Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới



tải về 0.51 Mb.
trang1/5
Chuyển đổi dữ liệu02.06.2018
Kích0.51 Mb.
#39340
  1   2   3   4   5

Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới

(Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39)



www.conggiaovietnam.net         conggiaovietnam@gmail.com



  

Tài Liệu Năm Thánh của TGP Saigon

(gồm Lời Chủ Chăn 6.11.2009 và 6 phần hướng dẫn)

 

 



LỜI CHỦ CHĂN 6.11.2009

 

Kính gởi anh em linh mục,



anh chị em tu sĩ và giáo dân trong gia đình giáo phận

 

Thưa anh chị em,



Trong Lời Chủ Chăn 18.10.2009, theo Thư Công bố Năm Thánh 2010 của HĐGM.VN, tôi đã ghi lại những điều cần làm trong việc chuẩn bị (Tuần Cửu Nhật) cũng như trong việc cử hành đức tin, tuyên xưng đức tin, và sống đức tin trong Năm Thánh 2010.  Trong Lời Chủ Chăn tháng này, tôi đề nghị (1) cử hành Tuần Cửu Nhật chuẩn bị Năm Thánh ; (2) thể thức cùng ý nghĩa mục đích cử hành Lễ Khai Mạc Năm Thánh 2010 tại giáo phận cũng như tại các giáo hạt và giáo xứ,  (3) và những việc cần làm trong Năm Thánh 2010. 

1. Tuần Cửu Nhật

Theo chỉ dẫn của HĐGM VN, gia đình giáo phận cần thực hiện Tuần Cửu Nhật nhằm giúp cho mọi người ý thức và sốt sắng cử hành Năm Thánh để mang lại nhiều lợi ích thiêng liêng. (x. Thể Thức cử hành Tuần Cửu Nhật)

 

2.  Cử hành Lễ Khai Mạc Năm Thánh

Các cộng đoàn tín hữu có thể cử hành lễ khai mạc theo thể thức sau đây :

2.1  Công bố Năm Thánh cùng ý nghĩa và mục đích  (x. Lời Chủ Chăn 1.10.2009)

2.2  Rước kiệu hoặc cử hành nghi thức tôn vinh các tiền nhân và các chứng nhân đức tin, các Thánh Tử Đạo VN, đặc biệt 8 vị sinh trưởng trong địa phận Tây Đàng Trong-Saigon (x. Tổng Giáo phận Sàigòn qua dòng lịch sử)

2.3  Cử hành nghi thức Sám Hối về những thiếu sót, trong quá khứ cũng như trong hiện tại, đối với Chúa, đối với nhau, cũng như mọi người anh em đồng bào và đồng loại.

2.4 Thánh Lễ kết thúc bằng Kinh Năm Thánh và phép lành ban ơn Toàn Xá Năm Thánh.



Ghi chú:

a- Cần có lời dẫn giải, thánh ca, có thể có hình ảnh minh hoạ, khơi dậy tâm tình cảm mến tạ ơn và cầu khẩn.

b- Giáo phận cử hành lễ khai mạc vào chiều Thứ Sáu 27.11.2009, tại Trung Tâm Mục Vụ theo phụng vụ Các Thánh Tử Đạo VN.

c- Giáo hạt có thể cử hành lễ khai mạc cho giáo hạt tại nhà thờ đã được chỉ định cho mọi người trong giáo hạt hành hương, vào ngày Thứ Bảy 28.11.2009. Nếu vào buổi sáng, theo phụng vụ Các Thánh Tử Đạo VN. Nếu vào buổi chiều, theo phụng vụ lễ Chúa Kitô Vua.

d- Giáo xứ, theo thể thức đơn giản, cử hành lễ khai mạc tại nhà thờ giáo xứ vào Chúa nhật 29.11.2009, cho mọi người trong giáo xứ hưởng nhận ơn Toàn Xá.

3.  Hành hương

Mỗi giáo hạt cùng các giáo xứ trong hạt cần phối hợp với nhau lên lịch tổ chức cho các đoàn trong các giáo xứ hành hương đến nhà thờ chánh toà, hoặc đến nhà thờ được chỉ định cho mỗi hạt.  Còn cá nhân và gia đình thì tự do đi hành hương nơi và lúc thuận tiện cho mình.

Ngoài nhà thờ Chánh Toa và Nhà nguyện Đại Chủng viện, mỗi hạt có một nhà thờ được chỉ định cho mọi người hành hương  và hưởng nhận ơn Toàn Xá :

    1. Hạt Bình An:               nhà thờ Giáo xứ Bình An

    2. Hạt Chí Hoà:              nhà thờ Chí Hoà

    3. Hạt Chợ Quán:          nhà thờ Chợ Quán

    4. Hạt Gia Định:             nhà thờ Gia Định

    5. Hạt Gò Vấp:               nhà thờ Hạnh Thông Tây

    6. Hạt Hóc Môn:             nhà thờ Bùi Môn

    7. Hạt Phú Nhuận:         nhà thờ Đa Minh

    8. Hạt Phú Thọ:             nhà thờ Đồng Tiến

    9. Hạt Saigon:                nhà thờ Chợ Đũi

   10.Hạt Tân Định:            nhà thờ Tân Định

 

   11. Hạt Tân Sơn Nhì:         nhà thờ Tân Phú



   12. Hạt Thủ Đức:               nhà thờ Thủ Đức

   13. Hạt Thủ Thiêm:            nhà thờ Tân Lập

   14. Hạt Xóm Chiếu:           nhà thờ Xóm Chiếu

   15. Hạt Xóm Mới:               nhà thờ Hà Nội

 

4.  Tuyên xưng đức tin

Giáo hạt, giáo xứ, liên đới tổ chức học hỏi tài liệu "Xây dựng Giáo Hội-Mầu Nhiệm-Hiệp Thông-Sứ Vụ".  Mục đích học hỏi là tạo ý thức cho mọi người quyết tâm sống ba mối tương quan với Chúa, với nhau, và với mọi người, sống mỗi mối tương quan trong ánh sáng chân lý cứu độ của Chúa Kitô và với động lực của tình yêu cứu độ của Ngài, nhằm góp phần vào sự phát triển toàn diện con người cùng gia đình, Giáo Hội cùng xã hội.

Nội dung và chương trình sẽ được Ban Tổ Chức Năm Thánh của giáo phận kịp thời gởi đến các giáo hạt và giáo xứ, các giới và đoàn thể. (x. Đề cương học hỏi Năm Thánh)

 

5.  Những việc cần làm để sống đức tin trong thời gian tới

Lịch sử Giáo Hội tại VN 350 năm, hay trong 50 năm trở lại đây, xác minh sự thật này :

- (1) Trong gian truân, người kitô hữu sống kiên nhẫn và chuyên cần cầu nguyện (x. Rom 12,12);

- (2) Nhờ đó, không có ai, không có gì, cả gian truân, khổ đau, hiểm nguy, bách hại, có thể tách người kitô hữu ra khỏi tình yêu cứu độ của Chúa Kitô (x. Rom 8, 35-39); 

- (3) Nhờ sống trong chân lý và tình yêu cứu độ của Chúa Kitô, người kitô hữu được lớn lên về mọi phương diện, Giáo Hội cùng xã hội được phát triển và dần dần vươn đến Chúa Kitô là Đầu, là Chân Lý và là Tình Yêu cứu độ của Cha trên trời (x. Eph 4,15).

Dưới ánh sáng chân lý cứu độ đó, chúng tôi đề nghị với mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn, mỗi đoàn thể, mỗi giới, sống và xây dựng tương quan với Chúa, với nhau, và với mọi người, qua những việc làm cụ thể như sau :

- duy trì và cải tiến giờ kinh tối trong gia đình ;



- củng cố tình huynh đệ liên đới với nhau trong các cộng đoàn tín hữu bằng những việc làm cụ thể ;

- phát huy tình thân thiện với gia đình không công giáo, phục vụ người nghèo khổ, bị bỏ rơi.

Xin Chúa chúc lành và ban ơn trợ giúp cho mọi thành viên trong gia đình giáo phận góp phần xây dựng và phát triển Giáo Hội cùng xã hội theo như lòng Chúa mong muốn.

   

 

Gioan B. Phạm Minh Mẫn          Phêrô Nguyễn Văn Khảm



Giám mục của anh chị em

 

Ghi chú: Xin vui lòng tham khảo những tài liệu dưới đây:

 

1. Tổng Giáo phận Sàigòn qua dòng lịch sử,

2. 30 năm Phúc Âm hoá trong môi trường xã hội VN,

3. Lời Chủ Chăn 1.10.2009 : mục đích, ý nghĩa Năm Thánh

4. Thể thức cử hành Tuần Cửu Nhật chuẩn bị Năm Thánh,

5. Chủ đề Thánh lễ Tuần Cửu Nhật,

6. Đề cương học hỏi trong Năm Thánh.

 

 



 

Một: TỔNG GIÁO PHẬN SÀIGÒN QUA DÒNG LỊCH SỬ

 

350 năm thiết lập hai Giáo phận Tông Toà tại Việt Nam

165 năm Giáo phận Tây Đàng Trong

50 năm Tổng Giáo phận Sàigòn

TỔNG GIÁO PHẬN SÀIGÒN QUA DÒNG LỊCH SỬ 

NỘI DUNG  

Lời mở


I. Tin Mừng tại Đàng Trong trước 1659

II. Thời Giáo phận Tông Tòa Đàng Trong 1659

III. Giáo phận Tây Đàng Trong (Sàigòn) 1844-1960

    Cơ sở và sinh hoạt



IV. Năm mươi năm Tổng Giáo phận Sàigòn  1960 - 2010

     Cơ sở và sinh hoạt

Bảng đối chiếu những số liệu

 

9.9.2009



Kỷ niệm 350 năm ngày thiết lập Giáo hội tại Việt Nam

Gioan B. Phạm Minh Mẫn

Hồng Y Tổng Giám mục

 

Lời mở 

Mừng 50 năm hàng giáo phẩm Việt Nam, cũng là mừng 50 năm của Tổng Giáo phận Sàigòn, hiện nay là Tổng Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh.

Nhưng tuổi của Giáo phận đã là 165 NĂM, tính từ thời điểm thành lập Giáo phận Tây Đàng Trong năm 1844, rồi được đổi tên là Giáo phận Sàigòn ngày 03.12.1924.

Xa hơn nữa, vùng đất này còn thuộc về Giáo phận Đàng Trong, mà năm nay Giáo hội Việt Nam mừng kỷ niệm 350 năm thành lập (1659-2009).

Vào thời điểm được thiết lập, địa bàn của Giáo phận Tây Đàng Trong hầu như bao gồm tất cả 10 giáo phận hiện nay thuộc Giáo tỉnh Sàigòn. Từ giáo phận này, lần lượt từng giáo phận được tách ra.

Tài liệu ngắn này chỉ cố gắng ghi lại cách khái quát một số chứng tích QUA DÒNG LỊCH SỬ hình thành và phát triển gia đình giáo phận trên quê hương Việt Nam, nhằm ôn lại những bài học lịch sử và những tấm gương quảng đại hy sinh.

Hy vọng góp phần khơi lên tâm tình tạ ơn Cha trên trời đã gieo nhiều hạt giống Tin Mừng cùng hồng ân cứu độ trên đất nước chúng ta, đồng thời biểu lộ lòng biết ơn đối với các bậc tiền bối cũng như các chứng nhân đức tin đã dày công khai hoang, chăm sóc cùng xả thân vun tưới cho cánh đồng giáo phận phát triển xanh tươi, hứa hẹn một mùa gặt bội thu.

Tâm tình tạ ơn Chúa cùng lòng biết ơn các tiền nhân sẽ là động lực thúc đẩy mọi thành phần dân Chúa tích cực tham gia vào công cuộc phát triển Giáo Hội cùng con người và đất nước, mở đường cho mọi người sống dồi dào trong chân lý và tình yêu, trong an bình và thịnh vượng, theo như lòng Chúa mong muốn.

 

I. TIN MỪNG TẠI ĐÀNG TRONG TRƯỚC 1659

Nếu ở Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra phía Bắc) lịch sử ghi nhận thừa sai Inêkhu đã có mặt tại Bùi Chu năm 1533, thì những thừa sai đầu tiên có mặt tại vùng Chân Lạp là một vài linh mục dòng Đaminh đến từ Malacca, khởi đầu là cha Juan de la Cruz có mặt tại Hà Tiên năm 1550. Năm 1585, linh mục dòng Phanxicô có mặt trên đất Saigon, cụ thể là ở Chợ Quán. Đến thế kỷ sau, vào những năm 1641-1645, khi chúa Nguyễn cấm đạo, một số Kitô hữu từ miền Trung di tản vào Nam để làm ăn sinh sống, họ hợp thành những cộng đoàn tín hữu đầu tiên, tập trung tại Chợ Quán, Gia Định, Lái Thiêu, Bến Gỗ, và Long Thành …

Từ 1615, các cha Dòng Tên bắt đầu đến truyền giáo tại Hội An thuộc Đàng Trong. Trong khoảng 50 năm, các vị đã hoàn thành một công trình đáng kể, góp phần đặt nền móng cho Giáo hội tại Việt Nam. Trong giai đoạn này, ta ghi nhận hai chân dung sứ giả và chứng nhân Tin Mừng nổi bật :

- Thừa sai Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) đến Đàng Trong năm 1624. Cha có những nỗ lực đặc biệt trong việc hội nhập văn hoá. Năm 1651, cha đã xuất bản cuốn Giáo Lý đầu tiên "Phép Giảng Tám Ngày", và Tự điển Việt-Bồ-La, góp phần quan trọng trong việc hình thành chữ quốc ngữ, và thành lập Hội Thầy Giảng, tạo cơ hội cho các tín hữu nhiệt thành thể hiện vai trò làm muối men và chứng nhân Tin Mừng trong xã hội Việt Nam xưa cũng như nay.

            - Trong số những tín hữu tiên khởi, sáng ngời lên chân dung một thầy giảng 19 tuổi, chân phước Anrê Phú Yên, ngày 26.07.1644 đã dùng máu đào vun tưới cho hạt giống Tin Mừng trên cánh đồng đức tin này, đã sẵn sàng “lấy tình yêu để đáp lại tình yêu, lấy mạng sống đáp lại mạng sống"

Trong bản báo cáo cuối năm 1632, gởi cho bề trên ở Macao, khi tường thuật lại kết quả truyền giáo tại Việt Nam, cha Gaspar d’Amaral đã ghi nhận rằng : “Lương dân gọi bổn đạo là những người theo đạo yêu nhau”.



II. THỜI GIÁO PHẬN TÔNG TÒA ĐÀNG TRONG 1659

Trong hướng đi của Bộ Truyền Giáo và nhờ sự vận động của cha Đắc Lộ, ngày 09.09.1659, Đức Alexandre VII thiết lập hai giáo phận Đàng Ngoài và Đàng Trong, đồng thời bổ nhiệm : đức cha Phanxicô Pallu làm Đại diện Tông Tòa Đàng Ngoài ; đức cha Phêrô Lambert de la Motte làm Đại diện Tông Tòa Đàng Trong. Các ngài là tổ phụ của Hội Thừa Sai Hải ngoại Paris, là đơn vị chính đảm nhiệm việc tổ chức Giáo hội tại vùng truyền giáo Việt Nam suốt 300 năm thời Tông Tòa (1659-1960).

Trước khi phân chia giáo phận năm 1844, Giáo phận Đàng Trong đã trải qua 185 năm, với 10 giám mục Đại diện Tông Tòa, cùng với 8 giám mục phó, theo danh sách sau :

1. Pierre Lambert de la Motte                      (1658-1679) 

         - Louis Laneau, Giám quản                (1679-1682)

2. Guillaume Mahot Mão                             (1680-1684) 

         - Pierre Joseph Duchesne, phó           (1684-1684)

3. Francisco Pérez                                     (1691-1728) 

         - Charles Marin Labbé, phó                (1700-1723)

4. Alexandro di Alexandris, Barnabit            (1727-1738) 

         - Valère Rist, Ofm, phó                      (1735-1737)

5. Armand Lefèbvre                                     (1743-1760) 

         - Edmond Bennetat, phó                    (1748-1761)

6. Guillaume Piguel                                    (1764-1771)

7. Pierre Pigneaux de Béhaine                    (1771-1799)

8. Jean Labartette (phó kế vị)                       (1784-1823)

         - Pierre Marie Le Labousse, phó         (1801-1801)

         - Jean Doussain, phó                         (1808-1809)

         - Jean Joseph Audemar, phó              (1817-1821)

9. Jean Louis Taberd Từ                             (1827-1840)

10. Etienne Cuenot Thể, phó kế vị                (1835-1844)

Vào thời Sàigòn được thành lập năm 1698, có thêm một số di dân công giáo theo các cha dòng Tên vào Nam. Sang thế kỷ XVIII, dòng Phanxicô đã hiện diện tại đây, kể từ lúc cha José Garcia được cử vào giúp di dân tại Chợ Quán năm 1722. Dòng đã mở thêm nhiều họ đạo mới từ Saigon, đến Lái Thiêu, Mỹ Tho và Hà Tiên. Đức cha Guillaume Piguel thường xuyên lui tới các vùng Chợ Quán, Đồng Nai để ban bí tích Thêm Sức. Trong giai đoạn này, Giáo hội phát triển cùng với việc mở mang đất nước về Phương Nam.

Trên địa bàn sau này là giáo phận Tây Đàng Trong, năm 1747, tổng số giáo dân mới có khoảng 5.500 người. Hội thừa sai Paris phụ trách trấn Thuận Thành (vùng Phan Thiết), trấn Đồng Nai và dòng Phanxicô coi sóc trấn Sàigòn. Đến cuối thế kỷ 18, số tín hữu miền nam đã là 87.297 sinh sống trong 1024 làng có người công giáo.

Đặc biệt thời này chúng ta ghi nhớ ba nhân vật :

1. Đức Cha Lambert, Đại diện Tông Toà Đàng Trong tiên khởi, kiêm giám quản Giáo phận Đàng Ngoài, đã thực hiện những chọn lựa căn bản để xây dựng nên tòa nhà Giáo hội Việt Nam :

+ Tiến hành các công đồng Juthia 1664, Phố Hiến 1670 và Hải Phố 1672. Đề ra đường hướng mục vụ lâu dài, đặc biệt là việc đào tạo linh mục, tổ chức Nhà Đức Chúa Trời và sự cộng tác của các quý chức họ đạo

+ Thiết lập hàng giáo sĩ địa phương, gồm : lập chủng viện thánh Giuse tại Ayutthaya, cho miền Đông Á. Chủng viện tồn tại gần 300 năm (1665-1945) ; phong chức cho nhiều linh mục Việt Nam khởi từ bốn vị tiên khởi năm 1668.

+ Thành lập một dòng tu bản xứ là dòng Mến Thánh Giá : Đàng Ngoài năm 1670, Đàng Trong năm 1671. [1] Các nữ tu đã có vai trò đặc biệt suốt mấy trăm năm lịch sử Giáo Hội Việt Nam, nhất là trong những thời bách hại.

2. Đức Cha Bá Đa Lộc (1771-1799), biên soạn tự điển Việt-La, được đánh giá là khá hoàn chỉnh về mặt từ ngữ và văn phạm ; và cuốn "Thánh Giáo Yếu Lý", được sử dụng cho đến giữa thế kỷ XX [2]. Thời của ngài, tòa giám mục được đặt ở Thị Nghè, Sàigòn (1789). Ngài là giám đốc chủng viện ở Hòn Đất (1765-69), và tái lập chủng viện Lái Thiêu (1787).

3. Linh mục Philipphê Phan Văn Minh (1815-1853). Khi còn là chủng sinh, thầy Philipphê đã cộng tác với đức cha Taberd Từ trong việc biên soạn "Nam Việt Dương Hiệp Tự Vị" (1838). Cha quy tụ giới nho gia, mở hội thơ ca tụng Thiên Chúa. Nhiều bài thơ còn lưu giữ trong : “Phi-Năng thi tập”, “Hội Thơ Vịnh Ê-Vang”, và Nước Trời Ca”

Ba cơ sở cộng đoàn công giáo được hình thành trên đất Sàigòn vẫn còn tồn tại đến nay là :

- Họ đạo Chợ Quán (1610, 1727)

- Họ đạo Chí Hòa (1771)

- Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm (1840).

 

III. GIÁO PHẬN TÂY ĐÀNG TRONG (SÀIGÒN) 1844-1960

Ngày 17.05.1844, Đức Gregoriô XVI phân chia giáo phận Đàng Trong thành hai giáo phận Đông Đàng Trong (Quy Nhơn) và Tây Đàng Trong (Sài Gòn). Ngài bổ nhiệm đức cha Dominique Lefèbvre Ngãi (1844-1864) làm Đại diện Tông toà đầu tiên của Giáo phận Tây Đàng Trong. Ngôi nhà Đức Cha Lefèbvre sử dụng làm Toà Giám mục, nay trở thành ngôi nhà cổ trên 200 tuổi, toạ lạc trong khuôn viên Toà Giám mục, được sử dụng làm nhà nguyện.

Giáo phận Tây Đàng Trong khi thành lập bao gồm Lục Tỉnh Nam kỳ và Campuchia, với 19 linh mục (16 Việt, 3 Pháp), chăm lo mục vụ cho 23.000 giáo dân.

Sau khi phần đất nay là địa bàn giáo phận Cần Thơ và Long Xuyên, cùng tách ra theo Giáo phận Nam Vang năm 1850, Giáo phận Tây Đàng Trong chỉ còn bốn tỉnh : Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và Vĩnh Long. Vào thời điểm năm 1890, giáo phận Tây Đàng Trong có 50 họ chánh có linh mục và 105 họ lẻ không có linh mục.

Chăm lo mục vụ cho Giáo phận Tây Đàng Trong tức Giáo phận Sàigòn từ năm 1844 đến năm 1960, có tất cả 8 Giám mục Hội Thừa sai và một giám mục Việt Nam.

1- GM Dominique Lefèbvre Ngãi       (1844-1864)

2- GM Jean Claude Miche Mịch        (1864-1873)

3- GM Fr. Joseph Colombert Mỹ       (1873-1894)

4- GM Joan Marie Dépierre Đễ         (1895-1898)

5- GM Lucien E. Mossard Mão         (1899-1920)

6- GM Victor Charles Quinton Tôn   (1920-1924)

7- GM Marie J. Dumortier Đượm      (1926-1941)

8- GM Jean Cassaigne Sanh            (1941-1955)

9- GM Simon-Hoà NguyễnVăn Hiền   (1955-1960)

Trong khoảng giữa thế kỷ 19, Giáo phận Tây Đàng Trong được vun tưới bằng máu đào của hàng trăm chứng nhân đức tin. Trong số 117 vị được tôn phong Hiển Thánh ngày 19.06.1988 tại Roma, có tám vị sinh trưởng trong giáo phận :

1.       Thương gia Máthêu Lê Văn Gẫm  (Gò Công, 11.05.1847),

2.       Lm. Philipphê Phan Văn Minh           (Cái Mơn, 03.07.1853),

3.       Ô.Trùm Giuse Nguyễn Văn Lựu       (Cái Nhum, 02.05.1854)

4.       Lm. Phaolô Lê Văn Lộc                  (An Nhơn, 13.02.1859),

5.       Ông Phaolô Trần Văn Hạnh  (Tân Triều + Chợ Quán, 28.05.1859),

6.       Lm Phêrô Đoàn Công Quý               (Búng, 31.07.1859),

7.       Ông Câu Emmanuel Lê Văn Phụng (Cù Lao Giêng, 31.07.1859),

8.       Lm. Phêrô Nguyễn Văn Lựu          (Gò Vấp, 07.04.1861).



Cơ sở và sinh hoạt

Chúng ta cần ghi nhận công lao của các vị tiền bối về nhiều cơ sở và cộng đoàn vẫn tồn tại cho đến nay :



- Đức cha Lefèbvre Ngãi thiết lập : Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán (1852) ;

Ngài mời Dòng thánh Phaolô (1860) ; Đan viện Cát Minh đến Sàigòn (1861) ;

năm 1861 dời Chủng viện Thánh Giuse về vị trí hiện nay (cha giám đốc tiên khởi Wibaux Vị xây dựng cơ sở). Tính đến nay chủng viện này đã đào tạo trên 1.250 linh mục.

Năm 1863, ngài thành lập họ đạo Sàigòn.

- Đức cha Miche Mịch đã mời Dòng các sư huynh Lasan tới mở trường công giáo.

- Đức cha Colombert Mỹ xây dựng Nhà thờ Chánh toà Sàigòn năm 1877.

- Đức cha Mossard Mão đã xây dựng Toà Giám mục (1900), và nhà hưu Chí Hoà (1910). Năm 1905, ngài đón nhận hai tỉnh Phan Thiết và Đà Lạt, cắt ra từ giáo phận Đông Đàng Trong vào giáo phận Tây Đàng Trong.

- Dưới thời đức cha Dumortier Đượm, giáo phận Vĩnh Long được tách ra từ SàiGòn năm 1938.

- Thời đức cha Cassaigne Sanh, năm 1954, giáo phận đã tiếp đón đông đảo đồng bào di cư từ miền Bắc, giúp định cư nhiều xứ đạo. Ngài rất thiết tha với việc loan báo tin mừng cho anh em Dân tộc thiểu số, công việc ngài đã nhận từ khi còn là linh mục (1927), và tên của ngài gắn liền với trại phong Di Linh mà ngài sáng lập (1929), cũng là nơi ngài hưu dưỡng và an nghỉ trong Chúa.

- Dưới thời đức cha Simon Hoà Hiền, rất nhiều giáo xứ cho dân định cư được thành lập tại các vùng Biên Hòa, Hố Nai, Gia Kiệm, Bảo Lộc, và Sàigòn… Đức cha cũng thiết lập một số cơ sở như viện Đại học Đà Lạt, Giáo hoàng Học viện Piô X, Biệt thự Thánh Tâm. Ngài đã tổ chức Đại hội Thánh Mẫu Toàn quốc tại Sàigòn năm 1959 (kỷ niệm 300 năm Giáo phận tông tòa tại Việt Nam và 100 năm Đức Mẹ Lộ Đức) ; và chủ sự nghi lễ nâng nhà thờ Chính Toà lên hàng Vương Cung Thánh Đường ngày 09.12.1959.

Ngoài ra, Trung Tâm Công Giáo số 72/12 Trần Quốc Toản do Đức cha Phạm Ngọc Chi mua năm 1957, hiện là trụ sở II của Hội đồng Giám Mục Việt Nam , với các văn phòng : Bác Ái Xã Hội, Truyền thông, Công giáo tiến hành …

Theo báo cáo của các Cha sở năm 1910, còn lưu lại trong văn khố Toà Tổng Giám Mục, giáo phận Sàigòn hiện có 23 họ đạo tính đến năm 2010 được trên 100 năm hình thành. Một số được hình thành nhiều năm trước khi xây nhà thờ. 




Chợ Quán (1610,1727)

Tân Định (1861)

Chợ Cầu (1869)

Chí Hoà (1771)

Khánh Hội-Vĩnh Hội (1861)

Thủ Đức (1879)

An Nhơn (1780, 1856)

Hạnh Thông Tây (1861-1910)

Tân Quy (1880)

Thánh Gẫm (1848)

Sàigòn, Chánh Toà (1863,1877)

Tắc Rỗi (1880)

Xóm Chiếu (1856)

Cầu Kho (1863)

Bình Chánh (1884)

Gò Vấp (1857)

Bà Điểm (1863)

Thị Nghè (1888)

Chợ Đũi (1859)

Phanxicô (1865)

Long Đại (1900)

Thủ Thiêm (1859)

Gia Định (1867)

 

 Sau đó ngày càng có nhiều họ đạo mới được thành lập. Thời đức cha Dumortier Đượm (1926-41) : 2 họ đạo ; thời đức cha Cassaigne Sanh (1941-55) : 20 họ đạo ; và thời đức cha Simon-Hoà Hiền (1955-1960) : 54 họ đạo. 

Sau năm 1954, chủ yếu do làn sóng di dân, Giáo phận phát triển cách đột biến về nhân sự cũng như cơ sở. Cụ thể là vào thời điểm :




tải về 0.51 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương