất, sóng thần và sự cố tràn dầu của Sở Tài nguyên Môi trường thành phố (số 4805/TNMT-CCBVMT ngày 18/6/2007).

- Kế hoạch Sử dụng lực lượng, phương tiện tham gia cứu hộ, cứu nạn trên địa bàn của Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố (số 1375/BC-PTM ngày 30/5/2008).

- Kế hoạch Tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ cho người và tàu thuyền hoạt động trên địa bàn thành phố và khu vực giáp ranh thành phố của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng thành phố (số 555/ KHPH-TKCN ngày 26/6/2008).

- Xây dựng Bản đồ cảnh báo các khu vực dân cư phải di dời đến nơi an toàn khi xảy ra lụt, bão, thiên tai cung cấp cho các thành viên Ban Chỉ huy Phòng, chống lụt, bão thành phố và quận – huyện (338 điểm xung yếu, 752.313 người dân phải di dời đến 583 điểm tạm cư an toàn).

- Ban hành quy chế làm việc của Ban Chỉ huy Phòng, chống lụt, bão thành phố và các sở - ngành, quận – huyện; quy định chế độ trực ban trong mùa mưa bão, thiên tai trên địa bàn thành phố theo quy định.



3. Công tác tổ chức khắc phục hậu quả sau thiên tai:

Ngay sau khi các sự cố thiên tai xảy ra, lãnh đạo thành phố luôn kịp thời quan tâm và tập trung chỉ đạo cho các sở - ngành, Ủy ban Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể từ thành phố đến quận – huyện, phường – xã – thị trấn khẩn trương trong thời gian sớm nhất huy động mọi lực lượng, phương tiện, cơ sở vật chất, kinh phí cứu trợ kịp thời, đúng mức cho nhân dân vùng bị thiệt hại. Trọng tâm là trợ cấp lương thực, thực phẩm thiết yếu, chăm lo đời sống cho người dân, phòng trừ dịch bệnh, sửa chữa, xây dựng lại nhà ở bị hư hại, khôi phục lại sản xuất, vệ sinh môi trường, đảm bảo trật tự trị an, không để xảy ra tình trạng thiếu đói hoặc người dân bị thiệt hại do thiên tai không có nơi ở an toàn khi nhà cửa bị sập đổ, hư hỏng, ngăn chặn không để xảy ra tình trạng đầu cơ tăng giá lương thực, nhu yếu phẩm, nước sạch cũng như nhiên liệu, vật liệu xây dựng. Đồng thời, tập trung mọi nguồn lực trực tiếp trợ giúp nhân dân bị thiệt hại xây dựng, sửa chữa lại nhà ở, khôi phục công trình hạ tầng đảm bảo trở lại hoạt động bình thường trong thời gian ngắn nhất.



IV. MỘT SỐ TỒN TẠI

Nhìn chung, trong thời gian qua, nhất là 10 năm qua gần đây thiên tai xảy ra trên địa bàn thành phố với tần suất ngày càng cao, ảnh hưởng trên diện rộng, đặc biệt là triều cường, áp thấp nhiệt đới, bão, mưa to kéo dài gây ngập úng, sạt lở bờ sông, lốc xoáy. Riêng hai cơn bão đổ bộ trực tiếp vào địa bàn thành phố gây thiệt hại nặng về người và tài sản ở huyện Cần Giờ. Các tổn thất về người và tài sản sẽ được giảm thiểu đến mức thấp nhất nếu được tập trung hỗ trợ đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tăng cường đúng mức trách nhiệm quản lý, thông tin cảnh báo, kiên quyết xử lý kịp thời, khắc phục tốt các nguyên nhân dẫn đến sự cố thiệt hại. Cụ thể, các trường hợp tử vong, mất tích, bị thương ở người chủ yếu do bị chìm ghe, tàu đánh cá ngoài biển khi có bão nhưng vẫn còn người ở lại trên phương tiện không có áo phao cứu sinh, phao cứu hộ (chết, mất tích: 7 người, bị thương 2 người); lốc xoáy, sét đánh, sạt lở bờ sông, làm sập nhà ở ven sông (chết 6 người, bị thương: 43 người); tàu, ghe bị chìm, hư hỏng (15 chiếc) xảy ra vào thời điểm bão đổ bộ, chủ phương tiện, thuyền trưởng không kịp thời tránh trú bão theo hướng dẫn cũng như không chấp hành nghiêm túc lệnh cấm ra khơi của cơ quan thẩm quyền, đồng thời công tác quản lý của cơ quan chức năng chưa thật chặt chẽ; nhà ở bị ngập và hư hỏng (3.965 căn) phần lớn do bão và giông gió, lốc xoáy (hiện nay các cơ quan chuyên môn chưa dự báo được địa điểm và thời gian xảy ra lốc xoáy) xảy ra ở khu vực ven biển, ven sông, ngoại thành, vật liệu xây dựng đơn sơ, tạm bợ, không có khả năng chống chịu được khi có giông gió mạnh, chưa kịp thời chằng chống an toàn trước mùa mưa bão; tình trạng sạt lở bờ sông thường xuyên xảy ra vào thời điểm biên độ triều cường lớn, chân triều rút sâu cùng với tình trạng khai thác cát trái phép, xây dựng lấn chiếm sông rạch… làm thay đổi dòng chảy, tàu thuyền chạy quá tốc độ trên sông, công trình xây dựng, tồn tại ven sông (trong phạm vi chỉ giới bảo vệ an toàn bờ sông, kênh, rạch) tạo tác nhân gây sạt lở ngày càng nghiêm trọng. Tình trạng ngập úng kéo dài vào mùa mưa kết hợp với triều cường (từ mức báo động 2 trở lên) do hệ thống tiêu thoát nước ở khu vực nội thành quá tải, lại bị thu hẹp, chặn dòng tiêu thoát nước, mặt bằng bị bê tông hóa, thiếu hồ điều tiết, hệ thống bờ bao vùng ngoại thành chủ yếu ở dạng bờ đất nhỏ, yếu, nhiều năm qua chưa được đầu tư kiên cố hóa đồng bộ, nhiều địa phương thiếu kinh phí duy tu gia cố theo kế hoạch định kỳ hằng năm trước mùa mưa bão, triều cường nên thường xuyên xảy ra bể bờ, tràn bờ, nhất là các khu vực có địa hình thấp trũng.



V. XU THẾ BIẾN ĐỔI THIÊN TAI VÀ NHỮNG THÁCH THỨC

- Dự báo thiên tai sẽ xảy ra ngày càng nhiều hơn về loại hình và tần suất xuất hiện, phức tạp hơn về diễn biến và nghiêm trọng hơn về hậu quả. Sự nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu, các hiện tượng El Nino, La Nina và sự gia tăng các cơn bão nhiệt đới, hạn hán, thời tiết bất thường đã xảy ra tác động trực tiếp đến nước ta, trong đó khu vực thành phố Hồ Chí Minh cũng đã chịu ảnh hưởng.

- Địa hình thành phố nhiều nơi thấp trũng, sông, rạch chằng chịt, trong khi mực nước biển đang có xu hướng dâng cao, mưa to xuất hiện nhiều hơn đang làm cho bài toán, giải pháp chống ngập lụt, sạt lở trên địa bàn thành phố trở nên khó khăn, phức tạp, tốn nhiều thời gian, công sức, kinh phí.

- Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, mạnh mẽ tại các vùng ven và ngoại thành nhưng thiếu lồng ghép đồng bộ các giải pháp phòng, chống thiên tai, năng lực quản lý, kiểm soát tiến trình phát triển còn bất cập đang làm gia tăng nguy cơ mất an toàn khi có thiên tai xảy ra.



- Trên địa bàn thành phố hiện còn rất nhiều nhà ở tạm bợ, không chắc chắn, nhiều chung cư cũ, xuống cấp và công trình, dự án phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai triển khai chậm hoặc chưa được triển khai cũng là những thách thức trong việc đảm bảo an toàn về người và giảm thiệt hại về tài sản khi xảy ra thiên tai./.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ


Каталог: docs -> vanban
vanban -> Độc lập Tự do Hạnh phúc ban chỉ huy phòng chống thiên tai và TÌm kiếm cứu nạN
vanban -> Độc lập Tự do Hạnh phúc ban chỉ huy phòng chống lụt bão và TÌm kiếm cứu nạN
vanban -> Độc lập Tự do Hạnh phúc ban chỉ huy phòng chống lụt bão và TÌm kiếm cứu nạN
vanban -> BÁo cáo kết quả kiểm tra công trình trước mùa mưa lũ năm 2006
vanban -> Kèm Công văn số: 26 /pclb ngày 24-01-2008 của Ban Chỉ huy pclb tp phụ LỤC 1 CÁc quy đỊnh thực hiện trong
vanban -> Độc lập Tự do Hạnh phúc SỞ NÔng nghiệp và phát triển nông thôN
vanban -> QuyếT ĐỊnh củA Ủy ban nhân dân thành phố Về ban hành Quy định quản lý, sử dụng hành lang trên bờ sông
vanban -> BỘ XÂy dựng số: 25/2009/tt-bxd cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
vanban -> Ban chỉ huy pctt và CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam

tải về 70 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương