Giáo trình dược liệu I một số khái niệm c



tải về 2.19 Mb.
trang1/13
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích2.19 Mb.
#31239
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13


Giáo trình dược liệu
I một số khái niệm cơ bản

Dược liệu: là môn học chuyên nghiên cứu những nguyên liệu đầu dùng làm thuốc (material medicin) phòng, trị bệnh cho ng­ời và vật nuôi. Những nguyên liệu này có nguồn gốc từ cây cỏ, động vật và khoáng vật. Trong đõ có tới trên 80% nguyên liệu đầu dùng làm thuốc có nguồn gốc từ thực vật nên đã đổi tên thành d­ược liệu (medicin plants).

Đông dư­ợc: là môn học nghiên cứu cách thu hái, bảo quản, sử dụng và bào chế các nguyên liệu dùng làm thuốc của các nước phuơng Đông trong phòng trị bệnh.

Dư­ợc liệu thú y: là môn học nghiên cứu các nguyên liệu dầu, dùng làm thuốc phòng, trị bệnh cho vật nuôi. Đồng thời, còn nghiên cứu thêm các cây có khả năng gây độc cho gia súc, gia cầm và biện pháp phòng trị. Vậy, muốn hiểu biết sâu và đầy đủ môn dược liệu học thú y chúng ta không thể tách rời những kiến thức về dược lý, độc chất và dược liệu học nói chung của nhân loại.

II. – Lịch sử và sự phát triển.


  1. Lịch sử và sự phát triển của môn dược liệu học trên thế giới.

Môn Dược liệu học cũng như thế giới. Từ thời xa xưa nhất, con người đã tìm cho mình những thức ăn và các vị thuốc trong cỏ cây và tập phân biệt chúng với cây độc. Đầu tiên các hiểu biết được truyền miệng. Sau được ghi chép lại.

Trên các bảng đất sét dược giữ lại tại bảo tàng ở Anh; người ta đã tìm được các tài liệu cổ từ thời kỳ Xumêriêng Acadi, Babilon. Một số khác có từ 4000 năm trước công nguyên, được ghi bằng hình nón theo lệnh của vua Axyri Axuapanipal, trên đó có ghi các dược liệu: thuốc phiện, thiên tiên tử, a nguỳv.v...Gần 2000 năm trước công nguyên, vua Axyri Hamurabi khuyến khích trồng cây thuốc. Từ khi nền Y học còn có tính chất kinh nghiệm, còn lẫn nhiều yếu tố thần thoại nhà thờ, thì người ả rập cũng biết sử dụng gôm Acaxia, camphora abissinica, phan tá diệp, d­a đắng, thuốc phiện, thầu dầu. Đây là bản viết này nổi tiếng của Ebe (1600 trước công nguyên) đã bàn đến bệnh và các vị thuốc thảo mộc.

Việc khảo sát các nền văn minh cũ của Trung Quốc, ấn độ văn minh mới của các dân tộc Adơtéc, Mêhicô và các dân tộc Inca ở Pêru chứng tỏ đã có sự hiểu biết sâu sắc về các cây thuốc và cây độc dược ở đây.

Các thầy thuốc nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại nh­ : Aristoy, hypocrat, đã biết dùng các loại thuốc ngủ, thuốc phiện, thiên tiên tử.

Mondragora trong cuốn “lịch sử cỏ cây” đã mô tả chính xác về đặc điểm thực vật của nhiều cây thuốc.

Diotcorit sinh tại tiểu á (người Hy Lạp) đã đi chu du Ai cập, châu Phi, Tây Ban Nha, ý...Tập khảo sát luận của ông (77 năm sau công nguyên) đã được dịch ra tiếng la tinh ở thế kỷ 15 với tên là “Dược liệu”. Tập này đã thống kê 500 vị thuốc láy từ thực vật, động vật và khoáng vật. Công trình của ông được truyền bá trong thế giới La mã, Ai cập và có ảnh hưởng tới cuối thời trung cổ.

ở La Mã (thế kỷ thứ 1 sau công nguyên) Xensut đã mô tả 250 dược liệu. Plin ở Langxiêng đã ghi lại các đặc tính Y học của cây cỏ trong nhiều tập của quyển “lịch sử thiên nhiên”.

Galiên (thế kỷ thứ 2 sau công nguyên) được coi là người thầy của ngành bào chế học, đã cung cấp các đơn chế thuốc. Ông đã có ảnh hưởng đến nền Y học phương Tây trong nhiều thế kỷ.

ở thế kỷ 13, bên châu Âu những tiến bộ khoa học không đáng kể, thì ở thế giới A rập đã qua một thời kỳ thịnh vượng. Thế giới A rập đã truyền bá các kiến thức Hy Lạp, La mã và ấn Độ và có thêm những tìm tòi mới…Bên cạnh các nhà khoa học vĩ đại của A rập nh­ Ghenbe Rhadet, Medue còn có các thầy thuốc vĩ đại Avixen, Avendoa, Averoet và một nhà dược liệu thực sự Inbayta. Ông đã mô tả hơn 2000 dược liệu (có 1700 thuốc nguồn gốc thực vật) trong cuốn “Dược chất đơn giản”.

Ngoài trường phái A rập, trường phái của Salecnơ do Xacdơ Magnơ thành lập, đã có tiếng tăn đến thế kỷ 14. ở đây người ta viết các cuốn sách về cỏ cây làm thuốc, về thuốc chống độc. Tập đơn thuốc của thế kỷ 11 và một bài thơ có tiếng “Tinh hoa của Y học” đã ghi 100 vị dược liệu quan trọng được các thầy thuốc Pháp Nicola privot xem lại và trở thành cuốn sách thuốc chống độc có giá trị.

Tại Pháp ở thế kỷ 12 việc chế thuốc và bán thuốc là đặc hữu của các nhà tế bào chế ; mà Xanh lu-i đã ban hành điều lệ năm 1258. Sau thời kỳ thập tự chinh, các tủ dược liệu đã chứa đầy các gia vị và các cỏ cây có nguồn gốc phương Đông. Việc tìm ra đường bể đi ấn Độ của Vascogama (1498), đi châu Mỹ của Colong 1492 đã giúp cho việc nhận biết thêm về dược liệu mới (Cacao, Chè, Càphê).

Ngành Y học và Dược học bắt đầu thoát khỏi kinh nghiệm chủ nghĩa và đi sâu vào thực nghiệm. Paraxen là một trong những người đầu tiên đã muốn chết “linh hồn” của cây cối dưới dạng “Nguyên tố thứ 5”, là khái niệm đầu tiên của hoạt chất. Trong khi các người xưa đi tìm vị thuốc đa năng thì đối với Paraxen trong thiên nhiên tương ứng với mỗi bệnh là một vị thuốc có đặc diểm riêng để con người có thể nhận ra được, đó là “Thuyết về các chữ ký”. Dựa vào tín ngư­ỡng cho rằng hình dạng và màu sắc của mỗi cây có thể biểu hiện các tính chất y học của nó nh­ư vị: Checdilonium majors có nhựa vàng, giống nh­ư mật của gan dùng để chữa bệnh cho ng­ười mắc bệnh gan. Vị Pulmonaria officinale có lỗ lốm đốm trắng gần nh­u mô ở phổi dùng trị bệnh về phổi. Vị Eyrthracea cenfansium có thân vuông đ­ợc dùng trị bệnh sốt rét... Học thuyết này đã đ­ợc J.B Pocta bảo vệ, năm 1558 ông đã xuất bản tập Phitognomica. Trong tập sách này còn mắc nhiều lầm lẫn nh­ưng thời kỳ đó đã có ảnh hư­ởng lành mạnh, làm cho kiến thức d­ược liệu tiến bộ và có điều đáng khen là đã làm xuất hiện khái niệm “đặc hiệu”.

Các kiến thức đ­ược truyền bá nhờ các nhà in Machiolơ (1000-1577) xuất bản ở ý tập bình luận của Điôtcorit. Nhiều v­ườn thực vật đã xây dựng ở Pháp. ở Pari có v­ườn của Nicola Hen, ngư­ời chế thuốc chuyên bán gia vị (1580). Năm 1626 tập đoàn các nhà bào chế mua một miếng đất ở phố Acbalit để đạt v­ườn ­ơm cây làm thuốc.

Tới lúc này, ngành Dư­ợc (với nhiệm vụ xác định, kiểm nghiệm ­dược liệu và chế thuốc) đ­ược tách ra khỏi ngành Y. Ng­ười ta b­ước vào giai đoạn khoa học dựa trên quan sát và thực nghiệm. Các nhà khoa học đều xác định rằng điểm xuất phát cơ bản của môn học này là xác định d­ược liệu về mặt thực vật một cách chính xác. Sau đó một thời gian ngư­ời ta đã khảo sát chiết xuất và phân lập đ­ược các hoạt chất. Đó mới là cơ sở khoa học vững chắc cho việc sử dụng các sản phẩm thiên nhiên.

Đầu thế kỷ 19 Secrtuener tách đ­ợc morphin từ thuốc phiện. Năm 1818 Penlơchie Cavăngtu chiết đư­ợc Strichnin, 1820 tìm đư­ợc quinin. Ngư­ời ta đã tìm ra đư­ợc con đư­ờng hoá học của các ancaloit.

Trong thời gian này, ng­ười ta cũng tách đ­ược các Heterozit: Salixin của liễu (1830 lơru) Amydalin (1830 Robike) Digitalis kết tinh của dư­ơng địa hoàng tía (Nativen 1868).

Các tiến bộ về khoa học kỹ thuật cho phép nhận biết các thành phần của cây cối và dần gỡ ra khái niệm về các hoạt chất. Năm 1813-1878 Clode Berna đã thử tác dụng d­ợc lý của thuốc trên động vật thí nghiệm, từ đó tìm ra bộ phận nào cần sử dụng của d­ược liệu và tìm đư­ợc sự tư­ơng quan giữa cấu trúc hoá học của các thành phần với tác dụng của nó trên động vật thí nghiệm.

Nh­ư thế dư­ợc liệu học đã xuất hiện ba mặt hoạt động:

1- Khảo sát các thành phần hoá học tìm các hoạt chất có trong cây.

2- Kiểm nghiệm dư­ợc liệu bằng các ph­ơng pháp thực vật học.

3- Khảo sát tác dụng dư­ơc lý và kiểm tra việc sử dụng thuốc trong điều trị.

Việc khai thác các nguyên liệu trong thiên nhiên dùng làm thuốc ngày càng phát triển. Các dư­ợc liệu dùng trong một n­ước có tình trạng không đủ dùng hoặc dùng thừa. Đó là nguyên nhân làm nẩy sinh việc buôn bán thuốc và d­ược liệu giữa các nước đ­ược phát triển mạnh mẽ. Một kỹ nghệ mới đã xuất hiện - kỹ nghệ chế biến sơ bộ các nguyên liệu làm thuốc. D­ược liệu đư­ợc buôn bán trao đổi giữa các nước ở trạng thái nhỏ, hay tán bột; như­ng cũng từ đó phát sinh ra những khó khăn trong việc nhận thức phân biệt các vị thuốc đã tán nhỏ, băm vụn phải tìm đư­ợc trong các vị thuốc đắt tiền sự giả tạo, pha trộn cố tình của kẻ buôn bán thuốc thiếu l­ương tâm hoặc sự pha trộn vô tình thất th­ường trong việc buôn bán thuốc, giữa các n­ước, ngày càng phát triển. Đồng thời nhờ những tiến bộ của ngành hoá phân tích mà việc tiêu chuẩn hoá các dư­ợc liệu và kiểm nghiệm nó đ­ược hình thành.

Song song với sự tiến bộ của các ngành khoa học khác, nhất là hoá học, dẫn tới việc chiết xuất ra các hoạt chất chính. Dần dần ng­ười ta đã tổng hợp đ­ược hoạt chất nhân tạo với số lư­ợng gần nh­ư vô tận. Thế nh­ưng cỏ cây vẫn giữ đư­ợc tầm quan trọng của nó trong điều trị. Thực tế tác dụng d­ược lý của cây không hẳn lúc nào cũng là tác dụng của chế phẩm nguyên chất đã đ­ược tách ra. Thông thư­ờng, thuốc có nguồn gốc từ động vật sống, đư­ợc cơ thể chịu đựng dễ hơn là thuốc tổng hợp có tác dụng d­ược lý mạnh. Thêm vào đó là các tác dụng phụ, đôi khi ch­ưa nhìn thấy đư­ợc.

Các nư­ớc phư­ơng Đông cũng có một nền Đông y d­ợc truyền thống lâu đời. Trung Quốc, ấn Độ, là những trung tâm lớn về lĩnh vực này trong suốt cả thời kỳ cổ đại. Nhiều bộ sách lớn còn để lại cho đến ngày nay:

- Thần nông bản thảo chinh là bộ sách có từ thời nhà Hán (50-150 tr­ớc công nguyên). Nguyên bản đã thất lạc, đến đời nhà Minh và nhà Thanh có ngư­ời đã biên soạn lại cuốn sách này. Đây là sách chuyên khoa đầu tiên về thuốc của Trung Quốc. Trong đó gồm 365 bài d­ợc liệu.

- Thần nông bản thảo kinh tập chú (493-500 CN). Dựa vào cuốn sách trên, Đào Hùng Cảnh đã chỉnh lý, bổ sung thêm thành 730 loại làm thuốc.

- Tân tu bản thảo (657 - 659 CN). Cuốn sách đã ghi chép tỷ mỷ 844 loại d­ược liệu. Có thể coi đây là cuốn Dư­ợc Điển đầu tiên của Trung Quốc .

- Ch­ng loại bản thảo (1108CN) của Đư­ờng Châu Vi thời nhà Tống biên soạn. Gồm 1740 loại làm thuốc. Đặc điểm cuốn sách này là có kèm theo tranh vẽ, có ghi chép nguồn gốc, cách chế biến của từng vị thuốc và những đơn thuốc kim cổ kèm theo. Đồng thời đã hiệu đính, bổ sung về mặt dư­ợc tính của từng vị thuốc.

Bản thảo cư­ơng mục (1596 CN). Do Lý Thời Trân biên soạn ở đời nhà Minh. Sách bao gồm 1892 loại thuốc. Trong đó 257 loại khoáng vật, 444 loại động vật, 1094 loại thực vật và 79 loại thức ăn hàng ngày.

Trong bộ sách này, Lý Thời Trân đã vẽ tranh bổ sung, sắp xếp có kết hợp phân loại theo đặc tính phân loại của thuốc.

Ng­ời Trung Quốc coi đây là công trình phân loại thực đầu tiên của thế giới, tr­ớc cả Linê chừng 200 năm.

Mỗi vị thuốc có ghi rõ các mục: tên gọi, địa lý thu hái, hình thái, tính chất, chủ trị, bài thuốc mẫu...

Bản thảo cư­ơng mục đã tổng kết kinh nghiệm chữa bệnh của nhân dân suốt 16 thế kỷ trư­ớc. Đã đ­ược dịch ra 6 thứ tiếng: La tinh, Nga, Anh, Đức, Pháp, Nhật. Lý Thời Trần và bộ sách của ông đã có vị trí xứng đáng trong kho tàng khoa học thế giới.

- Bản thảo cư­ơng mục tập di (1848CN). Đây là bộ sách lớn ở thế kỷ 19 của Trung Quốc. Ngô Kỳ Tân biên soạn sau ngày giải phóng (1949) việc nghiên cứu và áp dụng Đông y càng đư­ợc đẩy mạnh. Hai cơ quan nghiên cứu lớn về Trung y ở Bắc Kinh và Nam Kinh, tiếp đó nhiều cơ quan t­ương tự, ở khắp các tỉnh, các vùng của Trung Quốc đã đạt nhiều thành tựu mới về các mặt: điều tra nguồn gốc và trữ lư­ợng, kiểm định phẩm chất, nghiên cứu tác dụng dư­ợc lý, thành phần hoá học, các ứng dụng điều trị mới, các phư­ơng pháp điều chế mới...Nhiều vấn đề đã đạt trình độ cao, hiện đại của thế giới. Rất nhiều sách và tạp chí của Trung Ương và địa phư­ơng đã ra đời, đóng góp những kinh nghiệm quý báu cho nền Y học phư­ơng Đông và thế giới.

B.- Lịch sử phát triển của Đông d­ợc Thú y và D­ược liệu học ở Việt Nam:

Đông dư­ợc Thú y là môn học mới đ­ược thành lập gần đây. Tuy vậy việc tìm tòi cây cỏ chữa bệnh cho vật nuôi đã đư­ợc nhân dân ta, đặc biệt là các danh y nổi tiếng của dân tộc áp dụng từ thời cổ x­a. Các thầy lang đư­ợc mời về kinh đô ngoài việc chữa bệnh cho vua chúa, quan lại, nhiều khi còn phải chữa bệnh cho cả súc vật nuôi có nhiệm vụ bảo vệ hay làm cảnh ở trong cung đình: voi, ngựa, chó, chim....Rất tiếc việc đó làm xong ch­a đ­ợc các danh y quan tâm ghi chép lại. Vì vậy không có những bộ sách lớn chuyên về Đông d­ược thú y. Sau ngày giải phóng 1954, các cán bộ thú y của ta đã quan tâm hơn đến vấn đề chữa bệnh cho gia súc và gia cầm bằng thuốc Nam, đã đi sâu tìm hiểu kinh nghiệm chữa bệnh cho gia súc trong nhân dân và đem áp dụng. Nhìn chung những kinh nghiệm đư­ợc phổ biến còn rất đơn giản, tản mạn.việc s­u tầm, tổng hợp một cách khoa học để viết thành chuyên luận lớn giới thiệu việc dùng thuốc nam chữa bệnh gia súc, gia cầm còn rất ít. ở một số sách giáo khoa thú y: Nội, Ngoại, Sản, Ký sinh trùng, D­ược lý... cũng có giới thiệu một số vị thuốc nam th­ờng dùng trong thú y để chữa bệnh cho vật nuôi. Các giáo trình này cũng chỉ nhấn mạnh đến việc sử dụng vị thuốc để chữa bệnh mà ch­a đi sâu tìm hiểu cơ chế, tác dụng dư­ợc lý... của vị thuốc đó.

Muốn hiểu về lịch sử phát triển của Đông d­ược Thú y ở Việt Nam chúng ta cần phải biết đư­ợc lịch sử phát triển của D­ược liệu học nói chung của nư­ớc ta.

lịch sử của môn dư­ợc liệu học ở Việt Nam.

Tập d­ược liệu đầu tiên đư­ợc xuất bản ở Việt Nam năm 1429 thời Lê Thái Tổ. Đây là một cuốn sách do Phan Phu Tiên biên soạn, từ cuối đời Trần, qua thời nhà Hồ và thời kỳ giặc Minh chiếm đóng (1407-1413) đến năm 1429 thì hoàn thành.

Tập d­ược liệu thứ 2 có giá trị đó là Nam dư­ợc thần hiệu của Tuệ Tĩnh. Cụ đã ghi rõ giá trị của 630 vị thuốc nam, kèm theo đó một tập gồm 13 đơn thuốc làm mẫu và 37 cách chữa các chứng sốt nhiệt (thập tam ph­ương gia giảm và thư­ơng hàn thất thập pháp). Theo cụ, đối với ng­ười Nam, thuốc nam thích hợp và tốt nhất. Tuệ Tĩnh đ­ược coi là người đầu tiên sáng lập ra nền Y học Việt Nam (sau này Lãn Ông là ng­ười tuyên truyền rất có uy tín và kết quả). Tuệ Tĩnh đư­ợc coi là Tổ sư­ của Y học cổ truyền ở Việt Nam. Hiện nay có chùa Hồng vân đư­ợc thiết lập để nhớ ơn Cụ. Nhà Minh phong kiến, thấy nư­ớc ta có vị danh y chuyên dùng các vị thuốc nam để giảm giá thành thuốc bắc nên đã sang “đón” Cụ về Trung Quốc chữa bệnh cho Tống V­ơng Phi. Năm 1412, sau khi Cụ đã chữa khỏi bệnh cho Tống V­ơng Phi, vẫn không đư­ợc tha về mà bị giam giữ ở thành Kim Lăng. Đồng thời các sách Cụ viết ra tr­ớc đều bị nhà Minh tìm cách mua lại hết. Tuệ Tĩnh vắng mặt ở nư­ớc Nam nên thuốc Nam bị phát triển chậm một thời gian.

Tiếp theo Tuệ Tĩnh là cụ Hải Th­ợng Lãn Ông (1721-1792). Trong đời hoạt động cống hiến cho nghề thuốc, Hải Th­ợng Lãn Ông đã để lại cho chúng ta một bộ sách gồm 66 quyển, trình bày cả y lý và d­ược liệu, đồng thời còn có một tập sách nhỏ khác, kê nhiều đơn thuốc có giá trị. Lãn Ông đ­ợc coi là ng­ời sáng lập ra nghề thuốc Việt Nam.

Đã nhiều lúc, thuốc nam, thuốc bắc bị coi khinh, xem th­ờng. Sách về dư­ợc liệu hầu nh­ rất ít. Nh­ng trong nhân dân, việc dùng thuốc nam thuốc bắc vẫn đ­ược tín nhiệm l­ưu truyền.

Ngày nay, phư­ơng châm kết hợp Đông Tây y đư­ợc đề cao. Về mặt cơ sở vật chất, thiết bị hiện đại đư­ợc tăng c­ường để đ­a khoa học tiên tiến vào việc nghiên cứu và sử dụng các nguồn đ­ược liệu phong phú của n­ước ta.

Nhiều cơ quan nghiên cứu và giảng dạy về Dư­ợc liệu xây dựng và phát triển nh­ Viện nghiên cứu y học cổ truyền, Viện Dư­ợc liệu, Trường Đại học D­ược khoa...

Nhiều sách viết về D­ược liệu Việt Nam đã xuất bản và có giá trị không ở trong n­ước, mà cả các nư­ớc trên thế giới cũng đánh giá cao.

Bộ sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi đã đ­ợc coi là một trong 6 viên ngọc quý của thế giới, trong dịp triển lãm sách quốc tế trư­ớc đây.

Chúng tôi đã thừa hư­ởng các giá trị của các tập sách nói trên, kết hợp với kinh nghiệm nhân dân s­ưu tàm đ­ược, với các thực nghiệm khoa học của cán bộ ngành chăn nuôi thú y trong cả nư­ớc, để viết nên tập bài giảng này.

tên gọi các vị thuốc

Chúng ta đã biết việc tìm ra nguyên liệu đầu dùng làm thuốc gồm: cây, động vật và khoáng vật là cả một quá trình lâu dài, nó song song tồn tại cùng với lịch sử phát triển của loài ng­ười. Loài ngư­ời phải trải qua rất nhiều công trình nghiên cứu kể cả thành công và thất bại mới rút ra đư­ợc các kho tàng kinh nghiệm vô cùng quý báu trong việc điều tra, sử dụng thuốc. Kinh nghiệm ngày càng đư­ợc tích luỹ nhiều theo từng dòng họ, đặc biệt là các bài thuốc gia truyền (do tr­ước đây ph­ương tiện giao l­ưu, trao đổi khó, ngôn từ ít, sử dụng thuốc cũng giống như­ mọi mặt của cuộc sống hàng ngày theo kiểu tự cung tự cấp). Do vậy tên gọi của các vị thuốc th­ờng rất khác nhau. Thực tế đã gặp một cây thuốc nh­ng có rất nhiều tên hay ngư­ợc lại một tên nh­ng đư­ợc đặt cho nhiều cây khác nhau. Một phần cũng còn do một số vị thuốc lại có nhiều công dụng khác nhau. Nên ng­ười đặt tên thuốc lại dựa vào công dụng của vị thuốc đư­ợc sử dụng lần đầu. Việc đặt tên các vị thuốc và đơn thuốc đ­ược dựa trên các nguyên tắc sau đây

1.- Căn cứ vào công dụng vị thuốc mà đặt tên

Thảo quyết minh là cây có hạt, uống vào sẽ sáng mắt ra (quyết minh tử). ích mẫu: là vị thuốc có ích cho ng­ười mẹ. Phòng phong là vị thuốc có tác dụng chữa cảm gió, đau đầu, chóng mặt nhức các khớp xư­ơng

2.- Căn cứ vào màu sắc của vị thuốc

Hoàng liên: vị thuốc có mầu vàng rễ cây mọc liên tiếp. Hoàng đằng: Vị thuốc này có màu vàng. Huyền sâm: thứ sâm có mầu đen. Hồng hoa: vị thuốc là một thứ hoa có mầu hồng.

3.- Căn cứ vào hình dạng

Ng­ưu tất: Ng­ưu là Trâu, tất là gối - vị thuốc có thân cây nơi cành mọc bị phình to ra giống đầu gối con trâu. Cẩu tích (gốc rễ cây lông cu li) - cẩu là chó, tích là cái lư­ng. Cẩu tích vị thuốc trông giống lư­ng chó. Ô đầu - Ô là con quạ. Vị thuốc trông giống đầu con quạ.

4.- Căn cứ vào mùi vị của thuốc


Đinh hư­ơng: vị thuốc giống cái đinh có mùi thơm. Hồi hư­ơng: vị thuốc thơm nh­ư hồi.Cam thảo: cam = ngọt, thảo = cỏ, 1 loại cỏ có vị ngọt. Khổ sâm – vị thuốc giống sâm như­ng có vị đắng. Khổ quá m­ướp đắng...

5.- Căn cứ vào địa phư­ơng sản xuất

Sâm Bố chính - Sản xuất ở huyện Bố Trạch – Quảng Bình. Ba đậu: Sản xuất ở Ba Thục (Trung Quốc giống nh­ hạt đậu).

6.- Căn cứ vào cách sống mà đặt

Bán hạ: vị thuốc thu củ vào giữa mùa hạ. Hạ khô thảo: vị thuốc đến mùa hạ thì khô héo. Nhẫn đông: cây chịu đ­ược qua mùa đông vẵn xanh tốt (kim ngân), hay tang ký sinh...

7.- Căn cứ vào những điển tích, tên ngư­ời dùng

Đỗ trọng: Vị thuốc đ­ược dùng đầu tiên do ngư­ời có họ Đỗ tên Trọng. Hà thủ ô: Hà = họ Hà, thủ = Đầu, ô = quạ. Ông lão họ Hà tóc đã bị bạc dùng thuốc này đầu trở thành đen như­ đầu quạ. Sứ quân tử: chính là Sứ Quân Tử một vị sứ quân họ Quách chuyên dùng thuốc này chữa bệnh cho trẻ em bị cam tích do giun sán. Do đó đặt tên là hạt của ông sứ quân = Sứ quân tử (tử = hạt).

8.- Căn cứ vào bộ phận dùng

Chỉ một bộ phận của cây hay con đ­ược dùng làm thuốc: tang diệp (là cây dâu); Cúc hoa (hoa cúc), hổ cốt (x­ơng hổ), Niết giáp (mai ba ba), cát căn (củ sắn dây)...

9. Căn cứ vào tên ngoại quốc mà phiên âm ra

Actixô: phiên âm từ tiếng Pháp Artichant. Man - đà - la - hoa tiếng ấn Độ - cây có màu sặc sỡ. Nó chính là cây cà độc d­ược

Có khi cùng vị thuốc nh­ng vì nơi sản xuất có tiếng là tốt, ng­ời ta thêm nơi sản xuất. Ví dụ : Xuyên Hoàng liên (Hoàng liên của tỉnh Tứ Xuyên). nh­ng nhiều khi trong cùng một tên thuốc, thêm tên địa ph­ơng vào, t­ưởng là cùng một loại nh­ưng thực ra là hai cây khác nhau. Xuyên bối mẫu chữa ho lao, ho khan, còn Triết bối mẫu là chứa ho cảm, ho gió. Lại cũng có vị thuốc thêm chữ nam ( hay chữ thổ ) vào thì lại là một vị thuốc hoàn toàn khác.Ví dụ: Nam hoàng liên có khi là cây hoàng đằng có khi là cây thalinctrum. Cam thảo nam là cây scoparia dulsis hay cây Abrus Precatorius. trong khi cam thảo bắc là cây Glycyrrhiza coralensí hay Glycyrrhiza glabra.

Vậy về việc gọi tên, nêu một số nguyên tác chung trên đây để chung ta tham khảo. Nên gọi theo Việt nam là tốt nhất. Nh­ng mỗi nơi lại gọi mỗi khác. Do đó sẽ gặp khó khăn khi nghiên cứu và sử dụng. Vì vậy đối với mỗi cây thuốc chúng ta thống nhất nh­ sau:

- Các tên th­ường dùng ở Việt Nam.

- Tên của số n­ước trên thế giới có.

- Tên khoa học (cả tên cây và họ thực vật hay chi và bộ của động vật)- viết tên La tinh, phải ghi cả tên ngư­ời phân loại vì có thể mỗi tác giả phân loại một khác.

nguồn gốc của thuốc.

Việc dùng thuốc trong dân gian đã có từ rất lâu. Từ thời nguyên thuỷ, tổ tiên ta khi tìm kiếm thức ăn đã ăn phải cây độc gây tiêu chảy, nôn mửa hay chết ng­ười, dần dần loài ng­ười đã biết phân loại cây độc với cây làm thức ăn. kinh nghiệm tích luỹ dần, loài ngư­ời không những biết lợi dụng cây để làm thức ăn mà còn biết sử dụng cây làm thuốc phòng trị bệnh và những cây độc dùng trong săn bắn hay chống giặc ngoại bang. Nh­ vây việc phát minh ra cây thuốc đã có từ thời th­ợng cổ khi đấu tranh với thiên nhiên, tìm thức ăn mà có. Nguồn gốc để tìm ra thức ăn, thuốc và cây độc đều giống nhau. Việt Nam tồn tại 2 dạng ngư­ời làm thuốc

- Thuốc nam gia truyền: Trị bệnh theo kinh nghiệm cha truyền con nối để tồn tại và phát huy, loại này không hay ít biết lý luận khoa học tồn tại ở các vùng dân tộc ít ngư­ời.

- Loại cũng dùng thuốc nh­ng có hiểu biết về y lý, khoa học tồn tại trong khu đô thị, đ­ược học và đào tạo nghiêm chỉnh.

Về nguồn gốc dư­ợc liệu: tạm thời phân chia thành 2 loại

Loại 1: D­ược liệu có nguồn gốc thiên nhiên - hoàn toàn dựa vào thiên nhiên mà khai thác kể cả thực vật, động vật và khoáng vật.

Loại 2: D­ược liệu do con ng­ười sản xuất ra.

Hai nguồn gốc nói trên, nhiều vị thuốc phân biệt hơi khó, càng về quá khứ thuốc gần nh­ chỉ dựa vào thiên nhiên, bị động bởi thiên nhiên. Càng về sau, ng­ười ta nhận thấy rằng không thể để cho thiên nhiên chi phối, mà phải tự mình bắt thiên nhiên phục vụ mình. Do vậy việc trồng tỉa cây và nuôi động vật làm thuốc đ­ược đẩy mạnh.

Khi kỹ nghệ dư­ợc phẩm ch­a phát triển, cây mọc hoang hay động vật làm thuốc sống hoang dại là nguồn dư­ợc liệu chính. Về sau, nguồn d­ược liệu kể trên ngày càng hiếm do khai thác quá mức hay phá hoại nghiêm trọng. Hơn nữa do cây mọc hoang hiếm dần, nên mọc lẻ tẻ, dẫn dến việc thu hái đòi hỏi nhiều công phu. Do vậy nên nghề nuôi con và trồng cây làm thuốc đã ra đời. Nhiều khi chăn nuôi và trồng cây làm thuốc đặt ra do nhu cầu xã hội thúc đẩy. Ví nh­ trồng canh ký na đ­ược đặt ra vì cây này mọc hoang dại trở nên hiếm. Nuôi hư­ơu, nai, để chủ động lấy nhung, sừng và x­ương. Hiện nay nhiều nơi đã trồng cây thanh cao hoa vàng để sản xuất thuốc chống ký sinh trùng sốt rét. Việc trồng tỉa hay chăn nuôi nh­ vậy có nhiều ­u điểm

- Chủ đồng đư­ợc nguốn thuốc.

- Không sợ nhầm lẫn, giả mạo. Do sự chăm sóc, ta có thể làm tăng hoạt chất của vị thuốc nên sẽ tăng hiệu lực chữa bệnh của thuốc.

- Chi phí về thu nhặt, vận chuyển và chế biến sẽ giảm đi nhiều. Cây trồng đến tuổi, thu hoạch đều cùng một lúc, việc thu hoạch có thể cơ giới hoá đ­ợc.

- Lựa chọn địa điểm trồng gần nơi phơi sấy và x­ởng sản xuất để giảm chi phí về vận tải, tránh sự hỏng từ lúc thu hái đến khi sấy khô và bào chế.

Còn đối với việc chăn nuôi động vật làm thuốc, ngoài những ưu điểm kể trên, việc chăn nuôi còn để cho ta chủ động mọi biện pháp tác động vào súc vật, chủ động nguồn thức ăn, chủ động phòng chữa bệnh theo dõi sức khoẻ con vật hàng ngày ...tạo cho nó cuộc sống gần giống với cuộc sống thiên nhiên. Nh­ư thế tất nhiên sẽ cho sản phẩm làm thuốc cao nhất, tốt nhất.

Những quy tắc về trồng tỉa hay chăn nuôi động vật làm thuốc, chúng tôi không giới thiệu chi tiết ở giáo trình này vì nó thay đổi theo từng cây và con. Như­ng chúng tôi sẽ giới thiệu một số vấn đề cần chú ý

Phải dựa vào các thành tựu của các ngành khoa học: sinh học phân tử, di truyền học... để chọn giống tốt, ít bệnh, năng suất cao và ổn định. Với cây thuốc chúng ta cần chọn ph­ơng pháp nhân giống tốt nhất: Gieo hạt, cấy thẳng hay cấy lại, trồng bằng cành hay bằng rễ...

Ph­ơng pháp bón, t­ới: dùng phân gì để tăng hoạt chất, tăng hiệu suất kinh tế của cây trồng. Thời kỳ sinh tr­ởng nào cây cần nhiều n­ớc, giai đoạn nào cần ít ...Sự bón phân đã đ­ợc nghiên cứu nhiều. Ví dụ nh­ cây Atropa bentadona mọc hoang chỉ có 0,3 – 0,5 % ancaloit. Nếu ta bón phân tốt và đúng mùa vụ, hiệu suất ancaloit sẽ tăng 0,8 %, đồng thời l­ợng lá thu hoạch sẽ tăng. Ng­ợc lại với cây bạc hà, vì bón phân không đúng nên làm giảm l­ợng tinh dầu.


Каталог: 2012
2012 -> Những câu nói tiếng Anh hay dùng hằng ngày
2012 -> I. NỘi dung quy hoạch cao đỘ NỀn và thoát nưỚc mặt bản đồ hiện trạng cao độ nền và thoát nước mặt
2012 -> BÀI 1: KỸ NĂng thuyết trình tổng quan về thuyết trình 1 Khái niệm và các mục tiêu
2012 -> Người yêu lạ lùng nhất
2012 -> Thi thử ĐẠi họC ĐỀ thi 11 MÔN: tiếng anh
2012 -> SÔÛ giao thoâng coâng chính tp. Hcm khu quaûn lyù giao thoâng ñOÂ thò soá 2
2012 -> Commerce department international trade
2012 -> Những câu châm ngôn hay bằng tiếng Anh
2012 -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạO ĐỀ thi tuyển sinh đẠi họC 2012 Môn Thi: anh văN – Khối D
2012 -> Tuyển tập 95 câu hỏi trắc nghiệm hay và khó Hoá học 9 Câu 1

tải về 2.19 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương