HỒng nghĩa giác tư y thư LÊ ĐỨc toàn sao lục phòng Tu Thư Huấn luyện Viện Đông y dịch nguyễn sỹ LÂM



tải về 3.47 Mb.
trang1/4
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích3.47 Mb.
#35678
  1   2   3   4

TUỆ TĨNH


HỒNG NGHĨA GIÁC TƯ Y THƯ

LÊ ĐỨC TOÀN SAO LỤC

Phòng Tu Thư Huấn luyện Viện Đông y dịch


NGUYỄN SỸ LÂM Hiệu đính và chú thích

NHÀ XUẤT BẢN Y HỌC

HÀ NỘI - 1978

LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Chúng tôi xin trân trọng giới thiều với độc giả và các bạn đồng nghiệp cuốn sách HỒNG NGHĨA GIÁC TƯ Y THƯ của Thiến sư TUỆ TĨNH do Y viện triều Lê Dụ Tông xuất bản năm 1723.

Tuệ Tĩnh là nhà đại danh y ở thế kỷ thứ 14 (?) có tinh thần dân tộc cao, muốn xây dựng nền y học Việt Nam với phương châm “Thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt”. Một phương châm rất chính xác.

Hiện Tuệ Tĩnh còn để lại cho chúng ta hai tác phẩm quý giá là : HỒNG NGHĨA GIÁC TƯ Y THƯ và NAM DƯỢC THẦN HIỆU. Một về lý luận, một về thực tiễn ; cả hai cần được thừa kế và phổ biến.

Năm 1961 đã xuất bản cuốn NAM DƯỢC THẦN HIỆU và tái bản năm 1972 ; còn cuốn HỒNG NGHĨA GIÁC TƯ Y THƯ này mới xuất bản.(1978)

Hồng Nghĩa Giac Tư Y Thư là cuốn sách thuốc cổ nhất của ta. Lý luận tinh tuý, sâu sắc, trị pháp lại linh hoạt, sáng tạo tác giả theo khuôn mẫu THƯƠNG HÀN và KIM QUỸ của Trương Trọng Cảnh. Tuy đề ra 37 phương chữa thương hàn và 13 phương chữa tạp bịnh, nhưng không câu chấp ở thành phương mà vận dụng theo đường hướng biện chứng.

Qua nghiên cứu nguyên bản, thấy có sự lẫn lộn vài sai sót (do điều kiện khắc in thời xưa, do sự sao chép…). Để thừa kế và phổ biến được tốt chúng tôi có tạm sắp xếp lại.

Nguyên bản chia thượng hạ 2 quyễn :


  • Quyễn thượng gồm :

Nam dược Quốc âm phú – Trực giải thuốc Nam dược tính phú – Y luận – Thương hàn cách pháp trị lệ, tức thương hàn tam thập thất truỳ.

  • Quyễn hạ gồm :

Thập tam phương gia giảm – Phương pháp biện chứng luận trị (chứng trị phương pháp) – Các phương thuốc gia truyền hiệu nghiệm đã được chọn lọc mà Hoàng triều ban bố cho nhân dân gồm 37 phương – Các đơn thuốc (Như ý đơn, Hồi sinh đơn, Bổ âm đơn).

Theo sự sắp xếp trên chúng tôi thấy tập thập tam phương gia giảm là tập chủ yếu lại để xuống quyễn hạ sau tâp thương hàn tam thập thất truỳ thì không hợp lý. Trong tập Y luận thì để chung cả Tạng Phủ và Kinh Lạc.

Kỳ xuất bản này chúng tôi không chia quyễn, chỉ sắp xếp theo thứ tự :


  1. Bài Phú thuốc Nam bằng Quốc âm ;

  2. Trực giải chỉ Nam dược tính phú ;

  3. Y luận ;

  4. Tạng phủ và Kinh lạc;

  5. 13 phương gia giảm;

  6. Thương hàn các pháp trị lệ;

  7. Phương pháp biện chứng luận trị.

  8. Các đơn thuốc (Như ý đơn, Hồi sinh đơn, Bổ âm đơn).

  9. Các phương thuốc gia truyền hiệu nghiệm.

Về phần dịch thì Bài phú thuốc Nam bằng Quốc âm, nguyên là chữ Nôm, chúng tôi phiên ra tiếng Việt ngày nay. Bài Trực giải thuốc Nam dược tính phú nguyên văn là chữ Hán, chúng tôi cho phiên âm (chữ Hán phiên ra âm Việt) và dịch theo nguyên điệu (dịch ra tiếng Việt theo lối phú).

Mục Kinh lạc (trong tập Tạng phủ và kinh lạc) nguyên văn là ca quát 7 chữ, chúng tôi dịch ra lối song thất lục bát và có sửa đổi lại một số chữ sai sót….

Phần cuối : Các đơn thuốc (phương Hối sinh đơn) một số bài 19 chứng sản hậu, thai tiền, có nhiều câu không thành văn nghĩa, cũng đều tạm sửa lại cho xuôi ý, xuôi lời (ở phần chú thích có ghi chi tiết).

Văn từ sách này là văn từ cổ. Văn thường dùng chữ Hán như ôn ôn nhi phục (đợi thuốc ấm ấm mà uống) ; tịnh khử bất nghi (đều bỏ đi không nên dùng) ; mạc, cai (gốc, ngọn) ; giai tô (đều tỉnh, đều khỏi).

Từ thì cũng nhiều từ cỗ như mựa (chớ), xung (khởi), miễn (với và), úi (sốt rét cơn). Những văn và từ này thường thấy nhiều ở Thập tam phương gia giảm và Thương hàn cách pháp trị lệ (Thương hàn Tam thập thất truỳ) chúng tôi để nguyên văn mà giải nghĩa ở phân chú thích.

Ngoài phần dịch mỗi tập, chúng tôi đều có thêm phần chú thích. Những từ ngữ chuyên môn, những bịnh danh, bịnh chứng và mạch tượng đều có chú thích tỷ mỷ rõ ràng.

Những bài thuốc nếu là cổ phương đều ghi xuất xứ và có so sánh các vị thuốc cùng liều lượng của nó.

Những vị thuốc trong 2 bài Phú (Nam dược quốc âm phú và Trực giải thuôc Nam dược tính phú) đều có chú thêm về tác dụng chữa bịnh và tên khoa học. Vị nào còn hàm hồ, chưa đúng tên gọi đều có nhận xét, phân tích.

Những tên gọi cây cỏ trong 2 bài phú có một số từ Hán và từ Việt như : Tố tiết thảo, Dạ chiếc phong, Đại đông cô.. Xuân đăng, Truyền đăng, Hoàng dương, Đò ho, Dành cả, Trọng xuân, Đồng đồng, Lộ mướp, Đồ khu v.v… có thể là tên gọi thời xưa hay tên gọi của địa phương, chúng tôi chưa tra cứu được, còn để tồn nghi thì đánh dẩu hỏi trong ngoặc (?)

Nói chung, cuốn HỒNG NGHĨA GIÁC TƯ Y THƯ là loại sách thuốc cổ, trong khi biên dịch gặp nhiều khó khăn về văn từ, nhất là Dược vật.

Chúng tôi đã cố gắng tra cứu, các sách nhưng còn nhiều thiếu sót, mong các độc giả bổ khuyết cho.

NHÀ XUẤT BẢN Y HỌC


TỰA
Nước ta từ khi lập quốc trên cõi Nam, kể có hàng trăm nghìn người làm nghề thuốc ; nhưng hỏi đến việc trứ thư lập ngôn, để mở bến bắt cầu cho người hậu học, thì như tìm cá trên ngọn cây, thật hiếm thấy. Gần đây, có bậc lão sư, hiệu Tuệ Tĩnh, người làng Nghĩa Phú, huyện Cẩm Gìang, phủ Thượng Hồng (1). Ông là một nhà sư, mà nghiên cứu rộng về lẽ Âm dương huyền bí. Tìm hiểu sâu về đạo Kỳ, Biển (2) tinh truyền ; từng soạn tập Bản thảo bằng quốc âm. Tất cả hơn 630 vị ; lại đem kinh nghiệm của bản thân, gồm 13 chương chữa tạp bịnh, và 37 trùy pháp chữa bịnh Thương hàn, đều diễn thành lời ca tiếng Việt. Sắp cả làm một pho sách, để chỉ lối mê, mở đường lấp, giác ngộ cho người đời này, (3) dụng tâm thật là nhân hậu tốt đẹp. Sách biên soạn xong, đã đưa khắc bản mà in ra, bản in để tại chùa Hộ-xá huyện Giao-Thủy (4). Nhờ đó, người trong vùng đều có một đường hướng chỉ Nam về việc chữa bịnh, lưu truyền đến nay ; tiếng tăm đã vang dậy bốn phương.

Mùa Xuân năm Đinh Dậu (5), nhà sách Liễu, chàng đem sách này dâng lên Vương thượng (6), sau khi ngự (7) xem, Vương thượng thấy chữ khắc còn nhieuf chỗ sai sót, mới sai các quan trong Y-viện khảo duyệt kỹ lưỡng, chỗ nào lầm lẫn thì sửa đổi lại, chỗ nào sai trái thì đính chính lại, sắp xếp thành thiên mục, chia làm 2 tập thượng hạ, sách tu sữa xong ; Vương thượng ban tên là “ HỒNG NGĨA GIÁC TƯ Y THƯ” (8) và giao cho nhà sách khắc bản ấn hành, truyền bá chung cả nước, để ân đức được dội khắp trong thiên hạ, chờ thấy dân ta đều tiến lên cõi thọ, đời này cùng hưởng đài xuân (9) ; thật một việc bổ ích không phải là nhỏ.

Bọn thần (10) vâng được mệnh trên giao phó, mừng thấy sách đã hoàn thành, xin được kể sự việc, ghi làm lời tựa.

Nay, mùa xuân năm Qúi Mão (1), nhà sách Hồng liễu muốn được gội nhuần ơn đức, xin tái bản sách này, để lưu truyền mãi mãi.
Ngày lành, tháng đầu Xuân, năm Bảo-Thái (12) thứ IV triều Lê tái bản.
CÁC QUAN THỊ NỘI PHỦ KHẢO ĐỊNH

CÁC QUAN Y VIỆN TÁI KHẢO VÀ BỔ SUNG
CHÚ THÍCH CỦA BÀI TỰA : _______________________________________________________________


  1. Thượng Hồng : xưa là phủ, thuộc trấn Hải Dương, nay là huyện Cẩm Giang, tỉnh Hải Hưng.

  2. Kỳ, Biển : tức Kỳ-Bá, và Biển Thước.

Kỳ-Bá là bề tôi Hoàng-Đế đời thượng cổ ở Trung quốc. từng cùng Hoàng-Đế vấn đáp, đàm luận về Y-lý ; soạn ra Nội-kinh, pho sách kinh điển của Đông-y.

Biển-Thước tên chính là Tần Việt Nhân, một danh y thời Chiến-quốc. Trị bịnh thấy suốt được Tạng phủ con người, không cần chẩn mạch, chỉ trông sắc mặt, nghe tiếng nói mà biết được căn bịnh. Có sách Nạn-kinh truyền lại.



  1. giác ngộ cho người đời này : câu này nói cái chí nguyện bình sinh của Tuệ Tĩnh cũng là ý nghĩa của 2 chữ “GIÁC TƯ” tên sách đó (lấy chí nguyện mà đặt tên sách).

  2. Giao Thủy : tên huyện, xưa thuộc trấn Sơn-Nam hạ, nay thuộc tĩnh Hà-Nam-Ninh. Hộ xá la ngôi chùa mà Tuệ-Tĩnh tu hành, thuộc huyện này.

  3. Đinh Dậu : tức năm Vĩnh-Thịnh thứ 13, triều Lê-Du-Tông (1717).

  4. Vương Thượng : chỉ Chúa Trịnh-Cương, chúa đương quyền ở thời ấy (người đời Lê, gọi vua Lê là Hoàng-Thượng, gọi Chúa Trịnh là Vương-thượng, vương là tước phong của chúa Trịnh).

  5. Ngự : một từ dùng chỉ những sự việc gì thuộc về vua chúa (như ngự chế, ngự lãm, ngự tứ v.v…)

  6. Hồng Nghĩa Giac Tư Y Thư : pho sách thuốc Giac Tư của vị danh y ở Hồng Nghĩa. Hồng nghĩa tức Thượng hồng và Nghĩa phú, dùng tên quê hương và cũng là tên phòng sách của Tuệ Tĩnh để đại biểu cho chính ông (thời xưa thường không nói tên chính, chỉ nói tên quê hương hoặc tên hiệu thôi). Giác tư : giác ngộ cho người đời này. Hai chữ này lấy câu “ Dĩ tư đạo giác tư dân”, nghĩa là lấy đạo lý này mà giác ngộ nhân dân này (2 chữ TƯ đều là đại danh từ, đạo lý này chỉ đạo lý Nghiêu Thuấn ; nhân dân này chỉ nhân dân thời ấy). Lời của Y-Doãn, một viên tướng đời Thương, Trung quốc (1766-1721, trước Công nguyên). Nói lên quan điểm muốn cứu giúp nhân dân của mình. Y-Doãn cũng là một vị minh-y đời ấy. Ông có soạn cuốn “THANG DỊCH LUẬN”, dựa theo Thần Nông Bản Thảo Kinh mà chế ra thang dịch, mở đầu cho phương tễ học đời sau này. Các phương Thương-hàn, Kim-Qũi của Trương-Trọng-Cảnh đời Hán, phần nhiều cũng bắt gốc ở đó. Đây mượn lời Y-Doãn đặt tên sách, có ý nói sách này sẽ chỉ dẫn cho người làm thuốc dời này một đường lối y-học chân chính và sáng tạo. Theo cái hoài bảo cao cả của vị đại danh y Tuệ Tĩnh, một Y-Doãn của Việt-Nam.

  7. Đài Xuân : nói cảnh vui tươi của thời thái bình thịnh trị.

  8. Thần : lời những người bề tôi xưng với vua chúa.

  9. Quí Mão : tức năm Bảo-Thái thứ IV (1723) nói ở dưới.

  10. Bảo Thái : một niên hiệu của Lê-Dụ-Tông. Triều Dụ-Tông có 2 niên hiệu, trước là Vĩnh-Thịnh, sau đổi là Bảo-Thái.


I – BÀI PHÚ THUỐC NAM BẰNG QUỐC ÂM
(NAM DƯỢC QUỐC ÂM PHÚ)

Gồm 24 vần



Chín khéo thiêng
Trời sinh một tính,

Vật hóa muôn loài.

Đôi khi âm dương chuyển vận,

Bốn mùa hàn thử vãng lai.

Người chịu khí trung hòa, nhân thuở cảm thương (1) sẩy phải,

Thuốc dòi phương gia giảm, dùng thời thực hiện chẳng sai.
Nhớ xưa
Bàn cổ (2) hóa nên,

Thần Nông (3) nếm biết.

Nghĩa đặt có tá, sứ, quân, thần,

Tính xét biết ôn, lương, hàn, nhiệt.

Thương dân yểu trát (4), tiên thánh đà chép để đồ kinh (5)

Vui đạo dưỡng sinh, hậu học xá tìm nơi diệu tuyết (6).

Tôi Tiên sư (7) kính đạo Tiên sư,

Thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt (8).
Trước xá nói
Bạc, vàng, đất, nước,

Ngọc, đá, sắt, gang.

Tuyết diêm (9) yêu thay muối trắng,

Vân mẫu (10) tốt bấy vẩy trang.

Cửu-khổng tên ấy Quyết-minh (11), chữa mục hôn (12) ắt hiệu.

Thạch-cao gọi rằng Phương-giải (13), ngăn đầu thống (14) khôn đang.

Cứt dơi gọi Dạ-minh-sa, vốn là phân Biển-bức (15)

Sơn-mài là Đại-giả thạch, sinh ở núi Phượng-hoàng.

Luyện thủy-ngân bảo rằng Khinh-phấn,

Lọc nước đất gọi ấy Địa-tương(16).

Trần thạch hôi là bột hòn vôi. Đất trên mặt vách, gọi Trần-bích thổ.

Mật đà tăng (17), là cặn lò bạc. Muội dưới trôn nồi gọi Bách-thảo-sương (18)

Tích lịch châm (19) được lưỡi tầm sét.

Giao đạo thổ (20) lấy đất ngả đường.

Đinh diêm gọi Diễm tiêu, Quan phấn ấy phấn dồi mặt.

Hòn lạnh gọi Hoạt-thạch, Huyền-tích này thuốc quang gương.

Thu thạch là cặn đái để góp (21)

Hồ phấn là phấn chì tô quang.

Đất giữa đường cái gọi Thiên-bộ phong nê (22) nắng cả đóng nên hàng giáp tháp (23)

Nước trên cọc rào gọi Bán-thiên hà thủy (24), mát thay giải được khí Dương cang (25)

Nước đái trẻ con gọi Đồng-tử tiểu tiện.

Đũng quần đàn bà là Phụ-nhân côn đang.

Nguyệt hạ thổ, Phục-long can (26) : khoét giữa đất bếp.

Lương-thượng trần, ô long vĩ : giủ bụi trên rường

Ngõa lăng đài là rêu phiến ngói.

Viên thượng y ấy rêu mặt tường.

Cứt sắt gọi Thiết-y, Nao-sa (27) ấy cát sỏi cũ (?)

Vảy sắt gọi Thiết-lạc, châm-sa (28) này Mạt-kim lang (?)

Xích hàm (?) mặn thay nước chạt.

Kim tiết (29) đỏ chói hột vàng.

Lại có
Chì hỗn Thủy ngân, là Duyên-bạch sương, để trong cóng dấm mà nên,

Bạc hỏa Tiêu thạch, là Sinh-ngân tiết, đốt lấy Thủy ngân sở hóa.

Quả cân, gọi Xứng chùy, Tỉnh xứng.

Đất thó, gọi Thiện thổ, Bạch á (ác) (30)

Ngưu xỉ, là Thạch bồ tát, cho biết cái răng trâu.

Hạt trai, ấy ngọc Trân châu, chớ lầm con mắt cá.

Từ thạch, ấy đá nam châm,

Vữ bạc, thật là mưa đá.

Cổ văn tiền là tiền cũ. Nhiệt thổ óng, chụm ba đầu rau (31) đứng quanh.

Tự nhiên đồng, là đồng ròi. Thủ hỏa bà, đặt một hòn lốc ngồi giữa.

Phục long thỉ, ấy tro cửa bếp vật hèn.

Đăng tàn, vốn là than hoa đèn điềm lạ.

Tự nhiên trấp (32), có sở dụng làm mặt thuốc, đâm rồi vắt lấy ròng ròng.

Đảo lưu thủy, cầm nước đổ lên mái nhà, đượm khí (?) chảy xuôi lã chã.

Kim tinh, Ngân tinh, ấy vàng bạc thô. (33)

Kim bạc, Ngân bạc , là vàng bạc lá.

Duyên hoa, là Đơn (34) thuốc, Mai để hoa (35), muội dưới xanh gang.

Thổ chu, là Sơn nham (36) ; Lô cam thạch (37). Cam lồ nung lửa.

Vô hôi, Đậu lâm, Phiến trà, Thanh chước (38) chín đều những giống nen riêng.

Vô căn, Quát thủy, Đông lưu, Tỉnh hoa (39) thật cũng một dòng nước lã.

Nam tử âm mao, là lông dái đàn ông,

Dựng phụ trảo giáp, là móng tay gái chửa.

Não chi (40) khều cứt dáy, nghiện uống rượu, nếu phải thời dừng.

Phát bi (41) cắt tóc ngòi, chảy máu cam, dịt tra liền đã.


Hợp cho thông
Kìa loài ngọc đá,

Nọ giống cỏ săng.

Xuân hoa, nhụy ; Hạ tìm cành lá.

Đông cỗi, rễ ; Thu lấy trái trăng.

Ý dĩ nhân, (42) tính vốn chữa phong, là hạt Dũ-dĩ.

Tất trừng già, (43) công hay trị sán (44) là hạt Màng-tang.

Lá tía sau, ấy Bách thiên liệu (45)

Dây bạc sau, này Chấp-miên đằng (46)

Rêu cau, gọi Lang-đài ; lá Đinh cay (?) là Tân đàn diệp.

Lõi thông, tên Tùng cốt (47) ; củ Bồ nâu, ấy Vũ dư lương (48).

Lục lam (49) diệp, lá chàm vò tựa lục (50)

Hương lam diệp (?) lá chàm thơm như hương.

Bạch đồng nữ, Xích đồng nam(51), hoa đau mắt phân loài đỏ trắng.

Tân lang nhân, Đại phúc tử (52), hạt quả cau ghẽ có âm dương (53).

Dã ưu đàm (54) là quả ngái nhựa,

Sơn thự dự, ấy củ mài rừng.

Dây cóc, gọi Hương Đằng ; quả Giun là Sử quân tử.

The móc, tên Sam móc (55) ; phấn nứa gọi Thiên-trúc hoàng.

Tố thiết thảo, lấy Đồ khu trắng, dưới vũng (?)

Xích diện thảo, (56) hái Bà a đất, bên đường.

Bách bộ (57) căn, nhiều bấy củ Trăm, cỏ Màn chầu, là Thanh tân thảo (58)

Thiên lý hồi, yêu thay lá Giấp (59), củ riềng ấm là Cao lương khương.

Đô cấp sự trung, độc dữ củ Cam toại (60)

Cốt ngạnh nguyên quân, rắn rỏi củ Kim cương (61)

Cam lộ bì, là vỏ chành chành.

Đại bì đằng là dây Rung rúc.

Thương nhĩ tử : bóc hạt quả Ké ; Lão bồ đằng : rút dây Đỗ dầy.

Trường mệnh diệp : hái lá đau xương ; Dạ hô căn : đào củ Thương lục (62).

Vỏ cây Quế : ấy Quan quế bì,

Thịt quả Đào : tên Hồ đào nhục (63)

Chỉ huyết băng : tìm bông cỏ Nến ; vốn gọi Bồ hoàng,

Thông tâm bế : hái ngọn Thài lài, có tên Biển súc (64)

Cỏ rái quăn tục, gọi Sơn đằng (65)

Cây rau Xước, người rằng Sơn phục (66)

Khu trừ quỷ mỵ, luyện Đào-giao (67) nấu nhựa cây đào,

Tiêu hóa phong đờm, thiêu Trúc lịch (68) đốt lửa cây Trúc.

Hương cái tử (69) ngon thơm quả Gai (?)

Phật đầu anh, (?) tốt lành nụ Cúc.

Dây nắm cơm, danh Hồng nội tiêu, (70) Yến thảo là Linh lăng (71)

Vỏ Núc nac (72) gọi Hoàng bá ; Thử nhĩ là Thử khúc (73)

Vỏ quả Bưởi tên ấy Cam phao,

Vỏ quả Cau, danh rằng Đại phúc.

Điền câu (?) là củ Chóc ; quả Lộ mướp (?) chua lấy Toan tương(74)

Điền vú ấy củ khoai ; cải lú bú ngon thay La bặc (75)

Thủy hồng hoa, gọi cây Đồ khu (?)

Bạch địa dương (76) rằng cây Đồng ốc (?).


Đến nhân (77)

Ngải Diệp danh là Ngải,

Sa nhân gọi Súc sa (78).

Ghét trục xe, là Xa du chi phấn (79)

Chê lưỡi sẻ, là Tước Thiệt (80) hảo trà.

Bạch lực (81) cây lăn tăn những gai ; lá ké ươm tên Tiễu kim diệp.

Hắc lực, cây quít rừng dầy lá Hạt Thầu dầu, gọi Thảo Ty ma.

Lõi vang rằng Tô phương mộc (82)

Bông Lam gọi Hồng lam hoa (83)

Hạt cuốn (?) gọi Nhụy nhân (84) ; Áp chích thảo (85) là cỏ chân vịt,

Hạt cải gọi Giới tử ; Phượng vĩ thảo (86) là lá Đuôi gà.

Giả tô, Bạch tô (87) ấy bông Kinh giới,

Kê tô, Thủy tô (88) này lá Bạc hà.

Gia cửu thực, ấy hạt Hẹ, có tên “Nhất chủng cửu sinh tử” (89)

Cẩu niệu đài (?) là nấm chó, có tên “Triều khai mộ lạc hoa” (90).

Kim ngân, tả triền, cùng một giống Nhẫn đông thảo (91)

Kim ngân đại tử, cùng một giống Cẩm địa la (92)

Hồ tuy là Mùi tui ; Thạch lựu bì, ấy vỏ Thạch lựu,

Cỏ Bồ là Niềng niễng ; Bà a diệp, này lá Bà a (93).

Cỏ Thanh ngâm tên thảo Long đởm,

Dưa chuột dại, gọi Dã thử qua.

Tần bì (94) là vỏ cây De ; Xích tiêu đằng là dây Răng bà ngựa (?)

Lý bì, là vỏ cây Mận ; Bạch tu đằng là dây râu ông già (?)

Độc sinh thiên đinh : (95) hái gai Bồ kết,

Đa thích trúc duẫn, bẻ măng La ngà (96)

Mạc ly căn là rễ Nhài ; cây cỏ dùi trống, tên Đới tinh thảo (97)

Khổ trúc duẫn (98) ấy Măng lẻ ; hạt quả Lú bú, gọi Hồ lô ba (99)

Tông lư tử, người rằng quả Móc.

Trư đỗ tử, ta gọi trái Đa (?).
Lại hay

Túi góp trăm mùi,

Vườn trồng mọi vật

Tân trần (100) kiến hiệu, vỏ quít chia Thanh bì, Trần bì,

Hoãn cấp (101) thu công, quả Trấp phân Chỉ xác, Chỉ thật (thực).

Vỏ Bưởi ngọt, gọi ấy Cam bì,

Lá Qúit hôi, tên rằng Xú quất.

Đại hải là dây Đài hải (102) ; Xích châu đằng (103) ấy dây Quanh châu.

Xuân đăng là cây Truyền đăng (?) ; Dạ chiết phong là cây Móng đất (?)

Quả Na, vốn gọi Qủy thần,

Cỏ Xước (104) có tên Ngưu tất.

Cao sơn hương là rễ cây Dã (?) ; lá Trầu không, chỉn ấy Củ tương (105)

Ưu đàm bì, là vỏ cây Sung ; củ Nghệ máu, thực này Nga truật (106)

Lang hoa, gọi ấy Tua cau,

Lật thảo, bảo rằng lá Lật (?)

Đỗ nhược, là Dành cả (?) ; bông Mộc mạch (?) còn gọi Hồ ma,

Hoàng dương, là Đò ho (?) ; lá Thường sơn, có tên Thực tất (107)

Phấn mệnh đằng (?) trắng bấy dây Vôi,

Bạch đường vị (?) ngọt thay dây Mật.

Lúa Chiêm, tên là Mạch ; nấu gạo nếp mới được Di đường (108)

Lúa Châm, gọi là Đồng (109) ngào mật mía liền nên Thạch mật (110)

Vỏ Dâu, tên ấy Tang bì,

Ích mẫu, gọi rằng Sung uất (111)

Biết vậy
Nên danh thầy giỏi (112)

Dùng thuốc có công.

Mộc hồ điệp, giũ (?) cây Núc nác,

Hoạt lộc thảo, hái lá Xương sông.

Đại dẫn đằng, là dây Lõi tiền ; Đạm trúc diệp, xanh xanh lá trúc (113)

Thanh long đằng là dây Lồng trống ; Thích đồng bì, sàn sàn vỏ Vông.

Ba đậu, Giang tử (114) bóc hạt Mần để,

Mao sưu, Thiến căn (115) đào rễ Kim luông.

Tráng dương, dùng Thanh cao rừng ; gọi Xà sàng tử (116)

Bổ âm, lấy củ Tóc tiên, gọi Mạch môn đông.

Hồ điệp đằng, ấy dây Bươm bướm,

Trọng xuân hoa, mày bông Đồng đồng.

Tiểu xà thiệt, Vương tái tô : là cây Nọc rắn,

Hồ tôn khương, Cốt toái bổ (117) ấy cây Tổ rồng.

Tòng bì, xé bẹ cây Móc,

Tùng la, hái gửi cây Thông.

Giải biểu nhiệt tìm lấy Cát căn, to thay củ Sắn,

Chỉ khái nghịch, tìm đòi Thị đế, nhỏ lấy Tai hồng.

Quả Trám tên Cảm lãm,

Bông lau gọi ấy Bồng nông (118)

Sương thị (119), là quả Hồng phơi khô ; cây Nể tên rằng Hoang Nể (?)

Ô thị là quả Hồng xông khói ; Ruột gà gọi ấy Mộc thông.


Thực tế
Mơ lông, gọi My mao (?)

Bưởi bung, tên Cát bối (?)

Tham sơn căn (?) là Tóc tiên núi ; Úng thái trồng bè muốn lênh đênh,

Thiên môn đông là Tóc tiên leo ; Du long hái rau Dừa yếu đuối.

Thảo giao, lươn lướt bãi Gon,

Thảo tạ, xanh xanh bờ Cói.

Xuyên tiêu, Hoa tiêu, Hán tiêu, cùng là hạt Sẻn cay,

Sương mai, Diêm mai, Bạch mai, cùng là quả Mơ muối.

Ô cữu, đào lấy rễ Sòi,

Hoàng anh, khoét về vỏ Duối.

Xuyên chu tử, ấy quả Bồ chỉ (?) ; Ô mộc gọi ấy cây Mun,

Kim linh tử, thực quả Sầu đâu ; Tử cối, bảo rằng cây Gội.

Tịch thư thảo (?) là cỏ Thuốc giòi,

Nguyễn cộng diệp (?) là lá Thuốc muỗi.

Luật thảo (120) diệp, hái lá Đinh cai ; Da biều, ấy sọ Dừa khô,

Ngũ vị tử (121) lấy hạt Nắm cơm ; Ô mai, thực Mơ hun khói.

Phong hương (122), thơm lấy nhựa Sau,

Đường cầu, ngọt thay quả Bối (?)

Biển hoa, là hoa đậu Ván ; Long nhãn khuẩn, hái meo (nấm) nhãn trên cây,

Lô căn, là rễ cây Lau ; Thạch xương dương (123) lấy Xương bồ dưới suối.


Ấy chỉn
Cây Vú bò, tên rằng Ngưu nãi (124)

Cỏ Roi ngựa, gọi ấy Mã tiên.

Củ Lẵng, rằng Vương qua, Thổ qua (125) Thạch toàn căn, (126) ấy củ Tỏi đá.

Gạo Nếp rằng Đạo mễ ; Nhu mễ ; Bạch long bì, (127) thực vỏ Chu biên.

Thảo tam lăng (128) là cây Dừa nước,

Sơn tam nại, ấy củ Địa liền.

Ô phiến, Xạ can, Tiên nhân chưởng, là cây Qủy phiến (129),

Huyên thảo, Lộc thông, Nghi nam thảo, là cây hoa Hiên (130).

Trúc nhự (131) : cạo tinh cây trúc,

Liên phòng : hái gương cây Sen.

Bạch đàn hương, ấy hương Bạch đàn, xưa lấy làm lục cúng (132)

Trầm thủy hương (133) này hương Trầm thủy, cũng cảm đến chư thiên (134)

Khổ luyện đằng (135) là Tầm bóp rừng ; cây mía voi tên rằng Tượng giá.

Sơn hàn căn, là cây Chàm núi (?) ; hột vó ngựa (136) gọi ấy Xa tiền.

Bản lam căn (137) đào rễ Chàm cả,

Ngô lam (138) diệp, hái lá Chàm đen.

Sơn khương (139) là củ Hoàng tinh ; dây mỏ tên rằng Triệt lộ.

Tiễn thảo (?) là củ Bạch thược (140) ; Má họ, gọi ấy Liên tiền (141)

Nam Nhân sâm là củ Cát muộn (?)

Hột Cứu chi (?) là quả Hoàng nàn (142).

Đại đậu quyển (143) : mộng đậu cả phơi khô ; Hoàng mao (?) lông mao vàng chói.

Địa duẫn căn : rễ Màn tưới (?) rữa sạch ; Thanh đại : bột chàm xanh đen.

Hoa Cúc trắng (144) rước Diên thọ khách (145)

Hoa Cúc vàng (146) mừng Phó diên niên (147)

Hoàng kinh lịch (148) hay chữa phong đờm, đốt lấy nước Kinh lịch,

Mẫu đơn bì (149) hay trừ kết khí, bóc lấy vỏ Mẫu đơn.


Cho biết
Quỷ cửu (150) là khoai Nưa,

Uất kim là củ Nghệ.

Thần khúc (151) chế, ấy Bánh men thuốc, hay tiêu thực kiện Tỳ (152)

Nhân trần cao, này Nhọ nồi rừng (?) công trừ Đản lợi thủy.

Yêu đào tử, tốt lọn lọn quả Roi,

Dương đào tử (153) chua lòm lòm trái Khế.

Chữa bao nhiêu rắn cắn, Phù dao diệp hái lá cỏ May,

Trừ hết mọi chứng Phong, Thương nhĩ (154) diệp hái lá cây Ké.

Quả Bồ hòn, gọi ấy Mộc hoàn (155)

Vỏ Bồ hòn, tên rằng Mộc quý (?)

Chỉ ma là hạt Vừng ; Ma du là dầu Vừng ; cũng gọi hạt Mè.

Xích liễu là Rám rừng ; Thủy liễu là rám nước , cũng tên cây Nghể.

Hòe giác (156) khúc khuỷu quả Hòe,

Ích trí : thơm cay quả Ré.

Thương mễ, Trần mễ, người gọi gạo xưa,

Đông qua, Bạch qua (157) ta rằng quả Bí.

Chỉ thiên thảo (58) là cây Lưỡi chó, còn gọi Thiếp địa phi,

Phượng tiên tử, là hạt Móng tay, có tên Dương thị Chỉ (?)

Thụ kiếm duẫn (?) bẻ măng cây Qùy.

Cứu liệu căn (?) đào rễ Bồ chỉ.

Quân khương, Bạch khương (159) củ gừng xôi khô, gọi ấy Can khương.

Điềm qua, Đinh qua (160) núm Dưa la đá, tên rằng Qua đế.

Dây Máu, là Đại huyết đằng,

Nước Hành, là Thông bạch thế.

Hà thủ ô (161), ấy dây Sữa bò, có tên Hợp hoan đằng,

Kê hoan hoa (162) thực cây Đuôi muông, có tên Thanh tương tử.

Kỳ nam hương, hương càng thơm lạ ; Mơ non gọi Vương mai (?)

Kinh hảo mặc, mực thật tốt rồng ; Lá dâu tên Đế nữ (?)

Rễ Sưng, gọi Hoàng lực (163) ; quả Thù (?) tên Thực thù du (164)

Lá Mái là Thanh niêm (?) cây Dẻ, hiệu Thô lô để (?)

Cuống lúa Nếp, tuốt lấy Thử nhưỡng,

Dây chỉ đen, hái về Ô lệ (?).


Người những rằng
Toan tương thảo (165) là cỏ Chua ác (?)

Toan giác tử (166) là quả chua Me.

Sa thảo căn : đào củ Gấu ; có tên Hương Phụ tử,

Nam Mộc hương, gọi vỏ Dụt, có tên Khổ long bì (?)

Meo (nấm) cây Dâu, tên rằng Tang nhĩ,

Nhựa cây Thông, gọi ấy Tùng chi (167)

Chủ tiêu hóa phong đờm, nghiền Tạo giác (168) là quả Bồ kết.

Trừ sơn lam chướng khí, lấy Hậu phác là vỏ Vối kê (?)

Dược già, hái lá Cà dược,

Bạch chi, đào củ Câu chi (?)

Thanh dương tử, ấy quả Găng xanh ; cây Xương rồng, là Mộc long cốt (169)

Tử tô tử, là hạt Tía tô ; củ Địa hoàng, là căn Dương đề (170)

Cỏ Tháp bút, tên rằng Mộc tặc (171)

Lá cây Man, gọi ấy Dã xi (?)

Da tương, ngọt bấy nước Dừa ; Hy thiêm (172) ấy cây cỏ Cứt lợn,

Quất hạch, đắng thay hạt Qúit ; Gìa tử, này hạt cà Dái dê (?)

Cỏ Bồ cốc, là Thiềm thừ thảo (?)

Lá Vó ngựa, là Hà ma y (?)

Thanh đậu, rằng Đỗ xanh ; Bạch cản phẩn (?) rây bột gạo làm bánh,

Xích đậu, gọi Đỗ đỏ ; Đại ma tử (?) nấu hột Gai uống chè.

Chử thực (174) lấy quả cây Dướng.

Hòe nhĩ, hái meo (nấm) cây Hòe.


Thế những gọi
Thục quỳ tử (175) bóc hạt Vông vang,

Phù lão (176) diệp, hái lá Đồng trạo.

Mao hương, là lá Sả ; tim cây Hẹ, gọi Cửu hoàng tâm,

Trữ căn (177) là củ Gai ; cỏ Thanh tảo, hiệu Trường sinh thảo (?)

Quả mướp đắng, người gọi Khổ qua,

Hạt Táo chua, đời rằng Toan táo (178)

Thanh điều, Thiết phiến (?) một giống, quả rễ cũng là cây Cà Ông (?)

Phát độc (?) Hạc sắt (179) đôi loài, vàng biếc phân ra cỏ Nâu áo (?)

Bưởi rừng, chỉn ấy Dã du,

Rong bể, thực này Hải tảo.

Tây qua là dưa Hấu ; Hoàng qua là dưa Chuột, cũng gọi quả dưa,

Tỉnh mễ là gạo bạc ; Thanh mễ là gạo Xuân, cùng tên hạt gạo.

Sơn thù du (180) ấy quả Trám cơm (?)

Cửu ngưu đằng (181) này dây rau Đậu (?)

Qua lâu căn (182), Thiên hoa phấn, rễ Đam hay giải khát trừ phiền,

Sơn ngạnh phạn, Thổ phục linh (183), Khúc khắc, hay chữa phong thiên pháo (184)

Can hà, phơi lá sen khô,

Giáng huyết, tìm cây Gíac máu.

Hạt sen già, tên Thạch liên nhục (185) ấy phương cửu phục hoàn đồng (186)

Rễ Cẩu kỷ, gọi Địa cốt bì (187)này thuốc Trường sinh bất lão.

Quỹ kiến sầu (188) gọi Bạch tật lê,

Quả Riềng ấm, là Hồng đậu khấu (189).


Nhận cho biết
Làu làu trăm ngọn cỏ,

Thay thảy mỗi đầu cành,

Khương hoàng, sát vang củ Nghệ,

Thông bạch, bóc trắng củ Hành.

Phong tử là quả cây Sau ; Xa tiễn mộc, rừng nhiều lõi Sến,

Chương não (190) là nhựa cây Dã ; Sơn chi tử, núi có quả Dành.

Rễ Vuốt hùm, danh Trần sa lực (?)

Hạt đậu Muồng, gọi Thảo quyết minh (191)

Ty qua, lá Mướp canh, lại có danh Long nhị (?)

Vân đài (192) là Giấp cạn, lại có hiệu Ngư tinh.

Quỷ thiệt, lặt lấy là Xuân (?) ; quả đen là Thanh điên tử (?)

Quỷ nhĩ, xét tìm Meo (nấm) Dứa ; Bèo ván là Tử phù bình (193).

Vỏ cây Dành, tên rằng Sơn quế (?)

Rễ Cau vậy, gọi ấy Thủy anh (?)

Quát trần, là cỏ May ; Đại toán ta rằng củ Tỏi,

Đăng tâm là tim bấc ; Trành căn, người gọi rễ Chanh.

Đau họng, lấy củ Đậu mèo ; thực cây Sơn đậu (194)

Hóa đờm, dùng củ Chóc chuột, chỉn giống Nam tinh.

Giải ty (195) tên rằng Phòng kỷ,

Thạch hộc, gọi ấy Cấm sinh (196).


Chớ cho thế
Đại động cổ, rút dây Đồng trống (?)

Tích lịch căn (197) đào củ Tầm sét.

Hí già tử (198) là hạt cà Quánh ; Thục thầm quả dâu chín muồi,

Sơn đan diệp, là lá Bái đơn (?) ; Hoàng tiết mầm cây Hoàng tất (?)

Lá Mần tưới, gọi Trạch lan hương,

Lá Xương bồ, rằng Dương xuân tuyết (?)

Bạch cự là Diếp đắng ; cây Dâm bụt (199) gọi Tiểu bạch hoa (?)

Đình lịch, là hạt Đay, cây Chạng ba tên Đại ô miết (?)

Rễ Nút nác, đời gọi Đàn hoàn (200)

Quả cây Lốt, người rằng Tất bát.

Mạn kinh tử, Quan âm diệp, là cây Quan âm,

Cảnh thiên thảo (201), Bồ tát căn, là cỏ Bồ tát.

Cây Bồ ngâu, gọi ấy Mộc ngưu,

Hạt quả Gấc, thực này Mộc miết.

Xuân căn (202) đào rễ bông Bụt (?) ; Nhị sắn, gọi Cát hoa.

Sư căn (203) khoét rễ dâu rừng ; Ngó sen tên Ngẫu tiết.

Đậu xị, chỉn tạo Đỗ đen,

An tức, thực này Hương tiết.

Úc lý nhân (204) là nhân hạt Mận ; Khổ già (205) ấy cà Cỏ gai.,

Bạch mao hoa, là hoa cỏ Tranh ; Khổ ất, này cây Lộ biếc (?)

Hoa Thung, gọi ấy Lăng tiêu (206)

Má tía, tên rằng Ngoạn nguyệt (207).

Biển đậu là hạt đậu Ván ; Phong khương (208) gọi ấy Gừng phong.

Quỉ trửu (?) là lá Đại bi ; Phạt khương (209) tên rằng Gừng phạt.

Lệ hạch lấy hạt vải ăn rồi,

Lan mao, tìm tranh săng cũ nát.


Đã biết chưa
Cẩu vĩ thảo (210) là cỏ đuôi chó,

Ngũ gia bì, ấy vỏ (cây) Chân chim.

Hòe hoa, rang hoa Hòe ; Quang lang tiết, lọc phấn Búng báng (211)

Du tiền, cạy nảy Bưởi ; Khiên ngưu tử (212) tìm hạt Bìm bìm.

Hắc nhân tinh, đen thay hạt Nhãn,

Thiết lâm khuẩn, độc bấy nấm Lim.

Xích lị công, là Nhài công ; Bạch lị tử (213) là Nhài tử, đỏ trắng nên phân biệt,

Đại kim đường (214) là quả Sống (?) ; Tiểu kim đường là quả Roi, cả mọn (215) xá biết xem.

Tử niêm bì (216) khoét vỏ cây Sắn.

Đảo niêm diệp, hái lá cây Lim (?)

Mộc bút (?) gọi búp Đa ; cỏ Gừng, thật này Khương thảo,

Câu vẫn (217) tên củ Ngón ; cây Mua, chỉn ấy Bạch niêm (?)

Huyết thụ (218) là cây Huyết dũ,

Đào tiềm, là cây Đào tiềm (?)

Đậu hương, gọi Hương nâu (?) ; Tiểu mạch nha, ấy mộng mạ Ré,

Hương như, tên Hương nhự ; Đại mạch na, này mộng mạ Chiêm

Quả Lai (219) tên tướng quân mạo (?)

Mũi chông, gọi Xích trúc tiêm.

Mao đậu đằng, là câu Đỗ lông (?), vườn bụi nên rút lấy.

Sanh mộc thảo, là Muội nồi đất (220) vũng bờ phải xét tìm.


Có vậy chăng
Hạ khô thảo (221) bẻ cây Cải rừng,

Hướng dương quỳ (222) hái rau n p bợ.

Khổ thái là rau Ngổ (?) ; Ô rô diệp gọi ấy lá Lài (?)

Cam giả là Mía mưng ; Lậu lô căn (223), bảo rằng rễ Dứa (?)

Thấu giáp hương (?) bóc quả chanh chua,

Dã vú căn (224) cạo củ Rái ngứa.

Nụ Hải đường, giấc xuân dậy sớm mà mặt ngọc đeo say (225)

Lan quốc hương (226) thang nước tắm xong thoảng mùi hương có xạ.

Vô can đằng (227) là dây Tơ hồng,

Vô can quả (228) là quả cây Vá.

Ô dược, đào củ ô dược, Cẩu noãn tử (229) chỉn ấy quả Chay,

Hồ tiêu, đâm hạt Hồ tiêu, Kim đầu tử (230) thực này quả Bứa.

Rau Cần, ấy gọi Lục anh (?)

Quả Nhót, tên rằng Bất xá (231)

Oa cự là Diếp ; Huân thái là Húng ; Điền trác, khéo tròn tĩnh củ Năn, (232)

Giới thái là Kiệu ; Hiện thái là Dền ; Độc cước (233) thương mồ côi rau Má.

Hồng trần (?) cuộn lấy bối rơm (?)

Cảo phiến, kín che Tranh rạ.

Sinh khương là Gừng sống ; Điềm đĩnh thực Mồng tơi (234) leo,

Can tất là Sơn khô ; Ngụ mộc (?) ấy Tầm gởi Bứa.


Sau lại nói
Vũ, mao, (235) cầm, thú,

Lân, giáp, ngư, trùng. (236)

Khoa đẩu đen xì Nòng nọc,

Manh trùng, nhung nhúc Mòng đông.

Địa long là Giun ; có tên rằng Bạch cảnh Khâu dẫn (237)

Thiên long là Rết ; có hiệu xích cước Ngô công (238)

Bọ Ngựa là Đường lang , tức danh Thiên mã (239)

Tắc kè là Cáp giới, hình tựa Thủ cung. (240)

Dế Dũi gọi Lâu cô ; Tử khoáng (241) tia màu Cánh kiến.

Bọ Lậu, là Thử phụ (242) ; Bạch mật thơm ngọt Mật ong.

Thủy diệt là Mã hoàng kỳ (243) ghê thay con Đỉa nước.

Khương lang là Thôi xa khách (244) ;dữ bấy cái Bọ Hung.

Giải hoàng là gạch Cua ; cức lợn đực là Gia trư phấn,

Thiềm tô, ấy tựa Cóc ; cứt Giun khô là Trần thổ long.

Tằm sa, bốc phân Tằm ; vỏ Hến cũ tên Trần hiện xác.

Tước noãn, tìm trứng Sẻ ; tổ Ong tầng gọi Lộ phong phòng.

Tao ty thang, là nước kén ươm tơ ; Mẫn cẩu đởm trấp mổ trái Mật chó đực,

Trá ngư thang, là nước cá làm mắm ; Hùng kê quan huyết cắt máu mào gà ông.

Xích nhãn ngư (245) đởm, là mật cá Rói, hay tiêu thủng độc,

Hoàng mẫu ngưu đởm, là mật bò đực, hay chữa kinh phong.

Oa ngưu là con Sên, có hiệu Kỳ oa,

Phục dực (246) ấy con Dơi, có danh Biển bức.

Giáp hương, thơm thay vẩy ốc ; Lạp trư chi, rán mở lợn đông,

Trẫm độc (247) dữ quá mật Công. Gia thử phấn : tìm phân chuột đực.

Bọ Ngựa cây dâu gọi Tang phiêu tiêu (248) ; chỉn con cái Đường lang.

Mai Mực cá bể là Hải phiêu tiêu, có danh rằng Ô tặc.

Bại quy bản, tìm mai Rùa khô.

Bạch cương tàm, xét con Tằm bạc.

Hắt sắt là con Chấy. Bạch sắt là con Rận. Long sắt (?) ấy Cà cuống ngon cay,

Xà thoái là xác Rắn. Thuyền thoái là xác Ve. Tàm thoái thực Tằm già để xác.

Thạch đầu ngư (249) là cá Dóng. Dã trư ấy Lợn lòi rừng,

Đăng sơn ngư là cá Rô. Hà đồn thực cá Nóc (?) nước.

Ô xà (250) ấy Hổ trâu vật quý. Gan Sẻ trống tên Hùng tước can.

Kim xà (251) thực Mái gầm của yêu. Chân gà Lôi (252) gọi Dã kê cước.

Nhiêm xà đởm là mật Trăn bắt chuột. Hắc miêu cốt lấy xương Mèo đen,

Dã Hồ tâm, là tim Cáo tha gà. Ô kê (253) noãn ấy trứng gà Ác.

Triền hoàng (254) to bấy cá Mai,

Mạn lệ (255) dài thay cá Lạc.

Bọ cạp, tên Toàn yết. Minh linh sào lấy tổ Tò vò,

Sâu đậu gọi Ban miêu. Trần thước sáo, đỡ tổ Bà các (256)

Ngà Voi, trơn chuốt Tượng nha,

Sừng Hưu, sù sì Lộc giác.

Hắc xà,(257) là Hổ mang đen , mọc ba hàng vẩy quay ngang,

Bạch xà (258) Hổ mang trắng, lật hai lỗ mũi trở ngược.


Ấy vậy
Nhân trung hoàng (259) chế phân con trẻ,

Kê bề hoàng (260) bóc màng mề Gà.

Hậu giáp (261) khét lấy mu Sam. Xương sọ Chó, là Cẩu đầu cốt.

Hùng đởm (262) đắng thay mật Gấu. Xương hàm Lợn, là Trư giáp xa.

Hải trá (263) ấy Sứa lòng lầy. Thẩn trách(?) dài thuôn con Trùng trục,

Trạch giải (264) là con Cua đá. Đoàn ngư (265) tròn trĩnh cái Ba ba.

Thuyền trung ngư y(?) là Rêu trong lòng thuyền, chữa Nhiệt phong rất hiệu,

Thủy thượng Truy thù là Nhện trên mặt nước , tráng dương khí cang gia.

Ngưu bì giao, nấu cao da trâu. Vị thích, nhọn thay lông Nhím,

Bại cổ bì, khoét da trống thủng. Linh ngư (?) tốt lấy Tôm bà.

Kim qui trảo là vuốt Rùa ; gọi bảo An dương Vương, này thực Thanh giang sứ (266)

Thủy kê bì là da Ếch; những Cưỡi Công tôn Thuật, ví bằng tỉnh để Oa (267)

Tổ cái Nắc nẻ, danh Thiên tương tử (268)

Tổ Nhện đồng tiền, gọi Bích kính khoa (269)

Ngưu nhũ, ngon lấy sữa Bò (270). Sừng Dê xồm là Cổ dương giác (271)

Cẩu bảo (272) yêu thay ngọc Chó. Cái Sò lông là Huyết mao loa.

Rắn Mối, danh rằng Yết hổ (273)

Chim Ác, hiệu ấy Lão nha.

Nấu sừng Hưu nên Lộc giác dương. Khổng tước mao là lông Công cực tốt.

Hun da Trâu, rằng Ngưu bì phiến (274). Đương môn tử (275) là dái Xạ chẳng ngoài.


Lấy cho được
Rau con so, gọi Tử hà xa.

Sọ Đầu lâu, rằng Thiên linh cái.

Trư yêu tử là đầu đực Lợn. Hậu vĩ nhọn hoắt đuôi Sam,

Ngưu giác tai (276) là ngọn sừng Bò. Thát đởm đắng ngầm, mật Rái.

Bọ mèn, danh ấy Não na (?)

Đồi mồi, gọi rằng Đại mại.

Tức ngư, gọi là cá Diếc. Chương cốt (277) chỉnh ấy xương Nai,

Niêm ngư (278) tên rằng cá Nheo. Miết giáp (279) thực nài mai Giaỉ.

Hoàng xà, rắn Ráo vàng lòng,

Hoàng lạp, sáp Ong vàng chói.

Xương cá Ngạnh tên Ngạnh ngư cốt (?) nó thực rắn xương,

Vẩy cá Gáy gọi Lý ngư lân, ghim (?) càng mềm vẩy.

Ốc Nhồi, chỉn ấy Điền loa,

Cua đồng, thực này Điền giải.

Giày rách, gọi Thiên lý mã (280) thôi sinh phép nhiệm gia tăng,

Ghét lược, là Bách xỉ sương (281). Xuy nhủ (282) phương màu thực phải.

Hải thạch (283) ấy vỏ Ngao để lâu,

Mẫu lệ, chính vỏ Hầu trữ lại.

Cứt Sẻ sống, gọi Bạch đinh hương (284) dành để chế châm (285)

Trứng cá Gáy, là Lý ngư hoa, dùng làm mỹ khoái (286).

Giải quy (287) là ngoe Cua bò ngang,

Giải trảo (288) là càng Cua cắp quái.

Chuồn ông, thực Kim đầu cự vĩ (289, dùng làm tráng khí hung dương.

Bọ Mạ, gọi độc Mâu tiểu trùng (290), hay chữa sang di giới lại (291).

Cứt Ngựa, gọi ấy Mã thông,

Mật Voi, tên rằng Lô hội (292)

Hỏa kê cốt (293), xương chim Điệp điệp,

Xuyên sơn giáp (294) vẩy cái Tê tê.

Hay chữa đậu sang, lấy vỏ ốc là Loa sư xác (295),

Hay trừ lao trái (296) Hải cẩu thận này Ốt nột tề (297)

Thanh ngư đởm, ấy mật cá Trắm,

Tự ngư diên (298), là nhớt cá Mè.

Lộc nhung, ấy sừng Hươu non ; mạt sừng Tê là Tê giác tiết.

Long cốt (299) tìm Xương rồng rũ. Móng chân Lợn là Trư huyền đề.

Triều thiên ngư, bảo rằng cá Chuối (300)

Đới mạo ngư, gọi rằng cá Trê (301)

Nhân nhũ trấp, lấy nước sữa con so còn thơm,

Mã bột (302) làu xàu nấm Dái ngựa.

Nga quản thạch (303) thực đá ống lông Ngan cực rắn,

Dương thỉ lỏn nhỏn hòn cứt Dê.

Phấn mài gương, gọi Long tuyền phấn (?)

Vỏ trứng Gà, gọi Phượng hoàng y.

Tượng tiết (304) tìm nát ông Voi. Xương chân Hùm, tục rằng Hổ hĩnh.

Mã hành (305) lấy não bà Ngựa. Da con Dím, người gọi Vị bì.

Dế đất, danh rằng Thổ cẩu,

Bọ Dấm, gọi ấy Ê kê.


Cho hay
Vật trước mắt, đều những thuốc lành,

Người trên đời, đều lên cỏi thọ.

Trước hiện ba căn lều mọn, ghẽ có thư đường (306)

Sau nhà một mảnh đất thừa, dùng làm dược bố (307)

Chốn vun trồng được toại thửa nên,

Khi phương tiện mặc dầu thửa có.

Đã ắt : thấy dùng hiệu, biết mặt Thượng công (308)

Lại hay : chữa nước, chữa dân, ra tay Diệu thủ (309)

Cảm ơn Thầy truyền, bất tứ phương,

Nhờ đức Thánh mở an sinh lộ (310).


Sãi nay
Tráng tử (311) còn hơi vụng (?) (?) (?) (?) (?) (?) (?)

Vô dật (312) họa khi rồi, dọn Nam dược chép làm một phú.



Bài phú trên, bản cũ có nhiều chỗ sai ; Nay

Dật sĩ tự Pháp Thịnh tra chính, biên soạn lại

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ CHÚ THÍCH ----------------------------------------------------------


( của Nam Dược Quốc Âm Phú )
(1)- Cảm thương : cảm nhiều bịnh tà. Cảm thương đây là một từ, chỉ chung sự cảm nhiễm ; khác với “cảm” và “thương” trong câu “cảm, trúng, thương” cuối tập Y-luận. Nó là 2 từ chỉ 2 mức độ cảm nhiễm khác nhau, xem chú thích tập Y-luận,

(2)- Bàn Cổ : một vị thủ lĩnh đàu tiên của loài người ; theo truyền thuyết Trung-Quôc – Thập-Dị-Kỷ nói : Bàn Cổ là ông Tổ của trời đất muôn vật.

(3)- Thần Nông : một vua đời Thượng cổ Trung-Quốc. Là ông tổ nghề nông, và cũng là ông tổ nghề thuốc. Thàn Nông dạy dân trồng cấy các giống lúa, lại từng nếm các thứ cỏ cây, xét tinh vi hàn nhiệt, độc hay không độc ; dùng chữa bịnh cho nhân dân. Hiện còn truyền lại pho THẦN NÔNG BẢN THẢO KINH : một pho bản thảo đầu tiên ; có nhiều đặc điểm phát minh, làm cơ sở cho cả dược học và phương tễ học đời sau. ( Tương truyền khi Thần Nông nếm các cỏ cây, trong một ngày gặp 70 thứ độc, nhưng lại dùng thứ cỏ cây khác giả đi.)

(4)- yểu trát : chết non gọi là yểu ; chết dịch gọi là trát.

(5)- Đồ kinh : từ nói chung kinh sách. Đồ kinh còn là “Đồ kinh bản thảo”, một pho bản thảo của đời Tống ; nội dung có nhiều khảo chứng, phát minh, các dược vật đều vẽ hình rõ ràng, nên gọi là “đồ”.

(6)- Diệu quyết : phép màu.

(7)- tôi : người làm tôi, chỉ người theo học đạo thuốc (chữ “tôi” đây là danh từ ; đối với chữ “thuốc” ở câu dưới, cũng là danh từ).

Tiên sư : chỉ các bậc sáng lập ra nghề thuốc.

(8)- Hai câu này ý nói : người làm tôi tiên sư, thì phải kính đạo tiên sư, nnhưng phải biết dùng thuốc dân tộc để chữa cho dân tộc, tác giả nói lên cái quan điểm “độc lập, tự chủ” của mình.

(9)- tuyết diêm : tức Thực-diêm : muối ăn ; sắc trắng, nên gọi là “tuyết”.

(10)- Vân mẫu ; còn gọi Thiên tầng chỉ (giấy nghìn tầng), một loài đá khoáng, do nhiều lớp đá mỏng như giấy ghép liền thành một khối, chất mềm, có đàn lực, khó bẻ gãy, và nhiều màu sắc sáng bóng ; có tác dụng sáng mắt, bên gan, bổ thận, ích tinh.

(11)- Quyết minh : tức Thạch quyết minh, vỏ một loài ốc, mép vỏ có 9 – 10 lỗ nhỏ (hoặc 4-5 ; 7-13 lỗ). Dùng để hô hấp và hút nước. Thứ 9 lỗ là tốt, nên gọi là “cữu khổng” (Mẫu lệ cữu khổng). Có tác dụng bình Can, trừ nhiệt, tiêu mảng, sáng mắt, chữa thanh manh (thường gọi là thỏng manh), quán gà.

(12)- mục hôn : mắt mờ.

(13)- thạch cao : cũng gọi Tế-ly thạch (calci sulfas). Vị cay, tính hàn, tác dụng thanh nhiệt, trừ phiền, tả Vị hỏa, giải cơ biểu, chữa chứng Dương-minh (nhức đầu, phát sốt, ớn rét).

Phương giải : tức phương giải thạch, cũng gọi Hoàng thạch (Calcii chalcopat) : vị đắng, tình hàn, tác dụng thông huyết mạch, tán kết khí ; trừ lưu huyết ở vùng ngực và trung hòa vị toan.

Chú ý : thạch cao với Phương giải thạch kác nhau về tinh vi, một cay hàn, một đắng hàn ; mà tác dụng cũng khác, còn về hình thái tuy giống nhau sắc đều trắng bóng, nhưng khi đập ra, thì thạch cao vỡ thành những mảnh vụn, còn phương giải thạch vỡ thành những mảnh vuông, nên gọi “phương giải”(vỡ vuông). Thời trước, các nha làm thuốc Đường, Tống không phân biệt, thường cho Thạch cao là Phương giải thạch ; nên ở đây, Tuệ Tĩnh cũng theo như thế.

(14)- Đầu thống : nhức đầu, chỉ chứng nhức đầu kinh Dương-minh. Thạch cao có tác dụng chữa chứng này.

(15)- Biển bức : con Dơi, cũng gọi Thiên-thử (chuột trời).

(16)- Địa tương : cũng gọi Thổ tương, nước ở hố đất. Theo Đào-Hoàng-Cảnh : chọn chỗ đất vàng (thỏ), đào một cái hố sâu 3 thước (khoảng 1m2), dùng nước giếng mới gánh đổ vào, quấy cho đục lên, chờ lắng xuống, lấy nước trong mà dùng. Nam dược thần hiệu gọi là nước mới xáo.

(17)- Mật đà tăng : cũng gọi là Ngân lô để (đáy lò bạc). một dư phẩm của việc chế biến bạc, thường thấy ử đáy lò nấu bạc (Lithargyrum). Theo Lý-Thời-Trân : Mật đà tăng nguyên làmột chất lấy ra từ trong lò bạc (nghi là trong mỏ bạc, vì Mật đà tăng nguyên là một chất khoáng thiên nhiên). Nhưng chất này khó kiếm được, nên người ta thường dùng chất cặn đọng ơ đáy lò nấu bạc ; hoặc luyện chất cặn của Hoàng đơn làm Mật đà tăng (xem chú thích 34 Duyên hóa ở dưới).

(18)- Bách thảo sương : chính là mồ hóng, nhưng có sách nói Bách thảo sương là chỉ cả mồ hóng và muội nồi (oa để bôi) nên đây giải là Muội dưới trôn nồi.

(19)- Tích lịch chàm : lưỡi tầm sét, một loài đá, đào được ở dưới chỗ đất bị sét đánh, có tác dụng diệt trùng lao, và chữa các chứng kinh sợ, ỉa chảy, đái ra sỏi.

(20)- Giao đạo thổ : đất ngã ba đường.

(21)- Cặn đái đề góp : chỉ cái cặn trắng cạo được ở dưới đáy nồi nước đái lâu năm (vài ba năm).

Cặn trắng ấy gọi “Nhân trung bạch” có tác dụng thanh nhiệt, giáng hỏa, tán ứ, chữa Cam răng, lở miệng, sưng họng, và thổ, nục huyết. Sau người ta lại dùng Nhân trung bạch hòa thêm Thạch cao nà nước sương mùa Thu mà chế ra một chất gọi “Thu thạch”, có tác dụng sáng mắt, thanh Tâm, bổ Thận thủy, nhuận Tam tiêu.

(22,23)- Thiên bộ phong nê : chính là đất bậc cửa, chỗ nhiều người ra vào, có đám đất tích lên, cạy lấy mà dùng (thiên bộ là nghìn bước, hàm ý có nhiều người bước chân qua ; phong nê : là đất núi, hàm ý đất tích cao lên). Nam dược thần hiệu cũng giải là đất bậc cửa ; nắng cả đông nên : nắng cả là nắng lớn, ý nói do nắng lớn mà kết khô lại.

Giáp tháp : nứt thành nhiều rạch xen lẫn nhau, như hình những vẩy cá (giáp là hình vẩy ; tháp là xen lẫn)

(24-25)- Bán thiên hà thủy : nước trên lưn trời, tức nước cọc rào



Dương cang : Dương khí quá thịnh mà bốc lên (chữ “cang” chính âm là kháng ; đây đặt Dương cang cho hiệp vần)

(26)- Phục long can : biệt danh là Nguyệt hạ thổ hay Táo tâm thổ, tức đất lòng bếp ; (Phục long) là thần bếp, “Can” là lòng bếp, hàm ý đất của thần bếp ; “nguyệt” là đáy nồi, nó như hình mặt trăng, nên gọi là nguyệt ; “nguyệt hạ thổ” là chỗ đất thẳng đáy nồi xuống. Có tác dụng điều trung chỉ huyết, đặc biệt là chỉ nôn, trị chứng phiền vị (ăn vào nôn ra) rất hay.

(27)- Nao sa : chính là một khoáng chất (Sal ammoniacum – Sel ammoiac) vị mặn, cay, tính ôn, có tác dụng tiêu thực, trừ đờm, phá tích khối, ấm tử cung, trợ dương sự, sinh da thịt mới. Đây giải là cát sỏi củ :nghĩ chép lầm.

(28)- châm kim : châm là kim, sa là mạt thép ; chỉ cát mạt thép thu được khi mài kim, tác dụng lợi tiểu, tiêu tích tụ, chữa phù thũng, hoàng đản.

(29)- Kim tiết : chất vàng đã chế biến mà tán thành bột nhỏ ; tác dụng trấn tâm can, yên hồn phách, chữa kinh giản, phong nhiệt.

(30)- Thiện thổ, Bạch ác : tức Bạch thiện thổ, Bạch ác thổ, đất thó trắng ; dùng nặn đồ sứ. Có tác dụng chữa phụ nữ bế kinh, tích tụ ; Lý Thời Trân nói : “Đất lấy màu vàng làm sắc chính, thì màu trắng là sác ác, nên gọi “bạch ác thổ”. Người đời sau kiêng chữ “ác” mới gọi là “bạch thiện thổ”.

(31)- đầu rau : hòn đất nặn (hình dài mà vuông cạnh, khom lưng) dùng để bắt nồi niêu mà đun nấu, tục gọi ông táo, ông bếp.

(32)- tự nhiên trấp : nước tự nhiên, tức nước nguyên chất của vật ấy, như Sinh khương trấp là nước nguyên chất của củ Gừng sống….

(33)- vàng bạc thô : chữ “thô” không rõ nghĩa, nghĩ là chữ”ròng” (vàng bạc ròng) chép lầm. Ròng là tinh chất, thứ tốt.

(34)- Duyên hoa : biệt danh của Duyên đơn, tức Hoàng đơn. Đơn : tức Hoàng đơn gọi tắt (thời trước thường gọi tắt Hoàng đơn là Đơn).



Cách chế Hoàng đơn : lấy một khối Chì, treo trong cóng rượu, ngoài bịt kín ; đủ 49 ngày, mở ra, thì chì hóa thành phấn trắng, gọi Hồ phấn ; còn chất không hóa trắng thì sao làm Hoàng đơn, và phần cặn của Hoàng đơn thì luyện làm Mật đà tăng.

(35)- mai để hoa : 3 chữ này, không rõ nghĩa, nghĩ chép lầm, nhất là chữ “mai” (có lẽ là “oa để hoa” : hoa đáy nồi, hoa là chỉ chất muội kết như hình hoa)

(36)- thổ chu : tức thổ chu sa ;

Sơn nham : chữ nham không rõ nghĩa, nghĩ là chất sơn săn ở vùng núi.

(37)- Lô cam thạch :ta thường gọi Thạch cam lồ, một loài đá khoáng, tác dụng sáng mắt, tiêu mảng, chỉ huyết, sinh cơ nhục ; là một chủ dược chữa các bịnh mắt.

(38)- vô hôi : thứ rượu không có vôi (thời xưa người ta thường cho vôi vào rượu phòng nó biến chua, nhưng thứ rượu có vôi, uống hay tụ đờm, nên khi dùng làm thuốc, cần thứ không có vôi).

Đậu lâm :thứ rượu dầm Đậu đen.

Phiến trà : một thứ rượu (không rõ là rượu gì).

` Thanh chước :rượu dùng để tế lễ. Bốn danh từ trên, đều tên rượu riêng, nên nói là những giống men riêng.

(39)- vô căn : tức vô căn thủy, thứ nước không nguồn gốc ; chỉ nước mưa và nước giếng mới múc lên.

Quát thủy : tức trường lưu thủy, dòng nước chảy.

Đông lưu : tức Đông lưu thủy, dòng nước chảy về hướng Đông.

Tỉnh hoa : tức tỉnh hoa thủy, nước giếng ban sớm.

Bốn thứ trên đều là tên nước.

(40)- Não chi : dáy tai (cứt rái tai), có tác dụng chữa chứng nghiện rượu và điên cuồng (người ta thường lấy dáy tai lẻn cho vào trong chén rượu, người uống cảm thấy kinh sợ rội ghét rượu không uống nữa).

(41)- Phát bi : tóc ngôi của đồng nam (20 tuổi trở xuống), cắt xuống, đốt tồn tính, dùng. Tác dụng chỉ huyết tiêu ứ huyết, chữa tiểu nhi kinh phong (than tóc ngôi, thổi vào mũi, chữa chảy máu cam rất hay).

(42)- Ý dĩ nhân : hạt Dũ dĩ, hạt Bobo (Coix lachryma-jobi L.) Họ lúa, tác dụng kiện Tỳ vị, lợi thủy, trừ phong thấp, thanh nhiệt, bài nùng (trừ mủ)

(43-44)- tất trừng già : hạt Màng tang (Litsea cubeba Perb = Litsea citralta Bl). Họ Long não ; tác dụng ôn tỳ vị, chỉ ẩu thổ, chữa bụng trướng đau, Thận khí và Bàng quang lạnh.



Sán : tức sán khí, bịnh tinh hoàn sưng to, kéo chằng lên bụng dưới mà đau nhức, do Can, Thận hư tỗn.

(45)- bách thiên liệu : đơn tía, cũng gọi đơn mặt trời, là nó trên xanh dưới tía ; miền Nam gọi lá Liễu, hay trồng làm cảnh. Nhân dân dùng chữa mụn nhọt mẫn ngứa ; có khi dùng chữa đi ỉa chảy lâu ngày.

(46)- Chấp miên đằng : dây Bạc sau, lá nó trên xanh dưới trắng, nên gọi Bạc sau, cũng gọi Bạc thau.

(47)- Tùng cốt : lõi Thông (?) . Các bản thảo không nói Tùng cốt, chỉ nói Tùng tiết : mắt Thông, chữa các chứng khớp xương đau nhức.

(48)- Vũ dư lương : theo tài liệu mới gần đây, Vũ dư lương là một chất màu nâu đỏ (hoặc vàng) ở trong đá khoáng phụ trên quặng sắt mâu do oxy hóa với đất dẻo kết thành. Tác dụng chỉ huyết cố sáp Đại trường, băng lậu đới hạ, tả lỵ..

Theo Lý Thời Trân, Vũ dư lương là chất bột màu vàng chứa trong hòn đá, có 2 thứ, săn ở vùng chầm ao, gọi “Vũ dư lương” ; săn ở hang núi gọi “Thái nhất dư lương”. Nhưng theo Đào Hoàng Cảnh, thì ngoài thứ bột lấy trong đá nói trên, còn một thứ dây, sản ở vùng chầm ao, lá như lá Kim cương, có củ màu đỏ, vị như củ Mài, người phương Nam cũng gọi là Vũ dư lương (loài củ nâu). Ở đây, Tuệ Tĩnh theo thuyết Đào Hoàng Cảnh, nên giải củ Bồ nâu là Vũ duy lương ; ở Nam-dược thần hiệu và Lĩnh-Nam bản thảo giải là “Gỉa khôi”, chúng tôi thấy đúng hơn. Xem thêm chú thích 166 ở “Bài Phú Dược tính chỉ nam trực giải” dưới đây.

(49-50)- Lục lam : nghi là Nghể chàm (Polygonum tinctorium Lour). Họ rau Răm. Lục : sắc xanh pha vàng.

(51)- Bạch đồng nữ, Xích đồng nam : hoa Đau mắt trắng đỏ, cũng gọi Bấn trắng, Bấn đỏ. Xem thêm chú thích 17 ở bài phú “Dược tính chỉ nam trực giải” dưới đây.

(52-53)- Tân lang nhân, Đại phúc tử : hai thứ hạt cau, một của quả Tân lang, một của quả Đại phúc. Xem chú thích 24 ở bài phú “Dược tính chỉ nam trực giải” dưới đây.

Âm Dương : nghĩ chỉ hạt Tân lang là Dương ; hạt Đại phúc là Âm.

(54)- Dã ưu đàm : cây Ngái (Ficus hispida L). Họ Dâu tằm, cành và lá có lông cứng; quả cũng có nhựa như quả Sung.

(55)- Sam mộc :cũng gọi là Sa mộc, cây The móc, gỗ nó tác dụng tiêu trướng, tán thủng, khu phong, giải độc.

(56)- Xích diện thảo : cỏ Bà a, cũng gọi Hy thiêm thảo. Lĩnh nam bản thảo nói là chữa đòn gánh thương tích và phụ nữ huyết vựng (chóng mặt máu). Xem thêm chú thích 172 Hy thiêm ở dưới.

(57)- Bách bộ : cũng gọi Bách điều căn, củ Trăm (rễ củ nó gồm 10 – 30 củ, có khi tới 100 củ, nên gọi tên như thế). Tác dụng ôn Phế, sát trùng, chữa ho lạnh, ho lao, tiêu cam tích và trừ giun sán.

(58)- Thanh tân thảo : nguyên văn là “Màn chầu thảo”, nghĩ chép lầm, chúng tôi theo mục “Bản thảo thập di” ở cuối tập Nam dược thần hiệu mà sửa như thế.

(59)- Giấp : cũng gọi Diếp cá, tức Trấp thái, Ngư tinh thảo, hay Thiên lý hồi. Lá nó tác dụng tả nhiệt, giải độc, chữa trĩ, thoát giang và mụn nhọt.

(60)- Cam toại : (Euphorbia siebodiana Morren et Decaisne). Họ Thầu-dầu, cũng gọi Quỉ xú, biệt danh là Dô cấp sự trung ; rễ có độc, tác dụng lợi thủy, trừ thấp, chữa phù thũng, đàm ẩm, tích tụ, sán khí , thiên trụy.

(61)- Kim cương, Cốt ngạnh nguyên quân : hai tên gọi đây đều chỉ củ Tỳ giải, nhưng theo Bản thảo cương mục, thì “Kim cương căn” (củ Kim cương) là biẹt danh của củ Bạt khát, là một cây thảo; mọc lan, thân có gia nhọn, củ màu vàng đỏ, và rất rắn chắc, nên gọi “Kim cương”. Còn Tỳ-giải, có tên là “Bạch bạt khát”(Bạt khát trắng) vì củ Tỳ giải giống củ Bạt khát nhưng màu trắng, và cũng không rắn bằng củ Bạt khát, nên không có cái tên Kim cương, ta thường gọi Tỳ giải là củ Kim cương, cũng là mượn cái tên của Bạt khát đó thôi. Tỳ giải có tác dụng lợi thủy, trừ phong thấp, bền gân xương, chữa lâm trọc, trĩ lậu.

(62)- Thương lục : cũng gọi Dạ hô (Phytolacca esculenta Van Houtte). Họ thương lục củ có độc, tác dụng trục thủy, lợi đại tiểu trường, chữa thủy thũng, bụng trướng đầy, tích tụ, ung thũng.

(63)- Hồ đào nhục : cũng gọi Hồ đào nhân, nhân của hột quả Hồ đào. Ta gọi Óc chó (Juglans regia L. họ Óc chó). “Hồ đào” hay “Khương đào” nguyên là giống đào vùng dân tộc Khương hồ (phía Tây Trung-Quốc) quả có hột rắn, trong có nhân như chất sữa, màu trắng ; tác dụng bổ Thận, ôn Phế, ích Mệnh môn, lợi Tam tiêu, hòa huyết mạch, đen râu tóc, chữa viêm phế quản mãn tính, hen suyễn.

(64)- Biển súc, Thài lài : đây giải Biển súc là Thài lài. Nhưng thực ra nó là 2 loài khác nhau. Biển súc (Polygonum aviculare L. họ Rau Răm).tức rau Đằng, cây Xương cá có tác dụng thanh tán thấp nhiệt, lợi tiểu, sát trùng, chữa Hoàng đản, kiết lỵ, sang độc, dịch tả và đau bụng giun. – Còn Thài lài có nhiều loại :

1- Loại trắng, tức Trúc tiết thảo (Commelina nudiflora L);

2- loại Tía tức Điểu trúc mai (Zebrina pendula Schnizl)

3- loại có lông (Commelina benghalensis L.)

4- loại rau Trai, tức Áp chích thảo (Commelina communis L)

4 Loại này đều họ Thài lài. Áp chích thảo có tác dụng cường tâm, lợi tiểu, chữa sốt rét, kiết lỵ, tiêu thủng độc ; còn các loại khác nghĩ cũng có tác dụng giải độc, lợi tiểu tiện.

Chú ý : Biển súc là thuốc lợi tiểu, lại là thuốc sát trùng, ta dùng Thài lài thay Biển súc là thay về mặt lợi tiểu, chứ về mặt sát trùng thì chưa rõ. Bài phú Dược tính chỉ nam trực giải có câu : “Trẻ em hay đau bụng giun, sắc thang Biển súc”

(65)- Sơn đằng : củ Ráy quăn (ráy ngứa ?)

(66)- Sơn phục : cũng gọi Sơn thực, Ráy xước, tức Thiên niên kiện (Homalomena Aromatica Schott , họ Ráy – Thiên niên kiện Trung-Quốc là Homalomena aff. Sagittaefolia Jungh). Tác dụng trừ phong thấp, mạnh gân xương, chữa chứng phong khi đau nhức ; rất thích dụng cho người già.

(67)- Qủi my : quỉ quái, ma quỉ. Đào giao :nhựa cây đào. Thời xưa, người ta thường nấu luyện Đào giao, dùng uống. có tác dụng bổ ích khí huyết, chịu được phong hàn và trừ ma quỉ.

(68)- Trúc lịch : nước trúc đốt. Cách đốt trúc lịch : dùng cây trúc non còn phấn trắng, cắt đoạn, gác lên 2 viên gạch dựng nghiêng, giữa đốt lửa, nước trút sẽ chảy ra 2 đầu, hứng lấy mà dùng.

(69)- hương cái tử : tức Am la quả, loại quả thơm (quả lê, quả quít)

(70)- Hồng nội tiêu : biẹt danh của Ngũ vị tử, ta gọi dây Nắm cơm (xem thêm chú thích 121 Ngũ vị tử ở dưới)

(71)- Yến thảo : cũng gọi Bội lan hay Linh lăng hương, loài cỏ thơm, tác dụng trừ ác khí, chữa thương hàn nhức đầu, đau bụng, đau lưng.

(72)- Núc nác : chín là cây Mộc hồ điệp (Oroxylum indicum Vent.) họ Núc nác. Vỏ nó có tác dụng giống Hoàng bá, nên ta thường gọi Nam Hoàng bá.

(73)- Thử nhĩ : cũng gọi Thử khúc thảo, loài cỏ sinh ở nơi ẩm thấp ; lá nó giống hình tai chuột nên gọi “Thử nhĩ”. Tác dụng tiêu đờm, chỉ ho, chữa sốt rét và thời khí.



Chú ý :đây nói cây Thử nhĩ Trung-Quốc, khác với cây Tai chuột của Việt-Nam.

(74)- Toan tương : phân 2 loại :

1. Toan tương (không có chữ ‘thảo’) cũng gọi Đăng lung. Thảo vị đắng, quả chua đều dùng làm thuốc.

2. Thổ tương thảo (cỏ nước dấm) cũng gọi là Toan tương hay Toan tương thảo, Tam giác toan, Tam diệp toan. Toàn cây vị chua.



Lô mướp : tên gọ cây Toan tương của ta (cây thứ nhất) nhưng không rõ cây gì.

Nhận xét : 2 cây nói trên, cây thứ nhất là Toan tương là một loài thảo, hoa trắng, quả có nước chưa rõ ta gọi cây gì ? Còn cây thứ 2 Thổ tương thảo (cỏ nước dấm) cũng gọi Toan tương chỉ là tên phụ ta gọi Chua me đất. Cây Toan tương nói đây nghĩ là loại thứ nhất.

Toan tương thảo còn gọi Đăng lung thảo, mà Đăng lung thảo thì Lĩnh-Nam bản thảo giải là cây Thù lù ; vậy ở đây, có lẽ là chữ Chua me hay Thù lù thì mới đúng.

(75)- La bặc : cải củ, thường gọi là cải Lú bú ; tác dụng lợi khí, tiêu thực, trừ trướng, định suyễn.

(76)- Bạch địa dương : Linh Nam bản thảo giải là Bồ cu vẽ ; tác dụng chữa huyết, chữa thũng.

(77)- nhẫn : tiếng cổ, có nghĩa là suốt, cả.

(78)- Súc sa : tức Súc sa mật, gọi tắt là “Sa”. Một loài cỏ thơm, có quả giống quả Ích trí. Nhân nó dùng làm thuốc, gọi “Sa nhân”. Tác dụng hành khí, tiêu thực, ấm tỳ vị, chữa ẩu thổ, đau bụng, trướng đầy, tả lỵ.

(79)- Xa du chi phẩn : chất dầu mỡ bôi ở cái trục xe, gọi là “xa chi” (mỡ xe), chữa túng phong phát cuồng, và phụ nữ mọc nhọt vú (Nhũ ung).

(80)- Tước thiệt : người xưa gọi búp chè là “tước thiệt”, hàm ý nói non nớt, mềm mại như lưỡi chim sẻ.

(81)- Bạch lực : rễ cây Qúit rừng, cây có nhiều gai, nên cũng gọi Gai kim.

(82)- Tô phương mộc :gỗ cây Tô phương (vang), gọi tắt là Tô mộc. Tác dụng hành huyết, tiêu thũng, chữa phụ nữ kinh nguyệt không đều, sản hậu ác huyết không ra hết.

(83)- Hồng lam hoa : cây này hoa đỏ, lá xanh như lá Chàm, nên gọi Hồng lam hoa (hoa đỏ chàm) và gọi tắt là Hồng hoa.

(84)- Nhuy nhân : tức Uy nhuy nhân, cũng gọi Ngọc trúc (Polygonatum officinale Al.). Họ Bách hợp, tác dụng nhuận Tâm, Phế, trừ phiền nhiệt, tươi nhan sắc, chữa sạm đen da, là một vị thuốc bổ ; không hàn, không táo, có thể thay được Sâm, Kỳ.

(85)- Áp chích thảo : cỏ Chân vịt, là một loài Thài lài, xem chú thích 64 trên.

(86)- Phượng vĩ thảo : tức Kim tinh thảo ; Nam dược thần hiệu giải là cỏ Seo gà (Preris multifida Poir) họ Seo gà. Tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, giải độc, chữa các chứng lâm, lỵ, và ung thư, ác sang, tràng nhạc.

(87)- Giả tô, Bạch tô : 2 biệt danh của Kinh giới ; hương vị nó giống như Tử tô, và màu trắng, nên gọi “Gỉa tô, Bạch tô”.

(88)- Kê tô, Thủy tô : đây giải là 2 biệt danh của Bạc hà ; nhưng chính là một loài cỏkhác, loài này có 3 tên gọi : Kê tô, Thủy tô, hay Long não bạc hà. Cây hình vuông, trong rỗng, lá giống lá Tử tô mà hơi dài ; khí vị cay mà thơm hắc, giống mùi Bạc hà, nên gọi Long não bạc hà ; tác dụng thanh phế, hạ khí, tán nhiệt, lý huyết, chữa đầu phong, mắt mờ.

(89)- Nhất chủng cửu sinh tử : “cửu sinh” là sống lâu. “Nhất chủng cửu sinh tử” có nghĩa là thứ hạt này một lần trồng mà sống được lâu (mỗi năm người ta cắt dùng 3, 4 lần. mà nó vẫn mọc lên được)

(90)- Triều khai mộ lạc hoa : thứ hoa sớm nở tối tàn ; nói nấm chó chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn thôi.

(91)- Kim ngân :

(92)- Kim ngân đại tử :

(93)- Bà a :

(94)- Tần bì : vỏ cây De. Kinh nam bản thảo giải là vỏ cây Da (Fraxinus bungcana DC. Var. pubinervis Wg). Họ Nhài. Tác dụng tả nhiệt, làm sáng mắt, sáp trường, chỉ lỵ.

(95)- Thiên đinh : biệt danh của Tạo giác thích, gai Bồ kết. “Thiên đinh” là cái đinh trời, “độc sinh” có nghĩa là một mũi nhọn mọc thẳng ra.

(96)- Đa thích trúc duẫn : trúc duẫn là măng tre, đa thích chỉ thứ tre có nhiều gai.



La ngà : tên thứ tre nhiều gai, không rõ thứ tre gì. Nước ta có thứ tre Là ngà (cây nhập nội) ; thân và cành màu vàng tươi, có những sọc xanh trông rất đẹp ; thường trồng làm cảnh trong công viên (nhưng không thấy có nhiều gai).

(97)- Đới tinh thảo : biệt danh của Cốc tinh thảo, cỏ Dùi trống ; tác dụng tán phong nhiệt, tiêu màng mộng, làm sáng mắt, là vị thuốc chủ yếu về Nhãn khoa.

(98)- Khổ trúc duẫn : măng khổ trúc, măng Lẻ (?) – Khổ trúc là loài trúc nhiều lá mà chất mềm, măng nó rất quí ; tác dụng lợi thủy, tiêu đờm, sáng mắt, bổ khí lực, tăng sức khỏe.

(99)- Hồ lô ba : tức Phiên la bặc tử (Trigonella Foenum-graecum). Họ Đậu, nguyên là một loài hạt cải củ Sắn ở vùng Hải-Nam. Hạt to, màu vàng nhạt, mùi thơm hắc ; có tác dụng ôn bổ Mệnh môn hỏa, chữa Thận tạng hư lãnh và hàn thấp cước khí. Đây giải là hạt cải Lú bú, không đúng.



Chú ý : Hồ lô ba không pải là cải Lú bú (chỉ là thuộc loài cải nói ở trên), và cũng kông phải là củ Cà rốt (Cà rốt là Hồ la bặc, mà Hồ la bặc thì chủ yếu là dùng củ, còn Hồ lô ba thì chủ yếu là dùng hạt).

(100)- Tân trần : mới và cũ. Thanh bì là vỏ quít xanh phơi khô, thì dùng thứ mới ; còn Trần bì là vỏ quít chín phơi khô, thì lại cần thứ cũ càng lâu năm càng tốt.

(101)- Hoãn cấp : hoãn chỉ tác dụng của Chỉ xác ; cấp chỉ tác dụng của Chỉ thực.

(102)- Dây Đài hải : cũng gọi dây Mỡ lợn (Hodg. Sonia macrocarpa Cogn). Họ Bí.

(103)- Xích châu đằng : cũng gọi Tước mai đằng, tức dây Quanh châu, hay Canh châu (Sageretia theezans Brongn). Họ Táo ta ; loài dây mọc hoang ở vệ đường, người ta thường trồng làm bờ rào.

(104)- Cỏ xước : Nam ngưu tất (Achyranthes aspera L.). họ Giềng, rễ nó dùng thay Ngưu tất Trung Quốc (Nam dược thần hiệu nói là có tác dụng làm mạnh gân xương, chữa tê liệt, đái dắt, sốt rét). Còn Ngưu tất Trung quốc thì có 2 loại :

1- Xuyên Ngưu tất : (Cyathula capitata Moq.) thì trừ phong thấp, hoạt huyết, tiêu tích khối là chính.

2- Hoài Ngưu tất (Achyranthes bidentata Bl.)họ Dền ; thì bổ Can Thận, mạnh gân xương là chính (Hoài Ngưu tất tốt hơn).

Hiện nay ta đang rồng giống Ngưu tất di thực của Trung-Quốc, rễ to hơn rễ Cỏ Xước của ta.

(105)- Củ tướng : tức Phù lưu, lá Trầu Không.

(106)- Nga truật : tức Bồng Nga truật, ta gọi Nghệ máu hay Nghệ đen (Curcuma zendoairia Roseoe) họ Gừng. Xem thêm chú thích 121 “bài phú Dược tính chỉ nam trực giải” dưới đây.

(107)- Thục tất : tứcThường sơn miêu. Miêu là mầm (cây), mầm gọi Thục tất, rễ gọi Thường sơn (Dichroa febrìuga Lour.) họ Thường sơn ; tác dụng tiêu đờm, hành thủy, chữa sốt rét có đặc hiệu.

(108)- Di đường : kẹo Mạch nha, đường nha. Di đường nấu bằng Mạch nha, cốc nha, và các thứ gạo nếp, gạo tẻ, nên đây nói là lúa Mạch nấu với gạo nếp.

(109)- Đồng : lúa châm (?), theo lời chù sách Chu lễ, thứ lúa trồng trước mà chín sau gọi là “đồng” ; thứ lúa trồng sau mà chín trước gọi là “lục”.

(110)- Thạch mật : tên chính của vị Bạch sa đường, chỉ chung cả Đường phèn và Đường cát trắng, nhưng thường dùng chỉ Đường phèn. Ở đây, nghi cũng chỉ Đường phèn (thứ đường nấu bằng nước mía với lúa đồng).

Chú ý :Thạch mật đây là đường nước mía, khác với “Thạch mật” (cũng gọi là Xích mật) là mật ong săn ở núi đá (thứ tốt), nó cùng tên nhưng khác loài.

(111)- Sung uất : tức Sung úy tử, hạt Ích mẫu (chữ “uất” chính âm là “úy” ; nhưng ta quen đọc là uất, nên ở đây cũng đặt theo âm uất cho hiệp vần).

(112)- Thầy giỏi : nguyên bản chép là “thầy ngọ”, không có nghĩa, nên chúng tôi tạm sửa là “thầy giỏi”.

(113)- Đạm trúc diệp : là cây Đạm trúc (có lông lợn). Đạm trúc (Lophaterum gracile Brongn – họ Lúa). Là một loài thảo, thường mọc nơi ẩm thấp (thấp thảo) ; thân nhỏ, phân từng đốt, có phấn trắng, lá xanh, giống như loài trúc, nên gọi “Đạm trúc” (trúc nhạt). Tác dụng thanh tâm hỏa, trừ phiền nhiệt, lợi tiểu tiện. bài “Đạo xích tán” dùng lá Đạm trúc này.

Đạm trúc diệp còn là một loài trúc gọi Đạm trúc (Phyllostachys nigra Munro var. henosis – Mitford Stapf ex Rendle) – họ Lúa nhiều nước, vị ngọt, tác dụng mát Tâm, hoãn Tỳ, chỉ khát, trừ phiền nhiệt, người ta, thường lấy Trúc nhự và Trúc lịch ở loài trúc này, gọi “Đạm trúc nhự, Đạm trúc lịch”. Ở đây, nghi chr loài Đạm trúc thứ nhất (loài thảo).

(114)- Giang tử : hay Cương tử, biệt danh của Ba đậu, hạt Mần để (Croton tiglium L.- họ Thầu dầu).

(115)- Mao sưu : biệt danh của Thiến thảo. Thiền căn : tức Thiền thảo căn, rễ Thiền thảo, là rễ Kim luông. Thiền thảo (Rubia corfolia L.) họ Cà phê là loài cỏ mọc bò lan, rễ đỏ tía, thường dùng nhuộm màu đỏ, có tác dụng tiêu huyết cũ, sinh huyết mới, thông kinh, lợi thủy.

(116)- Xà sàng tử : hạt Giần sàng, Thạch cao rừng (Selinum monnieri L. = cnidium monnieri Cuss). Họ Hoa tán, tác dụng cường dương bổ Thận, chữa bìu dái ẩm ướt và phụ nữ âm hộ đau ngứa.

(117)- Hồ tôn khương : biệt dan của Cốt toái bổ, cây Tổ rồng, tác dụng hành huyết, bổ xương, trấn đau, chữa chiến thương, và Thận hư đau lưng.

(118)- Bồng nông : tên gọi là hoa Lau.

(119)- Sương thị : mứt Hồng, cũng gọi Thị bính (bánh Hồng)

(120)- Luật thảo : Đinh cai (?) , dây Sàn sạt (?) (Humulus scandens Merr.). họ Gai mèo ; loài cỏ mọc bò lan, tác dụng chữa sốt rét, thương hàn, ôn dịch, nhuận tam tiêu, ích ngũ tạng.

(121)- Ngũ vị tử : cũng gọi Hồng nội tiêu, tác dụng liễm Phế khí, chữa ho suyễn, liễm hãn, sinh tân, tư Thận, cố tinh. Ngũ vị tử Trung-Quốc chia 2 loài, một sản ở vùng Bắc,gọi “Bắc Ngũ vị tử”, màu đen bóng (Sehisandra chinensis Baill.) ; một sản ở vùng Nam (cũng Trung quốc) gọi “Nam Ngũ vị tử” màu hồng, không bóng. (Kadsura longipedun-culata Finer et Gagnep). Về chất lượng và tác dụng thì Nam Ngũ vị tử kém Bắc Ngũ vị tử. Các phương thuốc bổ, người ta thường dùng Bắc Ngũ vị. Còn “Nẵm cơm” là Ngũ vị tử Việt-Nam loài dây leo, lá bầu dục, quả màu đỏ (Kadsura chinensí Hance) mọc hoang ở rừng núi Hà tỉnh, Nghệ An, thường dùng thay Ngũ vị tử Trung-Quốc.

(122)- Phong hương : cũng gọi Bạch mao hương (Mastix) tức nhựa cây Phong, ta gọi cây Sao (Liquidambar formosana), họ Sao. Sau mạn Kỳ sơn Hòa-bình có nhiều loài cây này, nhựa nó có tác dụng hoạt huyết, sinh cơ, giải độc, chữa các chứng huyết Kim sang, phong sang, ung thũng thường dùng làm thuốc ngoại khoa. (Qủa nó gọi Lô lộ thông, tác dụng trừ thấp, chữa lam chướng ôn dịch, đau lưng, đau chân tay).

(123)- Xương dương : biệt danh của Xương bồ.

(124)- Ngưu nãi : vú Bò, cũng gọi Đài loan dung, Trường diệp ngưu nái thụ (Ficus heteronphylla Lin. F.- họ Dâu tằm).

(125)- Vương qua : cũng gọi Thổ qua, Dã diềm qua (Dưa đá dại), đây giải là củ Lẳng (?) (Trichasanthes cucumeroides Maxim) họ Bí ; loài cỏ mọc lan, tác dụng tả nhiệt, lợi thủy, hành huyết thông sữa, trụy thai, chữa hoàng đản, tiêu khát.

(126)- Thạch toán : có 2 nghĩa :

1- củ Tỏi núi, cũng gọi “Sơn toán”, chữa tích khối và phụ nữ huyết tích ;

2- loài cỏ núi, củ giống củ Tỏi, gọi “Thạch toán căn”, chữa ác hạch, thũng độc, đinh sang.

(127)- Bạch long bì : vỏ Chu biên (vùng chợ Gềnh, Nho quan, Ninh bình ; có loài cây này). Tác dụng phá khí, tiêu trướng, thông đại tiện – (thường dùng làm thuốc Tây).

(128)- Thảo tam lăng : đây giải là cây Dừa nước (?) nhưng theo Bản thảo cương mục, thì Thảo tam lăng là biệt danh của Kinh tam lăng (Cyperus iria L.) họ Cói. Một loài cỏ thơm, thường mọc ở nơi ao đầm ẩm thấp, tác dụng phá huyết, hành khí, chỉ thống, tiêu tích.

(129)- Ô phiến : cũng gọi Qui phiến, Tiên nhân chưởng, đều là biệt danh của Xạ can (tên chính), tức cây Rẽ quạt. Ô phiến nói là nó như cánh chim quạ. “Qủi phiến”, “Tiên nhân chưởng” nói nó hư cái quạt quỉ thần hay bàn tay ngưởi tiên.

(130)- Huyên thảo : cây Hoa hiên, biệt danh là Lộc thông, Nghi nam thảo (Hemero callits fulva L.)họ Bách hợp. Mùi nó như mùi hành, mà con hươu hay ăn để giải độc, nên gọi là Lộc thông (cây hành của con Hươu) ; và theo thuyền thuyết, phụ nữ có thai mà đeo hoa nó, thì sinh con trai ; nên gọi “Nghi nam thảo” (cỏ sinh con trai).

(131)- Trúc nhự : tinh tre (cạo bỏ lần vỏ xanh bên ngoài, chỉ lấy lớp tinh bên trong, các tổ hợp tác tăm tre, thường cạo tin nó dành làm dược liệu).

(132)- Lục cúng : 6 thứ dùng để cúng Phật : hương, đăng, trà, quả, hoa, thực (thức ăn).

(133)- Trầm thủy hương : tức Trầm hương, nó là lõi cây Trầm hương ; vị thơm, chất rắn, sắc đen ; bỏ vào nước thì chìm, nên gọi “Trầm thủy hương” – cũng gọi “Thủy trầm”.

(134)- Chư thiên : các phương trời, nơi có Thần Phật ở.

(135)- Khổ luyện đằng : còn gọi Đảo địa linh, Lộ mướp rừng. Cây này Lĩnh nam bản thảo cũng giải là dây Lộ mướp, nhưng Nam dược thần hiệu thì lại giai là cây Tầm bóp, đều không rõ là cây gì. Theo cái tên gọi “Khổ luyện” (Xoan) thì nghi là dây Xoan leo, Tầm phỏng (Cardiosperum halicâcbum L) họ Bồ hòn. Tác dụng lương huyết, chỉ thống, tiêu thũng, giai độc, chữa trật đả tổn thương, nhọt lở, thấp chẩn.

(136)- Vó ngựa : tức Mã đề, cây Xa tiền. Nó thường mọc ở vệ đường nơi có xe cộ và ngựa trâu qua lại, nên gọi là “Xa tiền”(trước xe) và “Mã đề” (Mã đề : móng ngựa – Bản thảo cương mục chép là “Mã tích” : giầy ngựa ; cũng như nghĩa Mã đề).

(137)- Bản lam căn : tức Mã lam căn, rễ cây Chàm cả ; tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, thông lợi cổ họng, chữa chứng đại đầu ôn dịch (chứng ôn dịch mà mặt mắt sưng đỏ, đầu to như cái đấu) và sưng họng. “Mã lam” (Strobilanthes flaccidifolius Nees.) họ Ô dô. Là một loài cây Chàm, cũng gọi “Đại diệp đông lam” (cây Chàm mùa đông to lá, Chàm cả) lá nó dùng chế bột Chàm, làm thuốc nhuộm.

(138)- Ngô lam : Chàm đen, một loài cây Chàm, tác dụng trừ phiền, chỉ khát, chữa chứng du phong, sốt thời khí.

(139)- Sơn khương : biệt danh của Hoàng tinh, cugx gọi Dã sinh khương. Tác dụng nhuận Tâm Phế, ích Tỳ Vị.

(140)- Bạch dược : biệt danh của Quát lâu căn, tức Thiên hoa phấn. Tác dụng giải nhiệt chỉ khát, nhuận táo thông sữa, chữa cuồng nhiệt trĩ lậu, ung nhọt.

(141)- Liên tiền : tức Liên tiền thảo, cũng gọi Tích tuyết thảo, Rau má (Centella asiatica Urb) họ Hoa tán. Tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu ; chữa các chứng nhiệt và mụn nhọt, mẩn ngứa. Rau má có nhiều thứ, như Rau má họ hay rau má mơ, Thiên hồ thái (Hydrocotyle rotundifolia Roxb.) ; Rau má ngọ, Giang bản qui (Polygonum perfoliatum L.) ; Rau má thìa hay Rau má lông (Glechoma brevituba Kupr.) ; Rau má tía, Ngoạn nguyệt thái hay Nhật quang thái ; Rau má đất, Độc cước thái. Ở đây và Lĩnh nam bản thảo đều giải Liên tiền thảo là Rau má họ.

(142)- Hoàng nàn : Cứu chi (?), còn gọi Võ doãn (Strychnos gauthierana Pierre) họ Mã tiền. Loài cây mọc hoang ở rừng núi miền Nam Bắc-bộ và miền Bắc Trung-bộ. Có chất độc (bảng A). Là vị thuốc đặc sản của Việt-Nam ; chữa thấp khớp có hiệu lực tốt. Hoàng-đôn-Hòa dùng chữa đau bụng thổ tả ; Tuệ-Tĩnh dùng chữa sản hậu co quắp.

(143)- Đại đậu quyển : tức Đại đậu hoàng quyển. “Đại đậu” là đậu đen to hạt, người ta dùng thứ đậu này ngâm cho mọc mộng, rồi lấy phơi khô ; khi đó nó là cái mộng màu vàng mà co cuộn lại, nên gọi “hoàng quyển”. Tác dụng lợi thấp, thanh nhiệt, bổ ngũ tạng, chữa tê thấp, đau gối, co gân.

(144)- Hoa Cúc trắng : tức Bạch cúc hoa, tác dụng tư âm, sáng mắt, trị Can phong, Can nhiệt, làm đen râu toc, tươi nhan sắc.

(145)- Diên thọ khách : người khách làm dài tuổi thọ, chỉ hoa Cúc. Theo Bản thảo kinh : Cúc hoa lợi khí huyết, uống lâu thì thân thể nhẹ nhàng, lâu già, dài tuổi thọ, và Tiên thư có câu : “Cúc hoa vi diên linh khách”, nghĩa là hoa Cúc là người khách làm dài tuổi thọ.

(146)- Hoa cúc vàng : tức Hoàng Cúc hoa, tác dụng trừ phong, dưỡng huyết, ích Phế Thận, chữa Can khí bất túc và các bịnh mắt.

(147)- Phó diên niên : Cúc hoa có tên là “Phó công”, lại tên là “Diên niên” ; nhân gọi chung là “Phó diên niên”.

(148)- Hoàng kinh : tức Mẫu kinh, một loài cây mọc cụm, ruột cây hình vuông, lá dài mà nhọn, có răng cưa. Trung quốc thời xưa, những phụ nữ nghèo thường lấy cành Kinh này gài đầu làm cành thoa (trong văn học có từ “bố kinh” : quần vải, thoa cành Kinh là chỉ cây này). Kinh lịch : chất nước đốt được ở cây Mẫu kinh, tác dụng thông kinh lạc, hành khí huyết, hóa đờm dãi, chữa trúng phong kinh giản. Cách đốt Kinh lịch cũng như cách đốt Trúc lịch, xem chú thích 68 Trúc lịch ở trên.

(149)- Mẫu đơn bì : vỏ cây Mẫu đơn (Paenonia Suffruticosa Andr ff=P, moutain Sims.). Tác dụng thanh huyết nhiệt, tán ứ huyết, chữa trúng phong, kinh giản, sốt rét, lao nhiệt cốt chứng, kinh bế.

(150)- Qủi cữu : củ Khoai Nưa (Amorphophallus rivieri Dur.) họ Ráy. Quỉ cữu là loài cỏ núi, củ nó tính cay ấm, có chất độc, tác dụng sát trùng, giải độc, chữa ho, sốt rét, hạ được tử thai (thai nhi chết trong bụng mẹ).

(151)- Thần khúc : còn gọi Lục thần khúc ; một bánh thuốc do 6 vị thuốc chế thành (cách chế bánh thuốc này cũng như bánh men rượu, nên gọi là “khúc” ; khúc có nghĩa là bánh men).

Cách chế : ngày 5 tháng 5, hoặc ngày 6 tháng 6 âm-lịch (theo tập quán), dùng

-bột Mì 100 cân,

-bột Đậu đỏ, Hạnh nhân bỏ vỏ nhọn, giã nát nhừ, đều 2 cân,

-rau Răm tươi, cây Thanh hao tươi, cây Ké đầu ngựa tươi, đều 10 cân, giã vắt lấy nước nguyên chất.

Tấc cả 6 vị, trộn đều với nhau, đóng thành bánh nhỏ, để vào dềnh tre, trên phủ lá gai, như cách làm tương. Đợi khi lên meo vàng, đem phơi khô mà dùng.

(152)- Trừ đản lợi thủy : trừ bịnh Hòang đản và lợi tiểu tiện.

(153)- Dưỡng đào tử : quả Khế,cũng gọi Ngũ liêm tử, Ngũ lăng tử ; tác dụng sinh tân, chỉ khát, chữa sốt rét, kiết lỵ và lam chướng, bất phục thủy thổ. Quả Khế có 2 loại, loại Chua (Averrhoa carambola L.) và loại Ngọt (Averrhoa bilimbi L.) họ chua me đất. Làm thuốc dùng loại chua.

(154)- Thương nhĩ : cũng gọi Quyển nhĩ, cây Ké đầu ngựa. Lá nó chữa các chứng phong, thấp khớp, kinh giản, kiết lỵ. Qủa gọi Thương nhĩ tử, chữa phong thấp, ngứa lở, hòa huyết ích khí ; trên thông lên đầu, dưới dẫn xuống chân. Nam dược Thần hiệu (mục Ung thư) có Cao thương nhĩ (dùng cả cành, lá, rễ, quả). Chữa các chứng phong ngứa, đau bụng, ưng thư, ác sang.

(155)- Mộc hoàn : tức Mộc hoạn, biệt danh của Võ hoạn tử, quả Bồ hòn ; chữa đen xạm mặt và chứng hầu tý (cổ họng sưng đau, kết khối như nắm tay, không nói ra tiếng, không uống được nước…) nghiền quả Bồ hòn, nhét vào trong họng, sẽ khai thông được.

(156)- Hòe giác : tức Hòe giác tử, biệt danh của Hòe thực, quả Hoè. Tác dụng khu phong giải nhiệt, thanh Can Đởm, mát Đại trường, chữa trị ra máu, âm sang.

(157)- Đông qua : cũng gọi Bạch qua, Bạch đông qua, quả Bí đao, Bí xanh.

(158)- Chỉ thiên thảo : cây Chỉ thiên, hay Lưỡi chó, tức cây Tiền hồ, cũng gọi Thiếp địa phi.

(159)- Quân khương, Bạch khương : 2 biệt danh của Can khương = gừng xôi khô.

(160)- Điềm qua : cũng gọi Đinh qua = cây Dưa đá. Tác dụng giải khí nắng, trừ phiền, chỉ khát, lợi tiểu tiện. Cuống nó gọi Qua đế (cuống Dưa đá), tác dụng thổ đờm dải và tích thực ở vùng vị cách, chữa các bịnh thấp nhiệt, thuỷ thũng, hoàng đản.

(161)- Hà thủ ô : cũng gọi Giao đằng, Dạ hợp, Dạ giao đằng, Hợp hoan đằng. Ta gọi dây Sửa bò, vì dây và lá nó có nhựa trắng như sữa (xem th êm chú thích 110 ở bài Phú Dược tính chỉ Nam trực giải).

(162)- quan hoa : đây giải là Thanh tương tử ; nhưng thực ra nó là 2 cây khác nhau.



Kê quan : là cây Mào gà đỏ (Celosia cristât L.). Họ giền hoa màu đỏ hay vàng, hình dẹt mà rộng bản, như cái mào con gà, hoa và hạt dùng làm thuốc, chữa trường phong, xích bạch lỵ, trĩ lậu, phụ nữ băng huyết, xích bạch đới ;

Còn Thanh tương là cây Mào gà trắng, cũng gọi Mào gà đuôi lươn hay đuôi nheo, đuôi muông (Celosia argentea L.). Họ Giền hoa dài mà nhọn, như hình cái đuôi thỏ, màu trắng hoặc hơi hồng ; hạt nó dùng làm thuốc, gọi Thanh tương tử hay Thảo quyết minh. Tác dụng thanh Can, sáng mắt, trừ phong thấp, chữa thanh manh, các bịnh mắt và mụn nhọt.

Hai vị này, Bản thảo cương mục, Bản thảo tòng tân, Trung-Quốc dược học đại từ điển, và chính Nam dược thần hiệu, Lĩnh nam bản thảo đều chia rõ làm hai loài cây với 2 tác dụng khác nhau.

Chú ý : Thảo quyết minh là hạt Mào gà TRẮNG ; khác với Quyết minh tử là hạt Muồng (ta thường lầm Thảo quyết minh là hạt Muồng).

(163)- Hoàng lực : cây Sung, một loại Xuyên tiêu ; người Cao bằng gọi Lưỡng phủi châm. Rễ nó dùng làm thuốc, tác dụng chữa sốt, tê thâp, sán khí, tích khối.

(164)- Thực thù du :một trong 3 loài Thù du (Sơn thù du, Ngô thù du, Thực thù du). Quả nó ăn được, nên gọi là “thực” ; tác dụng ôn trung, chỉ thống, chữa thuỷ khí, ho ngược tạng phủ, lạnh đau (công năng giống Ngô thù du, nhưng lực hơi kém).

(165)- Toan tương thảo : xem chú thích 74 Toan tương trên.

(166)- Toan giác tử : cũng gọi La quang tử, tức quả Me (Tamarindus indica L) họ Vang.

(167)- Tùng chi : nhựa Thông, cũng gọi Tùng hương, Tùng giao, Lịch thanh (Resina Pini) họ Thông.

(168)- Tạo giáp : quả Bồ kết. Có 3 thứ :

1. Tạo giáp (Gleditschia Sinensis Lam.) họ Vang. Tác dụng khai khiếu, tiêu đờm, chữa trúng phong, phong thấp, thũng độc, hạt chữa Đại trường táo kết, tràng nhạc, ác sang, gai nó gọi Tạo giác thích : tác dụng tiêu sưng, tán kết, có sức chạy thẳng đến chỗ mụn nhọt làm cho vỡ ra (thuốc chữa ung thư chưa vỡ rất hay).

2. Trư nha tạo giáp gọi tắc là Nha tạo. Là thứ Tạo giáp tốt ; quả nhỏ như hình răng lợn, nên gọi “Trư nha” (Glenditsia officimalis Hemsl.). Tác dụng như Tạo giáp ; Tạo giáp thì trị Thấp đờm tốt hơn, còn Nha tạo thì trị Phong đờm tốt hơn.

3. Phi tạo giáp : là thứ Tạo giáp quả dầy, mập, nhiều thịt (Gymnocladus chinensis Baill). Chữa phong thấp, kiết lỵ, lở ghẻ, là thuốc chữa thũng độc vô danh rất hay.

(169)- Mộc long cốt : cây Xương rồng, chính tên là Hoả ương lặc (Euphorbia antiquoram L.). Người ta thường trồng làm hàng rào ; lá đắp ngoài tiêu nhọt lở, nhựa chữa đau bụng, tẩy tháo nước. Cây có chất độc, dùng phải hết sức cẩn thận.

(170)- Căn dương đề : là rễ Dương đề, tức Nam (thổ) Đại hoàng, ta gọi Chut chít hay Lưỡi bò. Tác dụng nhuận tràng, thanh nhiệt, lương huyết sát trùng.

(171)- Mộc tặc : tức cỏ Tháp bút, đây giải là Màn nan (?). Tác dụng tiêu màng mộng, chữa các bịnh mắt, chữa sán khí, thoát giang, xích lỵ, trĩ lậu.

(172)- Hy thiêm : cỏ Cứt lợn, cũng gọi cỏ Đĩ, cỏ Bà a (Siegesbeckia orientalis L) họ Cúc. Tác dụng trừ phong thấp, lợi gân xương, chữa phong khí ở Can Thận. Cỏ này đầu tiên dùng ở miền Nam Trung-Quốc (nước Sở) ; người miền ấy gọi lợn là “hy”, gọi mùi cay hăng là “thiêm”, vì nó có cái mùi như mùi con lợn, mà khí vị cay hăng nên gọi là “Hy thiêm”. Ta gọi “cứt lợn” cũng hàm ý nghĩa đó.

(173)- Hà ma y : nguyên văn là “Ma hà y”, nghỉ lầm, nên chúng tôi sửa lại.

(174)- Chử thực : quả cây Dướng (Broussoneria papyrifera Vent) họ Dâu tằm. Vỏ cây dùng làm giấy. Chử thực có tác dụng ích khí, mạnh gân xương, bổ Thận, chữa liệt dương ; rễ nó lợi tiểu, chữa thuỷ thũng.

(175)- Thục quì : chữ này, nghi là chữ Hoàng quì, tức Hoàng thục quì chép lầm. Hoàng thục quì và “Thục quì” là 2 loài khác nhau. Hoàng thục quì hay gọi Hoàng quì, tức cây Vông vang, có hoa màu vàng (Hibiscus manithot L.) họ Bông, xem chú thích 14 ở Bài phú dược tính chỉ Nam trực giải ; hạt nó có dầu thơm, gọi Hoàng thục quì tử. Tác dụng lợi tiểu tiện, tiêu ung sang, chữa thuỷ thũng, thôi sinh, thông tuyến sữa. Còn Thục quì, có hoa màu đỏ, giống hoa Dâm bụt, cũng có thứ hoa tía, hoa trắng (Althaea rosea Cav.) tác dụng trừ nhiệt, thông trường, lợi thuỷ, tán huyết.

(176)- Phù lão :tức Phù lão đằng, đây giải là Đồng trạo (?). Nam dược thần hiệu giải là cây Lấu (?) Lĩnh nam bản thảo gọi là Hoàng long đằng, cây Rung rúc.

(177)- Trữ : tức Trữ ma, cây Gai dùng làm bánh (Boehmaria nivea L. - Gqudich). Họ Gai, rễ nó có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, chỉ huyết lợi tiểu, an thai, lá cũng có tác dụng tán huyết, chỉ tả, chữa chiết thương, kim sang, và các chứng viêm niệu đạo, tử cung.

(178)- Toan táo : tức Toan táo nhân, cái nhân của hạt táo chua (Zizyphusjujuba Mill) họ Táo ta, tác dụng bổ Can Đởm, trấn Tâm, an thần, chỉ khát, liễm hãn.

(179)- Hạc sắt : quả của cây Thiên danh tinh, một loài cây mọc cụm ở nơi núi đồng (Carpesium abrotanoides L.) họ Cúc ; quả nó chữa đau bụng, sốt rét, trị các loại giun sán. Chú ý : ngày nay trên thị trường thường bán quả Hồ la bặc dại thay cho Hạc sắt, cần phải phân biệt.

(180)- Sơn thù du : cũng gọi nhục Táo, quả Trám cơm (?) (Cornus officinalís Sieb et Zucc). Họ Thù du ; tác dụng bổ can thận, cường âm, trợ dương, ấm lưng, gối (các bài Lục vị, Tả qui, Bổ Thận, và Hoạt thị bổ Can, đều dùng vị này).

(181)- Cửu ngưu đằng : dây rau Đậu (?). Lĩnh nam bản thảo giải là dây Sáu sáu.

(182)- Qua lâu căn : chính là Quát lâu căn, cũng gọi Thiên hoa phấn, tức rễ cây Quát lâu ; một loài cây mọc leo, ta gọi dây Mướp Hổ (Trichosanthes Kirilowii Maxim) họ Bí . Đây giải Qua lâu căn la rễ Đam (?), Nam dược thần hiệu và Lĩnh nam bản thảo giải là rễ Dưa trời (?).

(183)- Thổ phục linh : biệt danh là Sơn ngạnh phạm, củ Khúc khắc ; tác dụng trừ phong thấp, lợi gân xương, chữa ung thũng ác sang, nhất là bịnh Giang mai, dùng làm chủ dược và dùng nhiều có công hiệu tốt.

(184)- Thiên pháo : chính âm là “Thiên bào” ; thiên bào sang tức giang mai sang, bịnh tim la, do có hiệp thấp mà bộ phận sinh dục mọc lên những mụn phồng nước, nên gọi là “bào” ; bào nghĩa là phồng nước (ta thường gọi Cù đinh thiên pháo). Thiên bào sang nguyên là bịnh mụn trắng phồng nước nổi khắp người, nong nhức khó chịu, do phong nhiệt thử thấp gây ra, sau nhân đó dùng chỉ bịnh giang mai mọc mụn phồng nước.

(185-186)- Thạch liên nhục : thứ hạt sen già, chìm xuống nước lâu ngày ; sắc đen, chất rắn chắc nên gọi “Thạch liên” (sen đá). Tác dụng bổ tinh khí, mạnh gân xương, đen râu tóc, làm cho thân thể nhẹ nhàng, người không già. Cữu phục (uống lâu) ý nói uống lâu có thể phản lão hoàn đồng.

(187)- Cẩu kỷ : loài cây mọc cụm, ta gọi củ Khởi (Lycium chinense Mill). Họ Cà ; quả nói gọi Cẩu kỷ tử ; bổ tinh khí, ích Can Thận, dưỡng huyết, sáng mắt, rễ gọi Địa cốt bì. Lương huyết, giáng hoả, trừ can thận nhiệt, rắn gân xương, ích tinh khí.

(188)- Qũi kiến sầu : chính là biệt danh của Vô hoạn tử (quả Bồ hòn). Đây giải là Bạch tật lê, nghi chép lầm (xem thêm chú thích 155).

(189)- Hồng đậu khấu : quả Cao lương khương, tức quả Riềng ẩm.

(190)- Chương não : quả cây Dã (?). Chương não (Camphora) nguyên là một tinh thể chế ra từ cây Chương (Cinnamọmum camphora N. et E.), mùi thơm nồng nặc, khác với Long não, tức Băng phiến (Borneo Camphora) ; chế ra từ cây Long não (Dryobelanops Camphora colebr), mùi thơm ôn hoà, tác dụng tốt hơn Chương não ; nhưng ngày nay người ta đã dùng Chương não tinh chế thành Long não, công hiệu cũng như nhau.

(191)- Thảo quyết minh : tức Thanh tương tử, hạt Mào gà trắng ; đây giải là hạt Muồng, không đúng. Xem chú thích 162 : Kê hoan hoa ở trên.

(192)- Vân đài : đây giải là Ngư tinh thảo, Giấp cạn , ghi chép sai. Vân đài chính là Cải dầu ; tác dụng tán huyết, tiêu thũng ; còn Ngư tinh thảo là rau Giấp cá, tác dụng tả nhiệt, giải độc, chữa trĩ rò, ung athư ác sang, là 2 loài khác nhau.

(193)- Tử phù bình : tức tử Bối phù bình, Bèo ván tía mặt dưới.

(194)- Sơn đậu : tức Sơn đậu căn, củ Đậu Mèo (Cajanus indicus Spreng) họ Cánh bướm, tác dụng tả nhiệt, giải độc, chữa đau họng, ho suyễn.

(195)- Giaỉ ly : biệt danh của Phong kỷ.

(196)- Cầm sinh : biệt danh của Thạch hộc.

(197)- Tích lịch căn : rễ câp Tầm sét (Jpomoea digitara L.) họ Bìm bìm. Tác dụng thanh nhiệt, giải độc, chữa kinh phong, ôn dịch. – Chú ý : Tích lịch căn là loài thảo, khác với Tích lịch châm là loài dá ; xem chú thích 19 Tích lịch châm ở trên.

(198)- Hí giả tử : hột Cà Quánh, Linh nam bản thảo giải là hột cà Quanh.

(199)- Dâm bụt : tức Mộc cẩn, đây giải là Tiều bạch hoa, không rõ. Dâm bụt có nhiều thứ :

1- Dâm bụt hoa đỏ : tức Chu cẩn hay Hồng cẩn (Hibiscus rosa sineris L.) ;

2- Dâm bụt hoa trắng : tức Bạch cẩn ;

3- Dâm bụt hoa trắng hồng, tím hoặc tía gọi Hồng cẩn biết, nghi là Tử cẩn (Hibiscus syriacus L)

4- Dâm bụt hoa cánh xẻ, tức Điếu đăng hoa (Hibiscus schizopetalus Hook). Họ Bông Dâm bụt đỏ ; giải nhiệt, thông khí huyết. Dâm bụt trắng, rễ dùng để an thai.

(200)- Đàn hoàn : chính là tên gọi của rễ Hoàng bá ; đây dùng chỉ rễ Núc nác.

(201)- Cánh thiên : cỏ Bồ tát (?), tác dụng tả nhiệt, giải độc, chữa du phong, ác sang, phụ nữ xích bạch đới, cũng chữa lở sơn. Truyền thuyết : trồng cây Cảnh thiên, tránh được hoả hoạn, nên còn có tên Hộ hoả, Cứu hoả.

(202)- Xuân căn : đây giải là rễ Bông bụt ; ghi chép sai. Xem chú thích 203 ở dưới.

(203)- Sư căn : rễ ở Dâu rừng (?). Xuân và Sư là 2 loài cây cao, sinh nơi núi đồng. Xuân thơm mà Sư hôi, nên Xuân gọi “Hương xuân” (Cadrela sinensis Juss-Toona sinensis Roem) họ Xoan ; Sư gọi “Xú xuân” (Ailanthus altissima Swingle-A.Glandulossa Desf) họ Thanh thất rễ. Xuân sắc đỏ mà thơm, gọi “Xuân căn bì”. Rễ Sư sắc trắng mà hôi, gọi “Sư căn bì”, đều dùng làm thuốc, tác dụng táo thấp, thanh nhiệt, tiêu viêm, chỉ huyết, sát trùng.

Xuân là loài cây sống lâu, trong văn học dùng ví với cha, gọi “Xuân đường” (nhà xuân) ; còn Sư là loài gỗ xấu, trong văn học ví với người bất tài. Tuệ Tĩnh có câu : “Sãi nay sư lịch tài hèn” (xem chú thích “13 phương gia giảm”).

(204)- Úc lý nhân : nhân quả Úc lý. Úc lý là loài cây mọc cụm, khác với cây Mận ; đây giải không đúng. Úc lý nhân tác dụng giáng khí, hành thuỷ, phá huyết, chữa thuỷ thũng, đại trường trì trệ.

(205)- Khổ già : đây giải là Cà cỏ gai. Nam dược thần hiệu và Lĩnh nam bản thảo đều giải là Cà Quánh.

(206)- Lăng tiêu : hoa Thung (?). Lăng tiêu hoa cũng gọi Tử uy hoa, hoa Chùm ớt (Bignonia chinensis Lam- Tecoma grandiflora Lois) họ chùm ớt là loài cây leo cao, nên gọi “Lăng tiêu”(tung mây) ; hoa màu đỏ thắm nên gọi “Tử uy” ; tác dụng phá huyết tiêu ứ, thường dùng làm thuốc phụ khoa, chữa kinh bế bụng thường đau, báng tích, xích bạch đới.

(207)- Ngoạn nguyệt thái : rau Má tía, xem chú thích (141) Liên tiền ở trên.

(208)- Phong khương : Gừng gió.

(209)- Phạt khương : một loại Gừng gió. Theo Lĩnh nam bản thảo, Phong khương là gừng gió, cũng gọi gừng Phạt.

(210)- Cẩu vi thảo : cỏ đuôi chó, hoa nó giống hình đuôi con chó, nên gọi thế (Setaria viridis Beauv.) họ Lúa, chữa bịnh mắt đỏ có lông quặm rất hay.

(211)- Phấn bủng báng : bột cây Quang lang, tức cây Báng (Arenga pinnata Mer.) họ Dừa. Bột Báng làm bánh, ăn béo người, chữa hư tổn, mất sức.

(212)- Khiên ngưu tử : hạt Bìm bìm. Có 2 thứ đen và trắng gọi Hắc sửu, Bạch sửu ; hạt nó tác dụng lợi tiểu, trục thuỷ.

(213)- Xích lỵ công, Bạch lỵ tử : lỵ tức Mạc lỵ, hoa Nhài ; xích, bạch chỉ màu hoa. Nhưng chỉ thấy thứ nhài hoa Trắng, khong thấy thứ hoa Đỏ. Còn 2 chữ “Công tử” không rõ nghĩa. Hoa Nhài có tác dụng hoà tung, hạ khí, chữa kiết lỵ, đau bụng.

(214)- Đại kim đường :đây giải là quả Sống, không rõ là quả gì ? cả cái tên “Kim đường” cũng khong thấy trong các bản thảo Trung-Quốc.

(215)- Cả mọn : như nói to nhỏ, chỉ quả Sống to mà quả Roi nhỏ.

(216)- Tử niêm bì : vỏ cây Sắn, thường dùng để sắn thuyền.

(217)- Câu vẫn : cũng gọi Đoạn trường thảo, củ Ngón, lá Ngón (Gelsemium elegans Bentham) họ Mã tiền, loài có độc.

(218)- Huyết thụ : cũng gọi Huyết dũ, tức Hồng diệp thiết thụ, ta quen gọi Huyết dụ hoặc Phát dụ (Cordyline terminalis Kunth var ferrea Bak) tác dụng lương huyết, chỉ huyết, tqns ứ, chỉ thống, vì nó là thuốc chữa huyết, nên gọi “Huyết dũ” (chữa khỏi bịnh huyết).

(219)- Qủa Lai : không rõ quả gì ?. Nước ta có một thứ cây to, gọi là Lai (Alêcrrites moluccana Willd.) họ Thầu dầu. Qủa nó có hạt, ép lấy dầu, gọi dầu Lai, dùng để chế sơn hay làm xà phòng.

(220)- Sanh mặc thảo : cỏ Nhọ nồi, tức Hạn liên thảo (Eclipta alba Hassk) họ Cúc. Tác dụng lương huyết, chỉ huyết, bổ Thận âm, đen râu tóc. “Sanh mặc” nghĩa đen là Nhọ sanh, nhọ nồi, đây lấy từ Việt mà đặt ra từ Hán. Muội nồi đất : 3 chữ này nghi là “cỏ Nhọ nồi” chép lầm.

(221)- Hạ khô thảo : cải rừng (Prunella vulgaris L.) họ hoa Môi. Cây này, sau tiết Hạ chí thì khô héo, nên gọi “Hạ khô thảo”, tác dụng thanh Can hoả, tán uất kết, chữa đau mắt, tràng nhạc, anh lựu.

(222)- Hướng dương quì : cũng gọi Thuỷ trăn, nắp Bộ (một loại rau Bợ ?). Lĩnh nam bản thảo giải là rau Bợ.

(223)- Lậu lô căn : đây giải là rễ Dứa (trứ)? Ghi chép sai. Lậu lô (Rhaponticum uniflorum (L.) De Candolle) là một loài thảo, thường mọc nơi có mặt trời, lá giống lá Ngải cứu, nhưng nhỏ và mỏng hơn, sau mùa Thu thì khô héo mà biến sắc đen, nên gọi “Lậu lô” ; “lậu” là xó nhà tối ; “lô” là đen ; (lậu lô hàm nghĩa đen xạm). Rễ nó có tác dụng giải nhiệt độc, thông tuyến sữa, trừ tê thấp ; thường dùng chữa ung thư ác sang.

(224)- Dã vú căn : củ Ráy ngứa (Alocasia macrorrhiza Schott) họ Ráy ; thường dùng chữa sốt rét và rắn cắn.

(225)- Mặt ngọc đeo say : theo sách Thái Chân ngoại truyện : Đường Minh Hoàng đến chơi Trầm hương đình, cho vời Dương quí Phi, nàng còn đang say rượu chưa tỉnh ; vua nói : “Giấc ngủ xuân của hoa Hải đường còn chưa đủ ư ?” (Cung oán ngâm khúc “Đoá Hải đường giấc ngủ xuân tiêu”). Đây dùng điển Dương quí phi để nói cái sắc tố của hoa Hải đường.

(226)- Quốc hương : sách Nho (Tả truyện) có câu : “Lan hữu quốc hương”, nghĩa là hoa lan ó mùi thơm nhất nước. Lại có câu (Sở từ) : “Dục lan thang hề mộc phương” nghĩa là tắm thang hoa lan chừ gội nước thơm (chuyện Kiều : Thang lan rủ bức tường hồng tắm hoa). Đây nói Lan có hương thơm đặc biệt và người ta thường dùngmấu thang để tắm gội.

(227)- : Vô căn đằng : dây Tơ hồng, tức dây Thỏ ty tử (Cuscuta hygrophilac H.W. Pearson) họ Tơ hồng ; màu vàng hay đỏ nâu nhạt, hạt nó có tác dụng cường âm, ích tinh, trợ gân mạch, tăng khí lực, chữa các chứng lao thương, lưng lạnh gối đau.

Chú ý : Tơ hồng vàng (màu vàng đỏ) mới gọi là Thỏ ty, là loài dây thuộc họ Tơ hồng và có tác dụng nói trên, khác với Tơ hồng xanh (màu xanh xẫm), gọi là “Tùng la” hay “Nữ la”, là loài dây thuộc họ Long não (Cassytha filiformis L.). Họ Long não chỉ có tác dụng chỉ hãn, lợi thuỷ, chữa sốt rét, đờm dãi, và mụn nhọt trên đầu thôi (Tơ hồng xanh toàn dây chứa một chất nhầy, người ta thường giã nhỏ, trộn với bột để trét thuyền).

(228)- Vô hoa quả : quả Vả (Ficus roxburghii Wall – Ficus caria L.) họ Dâu tằm. Tác dụng thanh nhiệt, khai vị, lợi cổ họng, nhuận Đại trường, chữa trĩ lậu và tiêu hoá kém.

(229)- Cẩu noãn tử : quả Chay (Artocarplus tonkinensis A. Chev) họ Dâu tằm ; quả giống dái chó, nên gọi Cẩu noãn. Tác dụng phát hãn , chữa đau lưng, sán khí.

(230)- Kim đậu tử : quả Bứa. Cây Bứa có 2 thứ : Vân nam sơn trúc tử (Garcinia cowa Roxb) và Lĩnh nam sơn trúc tử (Garcinia oblongifolia champ.). Qủa đều chua, ăn được. Lĩnh nam bản thảo giải Kim đâu tử là quả Gia.

(231)- Bất xá : quả Nhót, tức Hồ đồi tử (Elaeagnus Latifolia L.) họ Nhót. Quả chữa kiết lỵ, sắc nước rữa mụn lỡ ; rễ chữa thổ huyết, họng sưng đau ; lá chữa ho, suyễn, phế hư ; có tác dụng thu liễm chỉ tả. Tuệ-Tĩnh thường dùng lá Nhót chữa phù thũng.

(232)- Củ Nâu : đây giải là Điền trác (?), nhưng nghi là Ô vú, Bột tề (Mã thầy).

(233)- Độc cước : tức Độc cước thái, rau Má đất ; xem chú thích (141) Liên tiển ở trên.

(234)- Mồng tơi : đây giải là Điềm đình (?), nhưng theo bản thảo, thì Mồng tơi là Lạc quì (Basella rubra L.- Basella alba L.) tác dụng tán nhiệt, hoạt trung, lợi đại tiểu tràng.

(235)- Vũ, mao : “Vũ” là lông vũ, chỉ loài chim ; “mao” là lông mao, chỉ loài thú.

(236)- Lân, giáp : “Lân” là loài có vảy, “giáp” là loài có mai. Ngư trùng : loài cá, loài sâu bọ.

(237)- Địa long : biệt danh của Khâu dẩn : con giun, trùn (tiếng miền Nam). Bạch cảnh khâu dẩn : giun khoan cổ, tác dụng thanh nhiệt, hoạt trung, lợi thuỷ, trừ thấp , chữa ôn bịnh, thương hàn, nhiệt kết, sốt rét, Hoàng đản to bụng. Theo Lý Thời Trân : giun khoan cổ là thứ Giun già ; chữa thuốc thường dùng loại giun này.

(238)- Thiên long :biệt danh của Ngô công, cũng gọi là Bách túc trung, con Rết.



Xích cước : chân đỏ. Rết có thứ chân vàng, thứ chân đỏ. Làm thuốc thường dùng thứ chân đỏ và đầu đen.

(239)- Thiên mã : biệt danh của Đường lang, Bọ ngựa.

(240)- Thủ cung : con Thạch sùng, đây nói Tắc kè hình giống Thạch sùng.

(241)- Tử khoáng : chính âm là Tử canh, tức Cánh kiến ; do chất dãi nhựa của một loài kiến kết tụ trên cành cây mà thành ra ; sắc tía mà đá khoáng (chữ khoáng này cũng chỉnh âm là canh), nên gọi “Tử khoáng” (đá khoáng màu tía). Tác dụng ích dương tinh, phá tích huyết, chỉ thống, sinh cơ, chữa phụ nữ đới hạ, băng lậu.

(242)- Thử phụ : bọ Lậu (?), một loài bọ sinh sản ở nơi ẩm thấp, nên cũng gọi “Thấp sinh trùng”. Tác dụng lợi thuỷ, thông huyết, chữa chứng bí tiểu tiện, và phụ nữ bế kinh.

(243)- Mã hoàng kỳ : tức Mã hoàng, Mã kỳ, 2 biệt danh của Thuỷ điệt, con Đỉa.

(244)- Thôi xa khách : biệt danh của Khương lang, bọ Hung. Con bọ này thường chúi mình trong phân đất, như động tác đẩy xe, nen gọi “Thôi xa khách” (khách đẩy xe).

(245)- Xích nhãn ngư : biệt danh của Tổn ngư, cá Rói. Mắt nó có tia máu đỏ xuyên qua đồng tử, nên gọi “Xích nhãn ngư”. Ta thường có câu nói : “đỏ như mắt cá Rói”.

(246)- Phục dực : biệt danh của Biển bức, con Dơi. Ban ngày nó ẩn náu, đem mới bay ra, nên gọi “Phục dực” (núp cánh). Có tác dụng sáng mắt, lợi thuỷ, chữa mắt mờ và nhức ngứa, sốt rét, tràng nhạc, phụ nữ đới hạ, tiểu nhi kinh phong.

(247)- Trẫm độc : chất độc chim Trẫm. Trẫm là loài chim hay ăn rắn độc ; lông cánh nó có chất độc, khoắng vào rượu uống chết người. Có sách nói mật Công (mật con Khổng tước) cũng có chất dộc, nên đây nói : “Trẫm độc dữ quá mật Công”.

(248)- Tang phiêu phiêu : chính là tổ trứng con Bọ Ngựa trên cây dâu đây giải là “bà ngựa cây dâu”, không rõ nghĩa ; nghi có chép lầm. Con cái Đường lang : chữ “con” nghi là chữ “ổ” (tổ) chép lầm.

(249)- Thạch đầu ngư : cũng gọi là Thạch thủ ngư, cá Dóng (Sciaena schlegeli Blecker) ; trong đầu nó có cái xương bằng hạt đậu to, mà rắn như đá, nên gọi “Thạch đầu ngư”. Đá xương ấy dùng chữa bịnh thạch lâm (đái ra sỏi) rất tốt.

(250)- Ô xà : cũng gọi Ô sao xà, rắn Hổ trâu ; màu đen nhánh, lưng có 3 cạnh, hoặc nơi sống lưng cao, như sống gươm. Tính hiền lành, không hay cắn vật khác. (Mã chỉ nói : “Miền Giang-đông Trung-Quốc có thứ Hắc sao xà, thường quấn vật đến chết, đó là cá biệt”). Tác dụng trừ phong thấp, chữa bịnh kinh giật, tê bại.

(251)- Kim xà : rắn Mai gầm, tức Hoàng hạm xà (theo Lĩnh nam bản thảo, Hoàng hạm xà nhất danh Kim xà ; và Lĩnh nam bản thảo, cũng như Nam dược thần hiệu, đều giải Hoàng hạm xà là rắn Mai gầm).

(252)- Gà Lôi : tức Lôi kê, đây giải là Dã kê, lông màu trắng có vằn đen, cũng là loài chim Trĩ. Miền Sơn tây, Bắc ninh nước ta có giống gà này (truyền thuyết : nuôi nó tránh được hoả tai).

(253)- Ô kê : tức Ô cốt kê, gà đen xương, gà Ác. Giống gà này lông trắng hoặc đen, hoặc đốm, còn xương thì đen, hoặc da cũng đen ; làm thuốc thường dùng thứ lông màu trắng, mà xương da đều đen là tốt (cứ xem lưỡi nó đen, thì xương da đều đen). Tác dụng ích Can Thận, bổ hư lao ; sách Bí-chí có bài “Ô cốt kê hoàn” chữa các chứng kinh, sản, băng, đới và suy nhược của phụ nữ.

(254)- Triền hoàng : tức Tầm hoàng hay Triền ngư ; cũng gọi là Hoàng ngư, cá Mai (?) ; một loại cá to dài 2-3 trượng, nặng hàng nghìn cân, tác dụng lợi ngũ Tạng, nhưng ăn nhiều khó tiêu.

(255)- Mạn lệ : có 2 loài, một loài ở sông, gọi Mạn lệ, cá Thiết linh, cá Lóc (Anguilla lostoniensis), một loài ở biển, to hơn loài ở sông, cá Rựa (Muraenosox cinereus). 2 loài đều mình dài (loài sông dài 3 xích, loài biển tới 6 xích) và có tác dụng bổ hư, giải độc, sát trùng, trừ phong thấp (xem thêm 2 vị này ở Nam dược thần hiệu).



Каталог: sachviet -> Y-Hoc-Co-Truyen

tải về 3.47 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương