Giới thiệu Trưởng Lão Tăng Kệ & Trưởng Lão Ni Kệ



tải về 80.93 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích80.93 Kb.
#16307
Giới thiệu Trưởng Lão Tăng Kệ & Trưởng Lão Ni Kệ

Trưởng Lão Tăng Kệ là quyển thứ tám của Tiểu Bộ Kinh, một tập hợp 264 tích truyện trong dạng các câu kệ do các vị tỳ kheo đệ tử của Ðức Phật thuật lại về cuộc đời, công phu tu tập và tinh tấn  hành trì của quý Ngài trên đường đưa đến đạo quả A-la-hán. Trong khi đó, Trưởng Lão Ni Kệ là quyển thứ chín, gồm 73 tích truyện về cuộc đời các vị tỳ kheo ni đệ tử A-la-hán của Ðức Phật.

Qua hai quyển kinh nầy, chúng ta biết được các nỗ lực tu tập, đấu tranh nội tâm, thanh lọc tâm ý để đưa đến giác ngộ giải thoát. Cuộc đời tu hành của quý vị Tăng Ni như đã ghi lại trong hai quyển kinh là những tấm gương sáng ngời để chúng ta cùng suy gẫm và noi theo trên con đường hành đạo của mỗi người con Phật chúng ta.

Ngoài ra, các câu chuyện và vần kệ trong quyển Trưởng Lão Ni Kệ cũng là một chứng minh hùng hồn, cho thấy con đường của chư Phật mở rộng cho mọi người, không phân biệt nam hay nữ. Tấm gương dũng cảm quyết tâm tu tập để đắc đạo quả cao thượng của các vị tỳ kheo ni tiền phong trong Ni Ðoàn của Ðức Phật là một nguồn cảm hứng cho tất cả mọi người con Phật trong hơn hai ngàn năm trăm năm qua - nam cũng như nữ, già lẫn trẻ, người tại gia cũng như xuất gia. Ðạo quả A-la-hán, đạo quả giác ngộ toàn bích, mở rộng cho tất cả những ai tận lực tu học, giữ gìn giới hạnh, thanh lọc tâm ý, khai phát tuệ minh, như các vị đại đệ tử tỳ kheo và tỳ kheo ni đó.



Tỳ kheo Ariyasilo
(Bình Anson lược dịch, tháng 01-2001)

3.1 Trưởng Lão Tăng Kệ



Chương Một - Một Kệ

Phẩm Một

1. Subhùti


2. Mahà Kotthita
3. Kankha Revata
4. Punna Mantàniputta
5. Dabba
6. Sìta -Vaniya
7. Bhalliya
8. Vìra
9. Pilinda-Vaccha
10. Punamàsa

Phẩm Hai

11. Gavaccha


12. Mahà Gavaccha
13. Vana - Vaccha
14. Sìvàka
15. Kunda-Dhàna
16. Belatthasìsa
17. Dàsaka
18. Singàla-Pitar
19. Kula
20. Ajita

Phẩm Ba

21. Nigrodha


22. Cittaka
23. Gosàla
24. Sugandha
25. Nandiya
26. Abhaya
27. Lomasakangiya
28. Jambugàmika
29. Hàrita
30. Uttiya

Phẩm Bốn

31. Gahvaratìriya


32. Suppiya
33. Sopàka
34. Posiya
35. Sàmannakàni
36. Kumàputta
37. Sundanta (Bạn Của Kumà)
38. Gavampati
39. Tissa
40. Vađhamàna

Phẩm Năm

41. Sirivađha


42. Khadira-Vaniya
43. Sumangala
44. Sànu
45. Ràmanìya-Vihàrim
46. Sumiddhi
47. Ujiaya
48. Sanjaya
49. Ràmaneyyaka
50. Viamala

Phẩm Sáu

51. Gidhika


52. Subàhu
53. Valliya
54. Uttiya
55. Anjana-Vaniya
56. Kutivihàrim (1)
57. Kutivihàrim (2)
58. Ramanìya -Kutika
59. Kosala-Vihàrim
60. Sivali

Phẩm Bảy

61. Vappa


62. Vajji-Putta
63. Pakkha-Sammeda
64. Vimala-Kondanna
65. Ukkhepata-Vaccha
66. Meghiya
67. Ekadhamma-Savannìya
68. Ekudàniya
69. Channa
70. Punna (Sunàparantaka)

Phẩm Tám

71. Vacchapàla


72. Atuma
73. Mànava
74. Suyàman
75. Susàrada
76. Piyanjaha
77. Hatthàroha-Putta
78. Mendasira
79. Rakkhita
80. Ugga

Phẩm Chín

81. Samitigutta


82. Kassapa
83. Sìha
84. Nìta
85. Sunàga
86. Nàagita
87. Pavittha
88. Ajjuna
89. Devasabha
90. Sàmidatta

Phẩm Mười

91. Paripunnaka


92. Vijaya
93. Eraka
94. Mettajì
95. Cakku-Pàla
96. Khandasumana
97. Tissa
98. Abhaya
99. Uttiya
100. Devasabha

Phẩm Mười Một

101. Belatthakàni


102. Setuccha
103. Bandhura
104. Khitaka
105. Malitavambha
106. Suhemanta
107. Dhammasava
108. Phụ Thân của Dhammasava
109. Langha Rakkhita
110. Usabha

Phẩm Mười Hai

111. Jenta


112. Vacchagotta
113. Vana-Vaccha
114. Adhimutta
115. Mahànàma
116. Pàràpariya
117. Yasa
118. Kimliba
119. Vajji-Putta
120. Isidatta




Chương Hai - Hai Kệ

Phẩm Một

121. Utara


122. Pindola-Bhàradvàja
123. Valliya
124. Gangatìriya Datta
125. Ajina
126. Melajina
127. Rhàdha
128. Suràdha
129. Gotama
130. Vasabha

Phẩm Hai

131. Mahà Cunsa


132. Jotidàra
133. Herannakàni
134. Somamitta
135. Sabbamitta
136. Mahàkàla
137. Tiassa
138. Kimbila
139. Nanda
140. Sirimat

Phẩm Ba

141. Uttara


142. Bhađaji
143. Sobhita
144. Valliya Kanhamitta
145. Vìtasoka
146. Punnamàsa
147. Nandaka
148. Bharata
149. Bhàradvàja
150. Kanhadinna

Phẩm Bốn

151. Migasìra


152. Sìvaka
153. Upavàna
154. Isidinna
155. Sambula-Kaccàna
156. Khitaka
157. Sona-Potiriyaputta
158. Nisabha
159. Usabha
160. Kappata-Kura

Phẩm Năm

161. Kumàra-Kassapa


162. Dhammapàla
163. Brahmàli
164. Mogharàjam
165. Visàkha
166. Cùlaka
167. Anùpama
168. Vajjita
169. Sandhita

 




Chương Ba - Phẩm Ba Kệ

170. Anganika-Bhàradvàja


171. Paccaya
172. Bàkula
173. Dhaniya
174. Màtanga-Putta
175. Khujja-Sobhita
176. Vàrana
177. Passika
178. Yasoja
179. Sàtimattiya
180. Upàli
181. Uttarapàla
182. Abhibhùta
183. Gotama
184. Hàrita
185. Vimala

Chương Bốn - Phẩm Bốn Kệ

186. Nàgasamàla


187. Bhagu
188. Sabhiya
189. Nandaka
190. Jambuka
191. Senaka
192. Sambhùta
193. Ràhula
194. Candana
195. Dhammika
196. Sabbaka
197. Mudita

Chương Năm - Phẩm Năm Kệ

198. Ràjadatta


199. Subhùta
200. Girimànanda
201. Sumana
202. Vaddha
203. Nadikassapa
204. Kassapa Ở Gayà
205. Vakkali
206. Vifgitasena
207. Yasadatta
208. Sona-Kutikanna
209. Kosiya

Chương Sáu - Phẩm Sáu Kệ

210. Kassapa ở Uruvelà


211. Tekicchakàri
212. Mahànàga
213. Kulla
214. Malunkyaputta
215. Sappadàsa
216. Kàtiyàna
217. Migajàla
218. Jenta
219. Saumana
220. Nhàlaka-Muni
221. Brahmadatta
222. Sirimanda
223. Sabbhakàma

Chương Bảy - Phẩm Bảy Kệ

224. Sundara-Samuđa


225. Lakuntaka-Bhađiya
226. Bhadda
227. Sopàka
228. Sarabhanga

Chương Tám - Phẩm Tám Kệ

229. Mahà-Kaccàyana


230. Sirimitta
231. Mahasa-Panthaka

Chương Chín - Phẩm Chín Kệ

232. Bhùta



Chương Mười - Phẩm Mười Kệ

233. Kàludàyin


234. Ekavihàriya
235. Mahà-Kassapa
236. Cùla-Panthaka
237. Kappa
238. Upasena
239. Gotama

Chương Mười Một - Phẩm Mười Một Kệ

240. Sankicca



Chương Mười Hai - Phẩm Mười Hai Kệ

241. Sìlavat


242. Sunìta

Chương Mười Ba - Phẩm Mười Ba Kệ

243. Sona Kilivisa



Chương Mười Bốn - Phẩm Mười Bốn Kệ

244. Revata


245. Godatta

Chương Mười Lăm - Phẩm Mười Lăm Kệ

246. Annà-Kindanna


247. Udayin

Chương Mười Sáu - Phẩm Hai Mươi Kệ

248. Adhimutta


249. Pàràpariya
250. Kelakàni
251. Ratthapàla
252. Màlunkyàputta
253. Sela
254. Bhađhiya- Kàligodhàyaputta
255. Angulimàla
256. Anuruddha
257. Pàràpariya

Chương Mười Bảy - Phẩm Ba Mươi Kệ

258. Phussa


259. Sàriputta
260. Ananda

Chương Mười Tám - Phẩm Bốn Mươi Kệ

261. Mahà-Kassapa



Chương Mười Chín - Phẩm Năm Mươi Kệ

262. Tàlaputta



Chương Hai Mươi - Phẩm Sáu Mươi Kệ

263. Mahà Moggallàna



Chương Hai Mươi Mốt - Phẩm Bẩy Mươi Kệ

264. Vangisa




3.2 Trưởng Lão Ni Kệ

Phẩm Một - Tập Một Kệ

1. Vô Danh Ni


2. Mutta
3. Punna
4. Tissa
5. Một Tissa Khác
6. Dhira
7. Một Dhira Khác
8. Mitta
9. Bhadha
10. Upasama
11. Mutta
12. Dahammadinnà
13. Visàkhà
14. Sumàna
15. Uttara
16. Sumànà
17. Dahamima
18. Sanjhà

Phẩm Hai - Tập Hai Kệ

19. Abhirupa-Nanda


20. Jenti
21. Mẹ Của Sumangala
22. Ađhakasi
23. Citta
24. Mettika
25. Muttà
26. Mẹ Của Abhayà
27. Abhaya
28. Sama

Phẩm Ba - Tập Ba Kệ

29. Một Sama Khác


30. Uttama
31. Một Uttama Khác
32. Dantika
33. Ubbiri
34. Sukkà
35. Siela
36. Soma

Phẩm Bốn - Tập Bốn Kệ

37. Bhaddà



Phẩm Năm - Tập Năm Kệ

38. Một Tỷ Kheo Ni Vô Danh


39. Vimalà, Xưa Là Một Kỹ Nữ
40. Sihà
41. Sundari Nandà
42. Nanduttara
43. Mittakali
44. Sukulà
45. Sonà
46. Bhaddà Kundalakesà
47. Patacara
48. 30 Tỷ Kheo Ni Tuyên Bố Về Chánh Trí Dưới Sự Lãnh Ðạo Cúa Patacara
49. Canda

Phẩm Sáu - Tập Sáu Kệ

50. Năm Trăm Patacara


51. Vasitthi
52. Khema
53. Sujata
54. Anopamà
55. Mahapajapati Gotami
56. Gutta
57. Vijaya

Phẩm Bảy - Tập Bảy Kệ

58. Uttara


59. Càlà
60. Upacala

Phẩm Tám - Tập Tám Kệ

61. Sisupacala



Phẩm Chín - Tập Chín Kệ

62. Mẹ của Vaddha



Phẩm Mười - Tập Mười Kệ

63. Kisa Gotami



Phẩm Mười Một - Tập Mười Hai Kệ

64. Uppalavanna



Phẩm Mười Hai - Tập Mười Sáu Kệ

65. Pumà hay Punnika



Phẩm Mười Ba - Tập Hai Mươi Kệ

66. Ambapali


67. Rohini
68. Càpà
69. Sundari
70. Subha Con Người Thợ Vằng

Phẩm Mười Bốn - Tập Ba Mươi Kệ

71. Subha ở Rừng Xoài của Jivaka



Phẩm Mười Lăm - Tập Bốn Mươi Kệ

72. Isidasi



Phẩm Mười Sáu - Ðại Phẩm

73. Sumedha




Ambapàlì (Therì. 147)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh dưới một gốc cây xoài trong vườn vua Vesàli và được gọi là Ambapàli. Nàng rất đẹp nên đến khi lớn lên nhiều vương tôn công tử cạnh tranh để chiếm đoạt nàng. Về sau để tránh những cạnh tranh ấy và cũng do nghiệp lực của nàng, nàng trở thành một kỹ nữ. Vì lòng tin đối với bậc Bổn Sư, nàng xây dựng một tinh xá trong ngôi vườn của nàng và cúng cho đức Phật và chúng Tăng. Khi nàng nghe con nàng, tức là Trưởng lão Vimalakondanna thuyết pháp, nàng triển khai thiền quán về lý vô thường, như thân nàng, chứng Tam minh và nàng nói lên những bài kệ sau đây:



252. Ðen như sắc con ong,
Tóc dài ta khéo uốn,
Nay biến đổi vì già,
Như vải gai, vỏ cây,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.


253. Thơm như hộp ướp hương,
Ðầu ta đầy những hoa,
Nay biến đổi vì già,
Hôi như lông con thỏ,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.


254. Như rừng khéo vun trồng,
Lược kim tu chói sáng,
Nay biến đổi vì già,
Tóc lơ thơ rơi rụng,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật


255. Trang điểm với bện tóc,
Sáng chói nữ trang vàng,
Tóc mềm mại êm dịu,
Thơm ngát với mùi hương,
Nay biến đổi vì già,
Rơi rụng đầu sói trọc,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.


256. Trước lông mày của ta,
Chói sáng khéo tô vẽ,
Nay biến đổi vì già,
Nhăn nheo, rơi suy sụp,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.


257. Mắt ta xanh và dài,
Sáng đẹp như châu báu,
Nay biến đổi vì già,
Hư hại không chói sáng,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.


258. Lỗ mũi mềm và thon,
Sáng chói và trẻ măng,
Nay biến đổi vì già,
Héo khô và tàn tạ,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.


259. Trước tai ta sáng chói,
Như vàng vòng khéo làm,
Nay biến đổi vì già,
Nhăn nhiu chảy xệ xuống,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.


260. Trước răng ta sáng chói,
Như búp nụ chuối hoa,
Nay biến đổi vì già,
Bể gãy vàng như lúa,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.


261. Ngọt là giọng nói ta,
Như chim cu hót rừng,
Nay biến đổi vì già,
Tiếng bể bị đứt đoạn,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.


262. Trước cổ ta chói sáng,
Mềm đầy đặn nhu nhuyến,
Nay biến đổi vì già,
Nhiều ngấn và khô cằn,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.


263. Trước cánh tay của ta,
Sáng như hai cột tròn,
Nay biến đổi vì già,
Như hoa kèn yết ớt,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.


264. Trước bàn tay của ta,
Mềm mại như cành hoa,
Sáng như nữ trang vàng,
Nay biến đổi vì già,
Như rễ cây khô cằn,
Nhăn nhiu và thô nhám,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.


265. Trước vú ta sáng chói,
Căng thẳng và tròn đầy,
Nay biến đổi vì già,
Trống rỗng treo lủng lẳng,
Như da không có nước,
Trống không, không căng tròn,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.


266. Trước thân ta chói sáng,
Như giáp vàng đánh bóng,
Nay biến đổi vì già,
Ðầy vết nhăn nhỏ xíu,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.


267. Trước bắp vế của ta,
Sáng chói như vòi voi,
Nay biến đổi vì già,
Giống như những ống tre,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.


268. Trước ống chân của ta,
Mềm mại như vòng vàng,
Nay biến đổi vì già,
Chẳng khác gậy cây mè,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.


269. Trước chân ta chói sáng,
Với lông mềm như bông,
Nay biến đổi vì già,
Nứt nẻ đầy đường nhăn,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.


270. Thân này là như vậy,
Nay già chứa nhiều khổ,
Ngôi nhà đã cũ kỹ,
Vôi trét tường rơi xuống,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.


Và vị trưởng lão Ni, thấy được những hình tướng vô thường trên thân của mình, nhận thức được tánh vô thường của ba giới: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới, tâm tư quán triệt tánh Vô thường, Khổ, Vô ngã, và phát triển tuệ quán trên con đường tu tập chứng được quả A-la-hán.
Sàriputta (Thera. 89)

Ðời của ngài và đời của Moggallàna gắn liền với nhau. Trong thời đức Phật tại thế, Sàriputta sanh tại thành Upatissa, không xa Vương Xá (Ràjagaha) bao nhiêu, mẹ là Rùpasàri; còn Moggallàna sanh ở thành Kolita, không xa thành Vương Xá (Ràjagaha) bao nhiêu, mẹ là Moggali. Vì cả hai là con của vị gia trưởng nên được đặt tên là UpatissaKolita. Cả hai đứa trẻ được nuôi dưỡng trong giàu sang và thiện xảo mọi khả năng.Trong một hội chợ lớn ở Vương Xá (Ràjagaha) vì tâm tư thuần thục, cả hai đều thấy tất cả quần chúng hội một trăm năm sau, sẽ bị thần chết mang đi, nên cả hai lo âu đi tìm con đường giải thoát. Cả hai xuất gia dưới sự chỉ đạo của Sanjaya, hẹn nhau ai chứng quả bất tử trước, sẽ nói cho người kia biết.

Dưới sự chỉ đạo của Sanjaya, cả hai không tìm được đạo giải thoát, và sau khi tìm hỏi các Sa-môn, Bà-la-môn gặp được Assajì và nhờ Assajì, gặp được Thế Tôn, cả hai đều xin xuất gia và được đức Phật độ cho làm Tỷ-kheo với câu: 'Thiện lai Tỷ-kheo'.

Chứng được quả Dự lưu nhờ Assajì tóm tắt câu kệ, Moggallàna, bảy ngày sau khi xuất gia, tại làng KallavàlaMagadha, sau khi nhiếp phục được hôn trầm thụy miên, nhờ lời Thế Tôn khích lệ, sau khi nghe lời dạy về tu các giới, chứng được quả A-la-hán. Còn Sàriputta, nửa tháng sau khi xuất gia khi ở cùng đức Bổn Sư tại hang Sukarakhata ở Vương Xá (Ràjagaha) cũng được chứng quả A-la-hán. Về sau, tại Jetavana Thế Tôn xác chứng Sàriputta là đệ tử đệ nhất về trí tuệ và thiền quán, và Sàriputta sau khi được tôn làm nguyên soái Chánh pháp, một hôm nói lên chánh trí của mình, trước các đệ tử:



981. Ai tùy theo năng lực,
Có giới, tịnh, chánh niệm
Không phóng dật hành trì,
Sở hành đúng tư duy,
Thích hướng nội, khéo định,
Ðơn độc, biết tri túc,
Với sở hành như vậy,
Vị ấy gọi Tỷ-kheo.


982. Ăn đồ ướt hay khô,
Không ăn quá thỏa mãn,
Bụng trống, ăn tiết độ,
Tỷ-kheo trú chánh niệm.


983. Ăn bốn, năm miếng xong,
Rồi hãy uống nước uống,
Thật đủ trú thoải mái,
Với Tỷ-kheo tinh cần.


984. Nhận lấy đồ hợp pháp,
Y áo đáp nhu cầu,
Thật đủ trú thoải mái,
Với Tỷ-kheo tinh cần.


985. Khi ngồi thế kiết-già,
Ðầu gối phải mưa ướt,
Thật đủ trú thoải mái,
Với Tỷ-kheo tinh cần.


986. Ai xem lạc là khổ,
Ai xem khổ như tên,
Ðứng chặng giữa cả hai,
Do đâu, đời nắm được?


987. Không cho ta ác dục,
Biếng nhác tinh cần kém,
Ít nghe, không tín kính,
Do đâu, đời nắm được?


988. Nghe nhiều, có hiền trí,
Khéo định tĩnh trong giới,
Chuyên chú an chỉ tâm,
Hãy đứng lên trên đầu.


989. Ai chuyên tâm hý luận,
Như thú ưa hý luận,
Rơi khỏi, trật Niết-bàn,
Vô thượng, thoát khổ ách.


990. Ai từ bỏ hý luận,
Thích đạo phi hý luận,
Ði đến được Niết-bàn,
Vô thượng, thoát khổ ách
.

Rồi vị Trưởng lão, một hôm thấy được chỗ ở của người em Revata (XLII, CCXLIV) đang ở, một khu rừng không nước đầy gai góc, ngài tán thán người em và nói:

991. Tại làng hay trong rừng,
Thung lũng hay đồi cao,
Chỗ nào La-hán trú,
Ðất ấy thật khả ái.
992. Khả ái thay núi rừng,
Chỗ người phàm không ưa,
Vị ly tham sẽ thích,
Vì không tìm dục lạc
.

Rồi vị Trưởng lão,với lòng từ mẫn đối với Ràdha một Bà-la-môn bất hạnh, giúp Ràdha xuất gia tu hành. Về sau, khi đang du hành, ngài khích lệ Ràdha, bằng lòng với cử chỉ khiêm tốn của Ràdha:



993. Như người chỉ của chôn,
Cũng vậy, người thấy lỗi,
Nói điều người trí trách,
Hãy gần người trí vậy.
Thân cận người như vậy,
Chỉ tốt hơn, không xấu.

Một hôm, bậc Ðạo Sư không đi đến để giải tán nhóm Tăng chúng của Assaji-Runabbasu được tổ chức ở đồi Kità, Sàriputta được cử đi cùng với Moggallàna và các đệ tử của mình. Khi lời khuyên của Sàriputta không được nghe theo, ngài nói như sau:



994. Cần phải khuyên, phải dạy,
Phải ngăn chặn bất thiện,
Làm vậy, người thiện thương,
Người bất thiện không ưa
.

Khi các Tỷ-kheo nói rằng chính du sĩ Dìghanakha, được Thế Tôn giảng dạy, được sửa soạn bởi hành động quá khứ, có thể làm nhiệm vụ ấy, Sàriputta can thiệp, nói rằng không phải:



995. Thế Tôn, bậc có mắt,
Thuyết pháp cho người khác,
Khi pháp được thuyết giảng,
Ta lắng tai nhiệt tình.


996. Ta nghe, không uổng phí,
Giải thoát không lậu hoặc,
Không cần biết đời trước,
Không cần được thiên nhãn.


997. Ta không có phát nguyện,
Chứng được tha tâm thông,
Biết chúng sanh sống chết,
Hay nhĩ giới thanh tịnh.

Ba câu kệ tiếp được nói lên về ngài, khi Sàriputta trú ở tinh xá hang bồ câu, không có bị thương khi bị quỷ Dạ-xoa đánh:



998. Ngồi dưới một gốc cây,
Ðầu trọc, đắp đại y,
Trưởng lão tuệ đệ nhất,
U-pa-tis tu thiền.


999. Ðầy đủ thiền vô tầm
Ðệ tử bậc Chánh giác,
Với im lặng bậc Thánh,
Ngay lúc ấy, đạt được


1000. Giống như ngọn núi đá,
Không động, khéo vững trú,
Cũng vậy, vị Tỷ-kheo,
Ðã đoạn diệt si ám,
Vị ấy như ngọn núi,
Không có bị dao động.

Một hôm, bậc Trưởng lão không chú tâm, để tấm y rơi xuống. Một Sa-di nói: 'Thưa Tôn giả y cần phải đắp xung quanh thân mình'. Tôn giả tán thán lời nói của người Sa-di và đắp lại tấm y trên thân. Và nói lên điều lỗi của mình, ngài nói bài kệ:



1001. Người không có uế nhiễm,
Luôn tầm cầu thanh tịnh,
Ác nhẹ như đầu lông,
Xem nặng như mây trời.

Rồi ngài nêu rõ sự xả ly của ngài đối với vấn đề sống chết.



1002. Ta không hoan hỷ chết,
Ta không hoan hỷ sống,
Ta sẽ bỏ thân này,
Tỉnh giác và chánh niệm.


1003. Ta không hoan hỷ chết,
Ta không hoan hỷ sống,
Ta sẽ bỏ thân này,
Như thợ làm việc xong.

Rồi khi thuyết pháp, ngài nói lên những bài kệ:



1004. Cả hai chết, không chết,
Sau đời hay trước đời,
Hãy dấn thân tiến bước,
Chớ để hư, uổng phí,
Dầu một khắc, sát-na,
Chớ để uổng phí qua.


1005. Như ngôi thành biên địa,
Ðược bảo vệ trong ngoài,
Như vậy, hộ tự ngã,
Chớ để phí sát-na,
Sát-na qua, sầu muộn,
Chịu khổ trong địa ngục.

Rồi một hôm, thấy Tôn giả MahaKotthita, ngài nói lên ba câu kệ, tán thán khả năng tốt đẹp của MahàKotthita.



1006. Ðạt tịch tịnh, chỉ tức,
Ðọc chú, không cống cao,
Quét sạch các ác pháp,
Như gió quét lá cây.


1007. Ðạt tịch tịnh, chỉ tức,
Ðọc chú, không cống cao,
Gạt ngoài các ác pháp,
Như gió quét lá cây.


1008. Ðạt tịch tịnh an lặng,
Ý trong sáng không nhiễm,
Bậc trì giới trọn lành,
Có thể dứt đau khổ.

Câu kệ tiếp nói về các Tỷ-kheo xứ Vajjì tin tưởng ở Devadatta và chấp nhận giáo lý của Devadatta:



1009. Có người không ai tin,
Tại gia hay xuất gia,
Những ai trước là tốt,
Về sau trở thành xấu,
Hoặc trước là người xấu.
Sau trở thành người tốt.


1010. Hạng Tỷ-kheo tham dục,
Sống hôn trầm thụy miên,
Trạo cử và nghi ngờ,
Tâm đủ năm phiền não.
1011.Với ai, đối cả hai,
Ðược trọng, không được trọng,
Thiền định, không dao động,
An trú không phóng dật.


1012. Thiền tư luôn kiên trì,
Tuệ quán, kiến tế nhị,
Ưa thích chấp thủ diệt,
Vị ấy gọi chân nhân
.

Ðể phân biệt sự sai khác, lấy Bổn Sư và mình làm thí dụ, ngài nói lên những bài kệ như sau:



1013. Biển lớn và đất lớn,
Núi và các phương trời,
Không ví dụ sánh được,
Phật, giải thoát thù thắng.


1014. Trưởng lão chuyển pháp luân,
Bậc đại trí, thiền định,
Như đất, nước và lửa,
Không tham không ghét bỏ.


1015. Ðạt được tuệ tối thắng,
Ðại giác, đại Mâu-ni,
Không chậm, tỏ chậm chạp
Thường sống thật thanh lương.

Ðể nêu rõ bổn phận của ngài đã làm xong, ngài nói:



1016. Ta hầu hạ Bổn Sư,
Lời Phật dạy làm xong,
Gánh nặng đã đặt xuống,
Gốc sanh hữu nhổ sạch
.

Và khi ngài sắp nhận Niết-bàn, ngài giảng dạy các Tỷ-kheo đang họp xung quanh ngài như sau:



1017. Tinh cần, chớ phóng dật,
Ðây lời giáo huấn ta!
Ta sẽ nhập Niết-bàn,
Ta thoát mọi sanh y.






tải về 80.93 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương