Cuộc vận động cách mạng Tháng Tám ở Hà Nội



tải về 141.87 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu04.08.2016
Kích141.87 Kb.
#12868
LỜI NÓI ĐẦU
Cách mạng Tháng Tám (1945) đã đi vào lịch sử dân tộc như mốc son chói lọi, chấm dứt chế độ thực dân - phong kiến tồn tại trên lâu dài đất nước ta, mở ra một thời đại mới trong lịch sử dân tộc: nhân dân Việt Nam bắt đầu bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của độc lập dân tộc, bình đẳng và tiến bộ xã hội.

Cách mạng tháng Tám (1945) thành công là kết tinh 15 năm đấu tranh kiên cường, gian khổ của toàn Đảng, toàn dân và phong trào cách mạng từ khắp mọi miền Tổ quốc. Trong công cuộc chung đó, cuộc vận động cách mạng Tháng Tám ở Hà Nội có ý nghĩa, vị trí vô cùng quan trọng.

Bằng sự kiện nhân dân Hà Nội giành được chính quyền ngày 19-8-1945, toàn bộ hệ thống cai trị của địch ở sào huyệt bị tê liệt và sụp đổ, tạo đà thuận lợi để nhân dân các địa phương khác tiến lên đánh đổ chính quyền cơ sở của địch, lập chính quyền cách mạng. Nếu Cách mạng Tháng Tám (1945) của nhân dân Việt Nam mở ra khâu đột phá vào thành trì của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới, thì cách mạng Tháng Tám (1945) ở Hà Nội có ý nghĩa như màn khai pháo trong chuỗi thắng lợi tiếp theo của nhân dân cả nước trong mùa thu lịch sử.

Bởi tầm vóc, ảnh hưởng của mình, nên cách mạng Tháng Tám (1945) ở Hà Nội đã được nhiều cơ quan, tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu. Nhiều cuốn sách, bài viết về vấn đề này đã được công bố.

Trong các công trình đó, những cuốn sách do tập thể các nhà nghiên cứu thuộc Thành ủy Hà Nội biên soạn mang tính khái quát nhất. Cuốn Cuộc vận động cách mạng Tháng Tám ở Hà Nội (Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Hà Nội, H, 1975) đã nêu những vấn đề cơ bản nhất về phong trào cách mạng của nhân dân Hà Nội trong những năm 1939-1945. Cuốn Lịch sử Đảng bộ thành phố Hà Nội (1930- 2000) (Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội, H, 2004) đã đặt cuộc vận động giải phóng dân tộc của nhân dân Hà Nội trong những năm 1939-1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ thành phố trong tiến trình chung của sự nghiệp đấu tranh và giải phóng Thủ đô.

Cuốn Cách mạng Tháng Tám (NXB Sử học, H, 1960) đã trình bày sơ lược các cuộc vận động cách mạng trong cách mạng Tháng Tám (1945) ở các địa phương khác nhau trên phạm vi cả nước, trong đó, nhấn mạnh vai trò đầu tàu của Hà Nội. Cuốn sách Lịch sử Thủ đô Hà Nội, (NXB Lao động, in lần thứ 3, H, 2009) do Trần Huy Liệu chủ biên cung cấp nhiều thông tin về các sự kiện lịch sử trong các thời kỳ ở Hà Nội, đặc biệt trong giai đoạn 1930-1945.

Một số nhà lãnh đạo cách mạng như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng… đã xuất bản các cuốn sách như Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam, (2 tập, NXB Sự thật, H, 1975), Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, Cách mạng Tháng Tám - Một số vấn đề lịch sử (NXB Khoa học xã hội, H, 1995)… Các công trình này đã nêu bật những luận điểm cơ bản về bạo lực cách mạng, khởi nghĩa nhân dân, thời cơ cách mạng trong cách mạng Tháng Tám (1945). Đó là những định hướng quan trọng cho các nhà nghiên cứu tìm hiểu về cách mạng Tháng Tám (1945).

Các bài đăng trên các tạp chí chuyên ngành đã đề cập đến những vấn đề khác nhau của Cách mạng Tháng Tám (1945) trong cả nước nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng. Hàng loạt hồi ký của những người hoạt động cách mạng ở Hà Nội trong Cách mạng Tháng Tám (1945) được xuất bản trong những năm gần đây đã làm phong phú thêm hình ảnh cuộc vận động cách mạng ở Thủ đô qua nhiều góc cạnh.

Một số công trình của các nhà nghiên cứu nước ngoài cũng đề cập đến sự kiện cách mạng Tháng Tám (1945) ở Hà Nội. Tiêu biểu phải kể đến công trình của Marr, David G: Vietnam 1945: The Quest for Power (University of California Press, Berkeley, 1995) và World War II and the Vietnamese Revolution, Alfred W.(Ed): Southeast Asia under Japanese Occupation (New Haven, 1980) và công trình của Stein Tonesson: The Vietnames Revolution of 1945, Roosevelt, Ho Chi Minh and De Gaulle in a world at war. Từ những góc độ tham chiếu khác nhau, các học giả nước ngoài đã đưa ra một số chủ kiến khác biệt tương đối về Cách mạng Tháng Tám so với những nghiên cứu trong nước, nhất là vấn đề thời cơ, sử dụng bạo lực cách mạng. Tuy nhiên, các công trình này đã được tiến hành một cách độc lập và họ đều đánh giá cao vị thế của cách mạng Tháng Tám ở Hà Nội, trí tuệ và vai trò to lớn của lãnh tụ Hồ Chí Minh trong chỉ đạo cách mạng Việt Nam.

Tập thể tác giả của công trình này kế thừa thành quả của nghiên cứu về Cách mạng Tháng Tám ở Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.

Phạm vi nghiên cứu của công trình này, về thời gian bắt đầu từ cuối năm 1939, với mốc sự kiện chấm dứt thời kỳ vận động Dân chủ 1936-1939 và điểm kết thúc là ngày 2-9-1945, ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Về không gian, chúng tôi giới hạn phong trào vận động cách mạng trong khu vực địa hành chính Hà Nội vào năm 1945. Cụ thể gồm 8 tiểu khu nội thành và 9 tổng 36 xã ngoại thành.

Tuy nhiên, do quan hệ hữu cơ của phong trào cách mạng giữa nhân dân Hà Nội với nhân dân các địa phương khác, nên nhiều sự kiện liên quan đến chủ thể, nhưng nằm ngoài phạm vi không gian của Hà Nội vẫn được trình bày. Cụ thể đó là vùng tiếp giáp Hà Nội thuộc các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Hà Đông... cũ.

Nội dung của cuốn sách này gồm 3 chương.

Chương 1: Khái quát về phong trào cách mạng Hà Nội trước năm 1939

Chương 2: Phong trào đấu tranh cách mạng từ cuối 1939 đến đầu năm 1945

Chương 3: Từ cao trào kháng Nhật đến tổng khởi nghĩa, xây dựng chính quyền nhân dân (12-3 đến 2-9-1945)

Chương 4: Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám ở Hà Nội

Tìm hiểu về một đề tài lịch sử nổi bật, đã có nhiều công trình nghiên cứu nên nhóm tác giả công trình này có thuận lợi là kế tục được những kết quả đã có từ trước. Bên cạnh đó, quá trình thực hiện cũng gặp không ít khó khăn bởi nội dung của vấn đề quá phong phú, đa dạng, lại phải thực hiện trong thời gian quá ngắn với yêu cầu phải nêu được những đóng góp rất cụ thể vào chủ đề này.

Tuy nhiên, được sự giúp đỡ các học giả có uy tín và tập thể cán bộ trong bộ môn Lịch sử Việt Nam Cận - Hiện Đại thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, đặc biệt là những ý kiến đóng góp bổ ích của, PGS. NGND Lê Mậu Hãn, PGS. Phạm Xanh công trình đã hoàn thành kịp tiến độ.

Trong khi nghiên cứu công trình này, do nhiều lý do nên có thể có những đánh giá khác nhau về bản chất, ý nghĩa của sự kiện. Trong trường hợp đó chúng tôi dựa vào các ý kiến đánh giá chính thống của các nhà lãnh đạo cách mạng và ý kiến của các cơ quan nghiên cứu thuộc Thành ủy Hà Nội.

Kế thừa các công trình đã nghiên cứu, nhóm tác giả cố gắng trình bày một cách có hệ thống mối quan hệ giữa phong trào đấu tranh của nhân dân Hà Nội với nhân dân cả nước; những đặc điểm, kinh tế xã hội ở Hà Nội tác động đến phong trào chung... Cuối cùng, từ những kết quả đã đạt được, chúng tôi khái quát thành những đặc trưng cơ bản nhất của cuộc vận động Cách mạng Tháng Tám diễn ra trên địa bàn Hà Nội.

Tuy nhiên vì thời gian gấp rút, trình độ, nhận thức có phần hạn chế, nên bản thảo này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được những góp ý, bổ sung để bản thảo chính thức có chất lượng cao hơn.

Chương 1

Khái quát phong trào cách mạng Hà Nội

trước năm 1939


  1. Vài nét khái quát về Hà Nội

    1. Địa giới hành chính

Sau mấy chục năm bị thực dân Pháp cai trị, đến những năm cuối thập kỷ 20 của thế kỷ 19, diện mạo thành phố Hà Nội - trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của Pháp ở Đông Dương - về cơ bản đã hoàn chỉnh.

Vào khoảng cuối thế kỷ 19, người Pháp bắt đầu xây dựng thành phố Hà Nội trên địa bàn khu Thành cũ. Cùng thời gian này, các thành phố khác ở Việt Nam cũng bắt đầu được xây dựng và chia làm ba cấp khác nhau gồm đô thị loại 1, 2 và 3. Năm 1888, vua Đồng Khánh ra đạo dụ nhượng hẳn thành Hà Nội cho Pháp. Ngày 19-7-1888, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội.

Buổi ban đầu dưới ách cai trị của Pháp, trung tâm thành phố bao gồm địa bàn phía Bắc hồ Hoàn Kiếm đến khu Dinh Toàn quyền. Ngày 14-7-1899, Thống sứ Hà Nội quyết định lập khu vực ngoại thành gồm một số xã thuộc hai phủ Hoài Đức và Thường Tín. Vùng ngoại thành do một viên đồn trưởng trực tiếp cai trị.

Sang đầu thế kỷ 20, cơ sở hạ tầng của Hà Nội được hoàn chỉnh nhanh chóng. Các khu phố được xây dựng theo mô hình hiện đại: công sở, biệt thự được quy hoạch, xây dựng theo kiểu ô bàn cờ. Cơ sở hạ tầng của thành phố bao gồm điện, nước, giao thông, trường học, bệnh viện, cơ sở sản xuất công nghiệp, nhà thờ, rạp chiếu bóng, nhà hát… dần được khởi công và đưa vào hoạt động.

Năm 1902, thực dân Pháp lập Hà Nội làm thủ phủ của toàn Đông Dương. Kinh thành Thăng Long cũ đã trở thành Thủ đô của xứ Đông Dương thuộc Pháp. Vào thời điểm này, Hà Nội có khu vực nội thành với diện tích rộng trên 10 km2 và vùng ngoại thành nằm ở phía Đông Nam thành phố.

Cuối năm 1904, Pháp chia khu vực nội thành làm 8 tiểu khu (quarier) và vùng nông thôn ngoại thành ở phía Đông Nam Hà Nội là huyện Hoàn Long được cắt sang tỉnh Hà Đông.

Theo thống kê sơ lược của người Pháp thì đến năm 1921, thành phố Hà Nội có khoảng 4.000 dân người Âu, một số người Ấn, người Hoa và 100.000 người Việt.

Đến năm 1928, vùng nội thành của Hà Nội đã được mở rộng đáng kể. Khu Hoàn Kiếm đã trở thành trung tâm của thành phố. Đây là địa giới phân biệt giữa khu phố cổ cùng những con đường ngoằn nghèo với khu phố mới mang lối kiến trúc hiện đại kiểu ô bàn cờ. Khu phố cổ với 36 phố phường mật độ dân cư dày đặc, trong khi khu mới dân cư, biệt thự còn thưa thớt. Phố chưa có tên và được đánh dấu bằng các ô số1. Chiều của thành phố lúc này từ Bắc xuống Nam, trải dài từ hồ Trúc Bạch đến điểm cuối là hồ Bảy Mẫu; phía Đông Bắc thành phố giáp sông Hồng, phía Tây bao gồm vùng Xã Đàn, Thổ Quan.

Vùng ngoại thành ở phía Nam, bao gồm các làng thuộc xứ Bạch Mai, Khương Thượng, Kim Liên, Phương Liệt… với khoảng 20 thôn, làng. Cư dân vùng này kiếm sống bằng nghề nông, thủ công; nhiều làng trồng rau thơm. Đến năm 1930, dân số thành phố khoảng 200.000 người.

Khi Nhật chiếm Hà Nội (tháng 10-1940), địa hành chính Hà Nội có thay đổi. Ngày 25-8-1942, Nhật - Pháp sáp nhập huyện Hoàn Long vào thành phố Hà Nội. Cuối năm 1942, Nhật - Pháp quyết định lập khu vực ngoại thành làm "Đại lý đặc biệt Hà Nội", gồm huyện Hoàn Long cũ và 22 xã thuộc phủ Hoài Đức, Thanh Trì thuộc Hà Đông, trụ sở đặt tại ấp Thái Hà. Diện tích của thành phố vào thời gian này tăng lên đến 130 km2, dân số gần 30 vạn2.

Sang năm 1943, Pháp mở rộng địa giới hành chính Hà Nội sang phía Thanh Trì. Tính đến năm 1945 diện tích thành phố rộng khoảng 150 km2. Vào thời gian này Hà Nội phía Bắc giáp huyện Đông Anh (Phúc Yên), phía Đông giáp huyện Gia Lâm (Bắc Ninh), phía Tây giáp Hoài Đức, Đan Phượng, thị xã Hà Đông và phía Nam giáp huyện Thanh Oai, Thanh Trì (Hà Đông).

Cho đến trước Cách mạng Tháng Tám (1945), thực dân Pháp chia Hà Nội làm hai vùng: nội thành và ngoại thành. Vùng trung tâm Hà Nội gồm 8 tiểu khu, vùng ngoại thành gồm 9 tổng, 36 xã3. Lịch sử cuộc vận động Cách mạng Tháng Tám (1945) ở Hà Nội chủ yếu diễn ra trên địa giới vừa nêu. Tuy nhiên bởi cuộc vận động Cách mạng Tháng Tám (1945) ở Hà Nội là một bộ phận của lịch sử xứ Bắc Kỳ và của cả nước lúc đó, nên sự kiện này không bó hẹp trong không gian trên. Dưới sự chỉ đạo của Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ, phong trào đấu tranh cách mạng ở Hà Nội với các tỉnh xung quanh luôn có quan hệ hữu cơ, tác động qua lại với nhau. Phong trào cách mạng càng phát triển, điều kiện phối hợp giữa cách mạng ở Hà Nội với bên ngoài càng tăng lên và mặt khác chính sự phối hợp này lại tạo thuận lợi cho phong trào đấu tranh của Thủ đô.

Sau khi xâm chiếm và bình định được Đông Dương, thực dân Pháp nhanh chóng tiến hành hai cuộc khai thác thuộc địa. Dù chủ trương cụ thể có khác nhau, nhưng ý đồ chung của thực dân Pháp qua hai lần khai thác này đều nhằm vơ vét nguồn nguyên liệu và nhân công rẻ mạt ở Đông Dương, tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng công nghệ, vơ vét nông phẩm trong xứ để kiếm lợi nhuận.

Hà Nội - Bắc Kỳ cũng nằm trong toan tính trên của Pháp và nó có vị thế khác thời gian trước. Thực dân Pháp đã xây dựng Hà Nội trở thành trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa của xứ Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Từng bước một, Pháp chiếm lấy Hà Nội và biến nơi đây thành vị trí chiến lược quan trọng hàng đầu trong hệ thống phòng thủ và cai trị toàn Đông Dương. Đối với phát xít Nhật sau này Hà Nội cũng là vị trí chiến lược quan trọng trong cuộc chiến tranh xâm lược của chúng ở Đông Nam Á.

Trong hơn 60 năm thống trị, thực dân Pháp không ngừng củng cố, tăng cường bộ máy cai trị và phòng thủ ở Hà Nội. Chúng ra sức xây dựng cơ sở chính trị xã hội phản động, chủ yếu trong giai cấp địa chủ phong kiến và một số ít tư sản có quyền lợi dính chặt với đế quốc. Đa số tổ chức, đảng phái phản động do đế quốc lập ra đã ra đời và hoạt động chủ yếu ở Hà Nội.


    1. Vị thế của Hà Nội

Sau khi chiếm được Hà Nội vào năm 1883, người Pháp đã tiến hành xây dựng thành phố Hà Nội mới. Mặc dù được xây dựng chủ yếu nhằm phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa, nhưng nhờ đó mà Hà Nội cũng trở thành thành phố hiện đại mang mẫu hình châu Âu và là một trong những thành phố hiện đại nhất ở Đông Nam Á lúc đó.

Hà Nội là trung tâm chính trị- hành chính

Từ cuối thế kỷ 19, trong quá trình xâm lược Việt Nam, người Pháp đã tổ chức một bộ máy hành chính khá hoàn chỉnh từ Trung ương đến địa phương. Ở Trung ương là Phủ Toàn quyền Đông Dương; ở các kỳ là Thống sứ, Khâm sứ, Thống đốc; ở các tỉnh là các Công sứ... nhằm phục vụ cho việc cai trị Việt Nam.

Ngày 17 tháng 10 năm 1887, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh thành lập Phủ Toàn quyền Đông Dương (hay Phủ Toàn quyền Đông Pháp - Gouvernement général de l'Indochine Française). Toàn quyền Đông Dương là người có quyền hành cao nhất trong thể chế chính trị Pháp trên toàn cõi xứ Bắc Kỳ, Nam Kỳ, Lào và Cao Miên. Phủ Toàn quyền Đông Dương được xây dựng trong những năm 1901-1906 với quy mô hoành tráng, uy nghiêm. Đây là trung tâm đầu não chính trị của thực dân Pháp và sau đó của phát xít Nhật, có toàn quyền quyết định mọi chính sách chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại trên toàn xứ.

Trong lịch sử hơn 80 năm cai trị của thực dân Pháp ở Đông Dương đã có gần 35 nhân vật đứng đầu Phủ Toàn quyền, do Pháp hay Nhật điều hành. Dù chính sách cụ thể, nhãn giới chính trị, văn hóa của họ khác nhau… nhưng nói chung đều nhằm khai thác xứ Đông Dương phục vụ lợi ích của tư bản Pháp - Nhật.

Cách Phủ Toàn quyền không xa là Phủ Thống sứ, cơ quan điều hành quyền lực cao nhất của Pháp tại xứ Bắc Kỳ.

Theo Hiệp ước Giáp Thân, Bắc Kỳ là xứ bảo hộ của Pháp do quan Kinh lược sứ thay mặt nhà vua cai quản nhưng trên thực tế, chức vụ này không tồn tại. Mọi việc trong xứ đều do viên Thống sứ Pháp quyết định. Hệ thống quan lại người bản xứ tại Bắc Kỳ từ tỉnh đến quận, huyện, tổng… cũng đều do Thống sứ Pháp bổ nhiệm, thuyên chuyển, triều đình Huế không có quyền hành gì.

Phủ Thống sứ Bắc Kỳ (Résident général du Tonkin) cũng được khởi công xây dựng vào năm 1901 cùng thời gian xây dựng Dinh Toàn quyền.

Dưới quyền điều khiển của Toàn quyền, ngoài Thống đốc, Khâm sứ và Thống sứ, còn có các cơ quan hành chính như sau:


  1. Hội đồng Tư vấn (Conseil privé), Hội đồng Đề hình (Commissions criminelles), Bắc Kỳ và Trung Kỳ Nhân dân Đại biểu viện (Chambre des représentants du peuple) và một Đại Hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông Dương (Grand Conseil des Intérêts économiques et financiers de l'Indochine).

  2. Các tổng nha chuyên môn Đông Dương (Services généraux de l'Indochine): Nha Học chính, Nha Tài chính, Nha Kinh tế vụ, Nha Canh nông, Nha Công chính, Nha Bưu chính, Nha Thương chính.

  3. Quân đội.

  4. Sở Hiến binh (Gendarmerie).

  5. Sở Mật thám Đông Dương (Direction des Affairs politiques et de la Sureté).

Tất cả các cơ quan trên đều đóng tại Hà Nội, tạo nên hệ thống cai trị, khai thác kinh tế, kìm kẹp toàn bộ vùng Đông Dương nói chung và Bắc Kỳ nói riêng.

Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp và Bộ chỉ huy quân sự xứ Bắc Kỳ cũng đóng ở Hà Nội với quân số đồn trú vào khoảng trên dưới 1 vạn. Các trung tâm chỉ huy, đồn binh lớn nằm ở khu Hoàng Thành, Phạm Ngũ Lão, gần các trung tâm hành chính của Pháp. Lính khố xanh bản xứ (còn được gọi lính Bảo an) có hàng ngàn tên đóng tại trại Bảo an binh (trước cửa rạp Tháng Tám). Hệ thống các đồn bốt của cảnh sát được xây dựng thành một mạng lưới giăng khắp các ngả đường.

Một công cụ kìm kẹp tàn khốc của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam và Bắc Kỳ là hệ thống đề lao, trong đó nổi bật là nhà tù Hỏa Lò. Nhà tù Hỏa Lò vốn có tên là Đề lao Trung ương (Maison Centrale), nhưng do được xây trên đất của làng Phụ Khánh, tổng Vĩnh Xương (cũ), đây là làng nghề chuyên sản xuất đồ gốm, ngày đêm đỏ lửa nung lò nên làng có còn có tên là Hỏa Lò và nhà tù ở đây cũng được gọi là nhà tù Hỏa Lò. Nhà tù Hoả Lò được xây dựng vào năm 1896 nhằm giam giữ người Việt yêu nước. Về sau, khi Đảng cộng sản ra đời thì nơi đây chủ yếu dùng để giam giữ tù chính trị - những Đảng viên kiên cường của cách mạng Việt Nam nói chung và cách mạng Hà Nội nói riêng.

Khác với hệ thống lao hình ở các địa phương khác thường ở xa vùng cư dân (nhà tù Sơn La, Lao Bảo, Côn Lôn...), nhà tù Hỏa Lò nằm ngay trung tâm Hà Nội. Thực dân Pháp cho xây dựng nhà tù này nhằm khủng bố những người đấu tranh chống chế độ thực dân Pháp. Ngay từ khi chưa hoàn thành, tháng 1-1899 nó đã được đưa vào sử dụng. Theo thiết kế ban đầu, Hoả Lò chỉ đủ giam 500 tù nhân, nhưng nó đã nhiều lần được mở rộng để có thêm chỗ giam giữ. Vào những thời kỳ cao điểm, số người bị bắt giam tại đây lên đến hàng ngàn người.

Để khủng bố gây hoang mang cho nhân dân yêu nước, các tù nhân án chém bị giam giữ riêng. Thực dân Pháp sử dụng hai máy chém có từ cuộc Đại cách mạng Pháp, mang sang để hành hình các tù nhân chính trị4.

Bên cạnh nhà tù là Tòa án và Ty Liêm phóng, tạo thành thế chân kiềng, sẵn sàng đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta. Hỏa Lò là công trình kiên cố vào loại bậc nhất Đông Dương.

Song song với chính sách cai trị, kìm kẹp như trên, thực dân Pháp không cho người dân thuộc địa quyền lợi dân chủ nào. Dù người Hà Nội thuộc giới thị dân có điều kiện kinh tế, chính trị nào đó khá hơn một chút so với người nông dân nghèo khổ ở vùng sâu, vùng xa, nhưng đối với chế độ bảo hộ, tất cả chỉ là “An Nam mít”. Ngoài một ít quyền dân chủ nào đó mà các tầng lớp nhân dân Hà Nội giành được trong thời kỳ Mặt trận bình dân, còn lại suốt mấy thập kỷ cai trị của Pháp, nhân dân luôn bị đàn áp, khủng bố. Sự hà khắc của Pháp đối với cư dân Hà Nội và ở cả xứ Bắc Kỳ còn cay nghiệt hơn so với Nam Kỳ.=>Tòa Đốc Lý 1887…(Tòa Thị Chính) Bờ Hồ ???

Thực dân Pháp sớm xây dựng hệ thống vành đai quanh Hà Nội nhằm ngăn chặn phong trào đấu tranh của nhân dân trong vùng, cô lập phong trào cách mạng Hà Nội với các tỉnh thành khác. Phía Bắc và Đông Bắc Hà Nội có dòng sông Hồng là ranh giới tự nhiên với vùng Kinh Bắc. Nối liền hai bờ sông Hồng là cầu Long Biên như một đường giao thông độc đạo. Dựa vào địa thế tự nhiên này, Pháp xây dựng hệ thống kiểm soát vào thành phố bằng tuyến bảo vệ ở Gia Lâm. Các hướng còn lại có hai tuyến giao thông chính từ Hà Nội đi Hà Đông và Hà Nội đi Sơn Tây. Vùng Hà Đông và Sơn Tây cũ lực lượng Pháp kiểm soát ngặt nghèo. Đánh giá vị trí của địa bàn này, ngày 1 tháng 1 năm 1939, viên Công sứ tỉnh Sơn Tây đã khẳng định “ở cửa ngõ Hà Nội, từ lâu đã được Chính phủ bảo hộ chú ý”5.

Trên trục đường Số 6 nối Hà Nội - Hà Đông, địch tăng cường kiểm soát qua cửa chính thuộc khu vực Đại lý Hoàn Long - địa bàn ngoại thành được quân sự hóa do một sĩ quan làm đốc lý. Phía đường Hà Nội - Sơn Tây địch dựng bốt Phùng khống chế cả vùng.

Trước bộ máy kìm kẹp, đàn áp đó, phong trào đấu tranh của các lực lượng yêu nước nói chung và của nhân dân Hà Nội nói riêng gặp rất nhiều khó khăn và dễ bị đàn áp. Thực tế, các cuộc đấu tranh và các tổ chức cách mạng từ sau năm 1930 cho đến trước Cách mạng Tháng Tám (1945) ở Hà Nội luôn gặp khó khăn và có nhiều thời kỳ gặp tổn thất nặng nề.



Trung tâm tôn giáo – tín ngưỡng

Trước khi Pháp chiếm, Hà Nội đã có nền văn hóa truyền thống nổi tiếng và lâu đời. Một trong những tôn giáo phổ biến là Phật giáo. Giới Phật tử luôn chiếm tỉ lệ lớn trong cư dân thành phố. Hà Nội có hàng trăm chùa chiền nổi tiếng, tồn tại qua nhiều thế kỷ khắp nội và ngoại thành.

Trong lịch sử dân tộc, khi đạo Phật được tôn làm quốc giáo thì Thăng Long lúc đó là trung tâm Phật giáo của cả nước. Khi nó không còn giữa vai trò quốc giáo nữa, vị thế của đạo Phật ở Hà Nội có suy vi ít nhiều.

 Thời kỳ đầu thế kỷ 20, khi phong trào Chấn hưng Phật giáo lan ra Hà Nội thì phong trào Phật giáo tại đây đã có những biểu hiện dấn thân vào đấu tranh chính trị.

Đạo giáo trong nhiều thế kỷ vẫn mang đậm chất dân gian, gắn chặt với sinh hoạt tín ngưỡng của dân chúng. Những di tích gắn với Đạo giáo ở Thăng Long – Hà Nội cũng nổi bật hơn các địa phương khác. Các cơ sở nổi tiếng của Đạo giáo ở Hà Nội được phân bố ngay vòng ngoài của không gian tâm linh Thăng Long - Hà Nội, thờ Chử Đồng Tử, Thánh Gióng, Thánh Tản Viên, Công chúa Liễu Hạnh, An Dương Vương…6

Một trong những dấu ấn văn hóa đặc sắc của Hà Nội là hệ thống đền và các tín ngưỡng, lễ hội liên quan đến Thăng Long tứ trấn. Bốn ngôi đền linh thiêng trấn giữ kinh thành bao gồm: đền Bạch Mã trấn hướng Đông; đền Voi Phục trấn hướng Tây, thờ thần Linh Lang; đền Kim Liên trấn phía Nam, thờ thần Cao Sơn (Cao Sơn đại vương có họ với thần núi Tản Viên); quán Trấn Vũ trấn phía Bắc, thờ Huyền Thiên Trấn Vũ.

Theo gót chân của người Pháp, một số tôn giáo mới cũng được du nhập và dần dần phát triển ở Hà Nội.

Nổi bật nhất trong những tôn giáo mới phát triển ở Hà Nội là Công giáo. Đầu thế kỷ 20 đã có nhiều nhà thờ được xây dựng, nổi tiếng như Nhà Chung, Hàm Long, Cửa Bắc, Phùng Khoang… Trước cách mạng Tháng 8 (1945), Hà Nội có ba giáo xứ với khoảng 16.000 giáo dân.

Đạo Tin Lành xuất hiện ở Hà Nội từ sớm, nhưng đến giữa những năm 1930 khi nhà thờ ở Ngõ Trạm được xây dựng lại thì hoạt động của tôn giáo này ở Hà Nội mới thật sự khởi sắc.

 Đạo Cao Đài xuất hiện ở Hà Nội vào khoảng thập kỷ 1930, thu hút được vài ngàn tín đồ. Nhà thờ chính tại phố Galet (nay là phố Mã Mây).

  Hồi giáo ở Hà Nội là một cộng đồng nhỏ, du nhập trong những năm 1930, truyền bá chủ yếu trong cộng đồng người Hồi giáo gốc Ấn Độ và Pakistan sinh sống và làm ăn, buôn bán tại thành phố. Một số người Việt cũng dần dần tham gia vào tôn giáo này qua con đường hôn nhân. Trung tâm sinh hoạt tôn giáo của đạo Hồi nằm ở phố Hàng Lược (người dân quen gọi là “chùa Tây Đen”)… Kiều dân Ấn Độ, Pakistan làm ăn buôn bán ở Hà Nội cũng không nhiều như thành phố Sài Gòn nên khả năng phát triển đạo Hồi ở đây cũng rất hạn chế.

Như vậy, trong nửa đầu thế kỷ 20, Hà Nội trở thành một trong những trung tâm tôn giáo - tín ngưỡng lớn của cả nước với sự hiện diện của nhiều loại hình tôn giáo khác nhau, làm cho bức tranh sinh hoạt tôn giáo ở đây thêm sinh động.

Mặc dù quy tắc tu tập, thờ phụng khác nhau tùy từng tôn giáo - tín ngưỡng, nhưng nổi bật trên hết trong tâm hồn người Hà Nội là tinh thần yêu nước nồng nàn, căm thù quân xâm lược. Chính trong cuộc đấu tranh do Đảng lãnh đạo sau này, hầu hết mọi công dân không phân biệt tôn giáo tín ngưỡng đều tập trung dưới ngọn cờ đại nghĩa giải phóng dân tộc, giải phóng thủ đô.

Cũng trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 20, một loạt công trình kiến trúc về văn hóa như rạp chiếu bóng, rạp hát, sở thú, bảo tàng, công viên… được xây dựng hiện đại theo mô hình phương Tây.



Trung tâm báo chí

Hà Nội là trung tâm xuất bản sách, báo chí. Ấn phẩm của Hà Nội trong thời gian này khác trước về nội dung, số lượng và kỹ thuật in ấn. Tại Hà Nội vào những thập niên đầu thế kỷ 20 có hàng chục nhà in với khá nhiều đầu báo.

Các đảng phái chính trị tập trung hoạt động sôi nổi nhất ở Hà Nội và thường chủ trương xây dựng cho mình một tờ báo làm cơ quan ngôn luận riêng. Có báo đại diện cho giai cấp tư sản, tiểu tư sản theo xu hướng duy tân đất nước bằng con đường cải cách hay bạo động; có báo của lực lượng thân Pháp, Nhật; có báo đại diện cho tiếng nói của lực lượng cách mạng theo khuynh hướng vô sản… Có báo chuyên bàn về nữ giới, có báo bàn luận thời cuộc chính trị, văn học v.v… Trong dòng báo chí đó, các số báo theo xu hướng cách mạng mác-xít ngày càng có vị thế quan trọng7.

Một số báo chí xuất bản ở Hà Nội thời kỳ này gồm Thanh Nghị báo, Tân dân tùng báo, Đông Dương, Nam Phong, Tiếng Dân, Tri Tân, Khoa Học… Ẩm Băng thất, Tự do thư, Trung Quốc hồn, Thực nghiệp dân báo, Khai hoá Nhật báo, Le Travail, Hà Thành Thời Báo, Bạn Dân, Thời Thế, Đời Nay, Ngày Mới, Nôtơrơ Voa, Trung Bắc Tân Văn, Tin Mới, Đông Phát, Độc Lập, Dân Chủ, Bình Minh v.v.

Báo chí cách mạng có Búa Liềm, Tiến lên, Chiến đấu, Công hội đỏ, Hồn nước… Một số tờ báo ra đời trong nhà tù như Lao tù đỏ, Lao tù tạp chí… do anh em chính trị phạm bí mật xuất bản, dùng làm vũ khí đấu tranh và tuyên truyền trong ngục.

Ngoài báo chí tiếng Việt, còn có các tờ báo bằng tiếng Pháp tuy không được phổ biến như báo chí tiếng Việt đã nêu ở trên. Mặc dù ra đời muộn sau Sài Gòn, nhưng Hà Nội đã nhanh chóng trở thành trung tâm báo chí cả xứ Đông Dương8. Báo chí đã góp phần biến đổi đời sống văn hóa của nhân dân Hà Nội đầu thế kỷ 20. Nó vừa là cầu nối và truyền tải văn hóa Đông - Tây, vừa là phương tiện để nâng cao dân trí. Có thể nói, sinh hoạt báo chí đã góp phần làm cho đời sống văn hóa của nhân dân Hà Nội thêm phong phú, sôi động.

Các sách báo phát hành ở Hà Nội còn được đưa đi rộng khắp các nơi phục vụ nhu cầu người đọc vì phương tiện vận chuyển lúc này đã thuận lợi hơn trước. Ngược lại, báo chí, tin tức quan trọng in ấn từ các địa phương khác, như ở Sài Gòn, miền Trung, ở Lào, Cam-pu-chia, Pa-ri… cũng được phổ biến ra Hà Nội. Những thông tin nhiều chiều này giúp dân cư Hà Nội nắm tình hình chung cuộc khái quát hơn.

Trung tâm giáo dục

Giáo dục Hà Nội cũng chuyển biến nhanh hơn thời kỳ trước. Nền giáo dục “Tây học” được áp dụng ngày một sâu rộng. Thời Pháp, giáo dục Việt Nam có ba chuyển biến căn bản. Một là chữ Quốc ngữ thay thế hệ thống chữ Nho và bên cạnh đó, tiếng phương Tây-chủ yếu là tiếng Pháp rồi tiếng Anh, cũng được sử dụng. Thứ hai là nội dung học đã thay thế hệ thống đào tạo Nho giáo theo lối Khổng Trình thành những bộ môn có khoa học kĩ thuật và văn học, sử học… hiện đại. Thứ ba là hệ thống giáo dục các cấp từ khai trí đến bậc đại học đã ra đời.

Trong địa bàn Đông Dương, Hà Nội là trung tâm, thủ phủ giáo dục. Đặc biệt các ngành giáo dục bậc cao đẳng, đại học đã thu hút thanh niên trí thức cả ba xứ Trung, Nam Bắc và toàn cõi Đông Dương.

Sau khi chiếm Hà Nội, thực dân Pháp mở một số trường nhằm đào tạo viên chức phục vụ bộ máy hành chính. Tại Hà Nội có ba trường trung học ra đời sớm nhằm đào tạo người làm thông ngôn cho Pháp.

Ngày 9 tháng 12 năm 1908, Toàn quyền Đông Dương quyết định thành lập trường Thành chung Bảo hộ (Collège du Protectorat) trên cơ sở sáp nhập ba trường đã có từ trước. Năm 1931, trường được nâng cấp thành lycée (Lycée du Protectorat - trường Trung học Bảo hộ), nhưng vì được xây dựng trên đất Kẻ Bưởi, nên người dân vẫn gọi là trường Bưởi.9

Trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An) là một trường nổi tiếng ở Đông Dương, là cái nôi đào tạo nhiều trí thức tài giỏi. Phần lớn học sinh xuất thân từ mái trường này đều mang tinh thần dân tộc nồng nhiệt, trong đó có các nhân vật nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực như Phạm Văn Đồng, Tôn Thất Tùng, Nguyễn Khắc Viện... Nhiều thầy giáo nổi tiếng như Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Xuân Hãn… cũng đã từng giảng dạy ở đây.

Sau khi ra lệnh đóng cửa trường Đông Kinh Nghĩa Thục năm 1907, người Pháp mở trường Trung học bảo hộ theo mô hình giáo dục Pháp với mục đích đào tạo công chức trung cao cấp người Việt cho bộ máy cai trị, nhưng cả Bắc Kỳ khi đó chỉ có trường Bưởi là lycée dành cho học sinh người Việt vì lycée Albert Sarraut là của học sinh Pháp, họ rất ít lấy học sinh Việt.

Được học tập tại trường Bưởi trong thời gian này là một niềm tự hào lớn. Học trò ra trường đi vào khắp các ngành kinh tế, văn hóa, đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Không chỉ có học sinh người Việt, trường Bưởi còn là nơi học tập của học sinh trong toàn xứ mà sau này một số người đã trở thành những chính khách nổi tiếng như các ông Xu-pha-nu-vông, Cay-xỏn Phôm-vi-hẳn...

Trường trung học nữ sinh Đồng Khánh được lập năm 1917, sau đổi thành trường Trung học cơ sở Trưng Vương, là trường trung học lâu đời nhất Hà Nội và cả Việt Nam. Ngoài ra còn có trường sư phạm Đỗ Hữu Vị, lập cùng thời kỳ này, đóng ở Hàng Bài, sau đổi tên là trường Phan Đình Phùng.

Một số viện nghiên cứu và trường đại học đầu tiên ở Đông Dương cũng được lập trong những năm đầu thế kỷ 20. Đại học Đông Dương (Université Indochinoise) là cơ sở giáo dục bậc đại học ở Liên bang Đông Dương, được thành lập vào tháng 5 năm 1906 tại Hà Nội, gồm ba khối là khoa học tự nhiên, pháp lý và văn học. Tuy nhiên đến 10 năm sau (1917), trường Đại học Đông Dương mới mở các khóa học đều đặn. Từ sau năm 1931, Đại học Đông Dương phát triển mạnh mẽ đội ngũ giáo viên của trường Y, ngành đào tạo lâu đời và uy tín nhất của Đại học Đông Dương gồm 6 giáo sư chính thức và 13 giảng viên thỉnh giảng.

Đại học Đông Dương gồm năm trường cao đẳng là:


  • Trường Cao đẳng Luật và Hành chính (trên cơ sở Trường Hậu bổ Hà Nội - Ecole d’Aministration de Hanoi - thành lập năm 1897).

  • Trường Cao đẳng Khoa học (gồm các ngành toán, vật lý, hoá học và sinh vật được thành lập trên cơ sở Ecole professionelle de Hanoi thành lập năm 1898).

  • Trường Cao đẳng Y khoa (trường Y Đông Dương - Ecole de Médecine de l’Indochine - thành lập năm 1902).

  • Trường Cao đẳng Xây dựng (trên cơ sở Trường Công chính - Ecole des Travaux Publics - thành lập năm 1902).

  • Trường Cao đẳng Văn chương (dạy các môn ngôn ngữ và văn học cổ phương Đông, lịch sử và địa lý các nước Viễn Đông, Pháp, lịch sử triết học và nghệ thuật...).

Đội ngũ giảng viên đều là người Pháp từ các cơ sở giáo dục đã có, từ Viện Viễn Đông Bác cổ và Đại học Pa-ri. Ngoài việc đào tạo người bản xứ, Đại học Đông Dương còn tiếp nhận nhiều sinh viên nước ngoài như Thái Lan và Trung Quốc, chứng tỏ uy tín của trường đã vượt ra khỏi phạm vi của bán đảo, trở thành một trung tâm giáo dục đào tạo được nhiều nước biết đến. Năm 1945, trường còn có gần 200 sinh viên người Pháp (181 sinh viên tại các khoa, 25 sinh viên tại các trường cao đẳng) theo học.

Số sinh viên trường đại học Hà Nội trong thời gian trên thay đổi như sau

1938-1939 : 457 người

1941-1942 : 834

1942-1943 : 1.050

1943-1944 : 1.575 người 10

Trong năm học 1943-1944, số sinh viên phân bổ các nước như sau:

Việt Nam : 837

Pháp : 346

Campuchia : 18

Lào : 12

Trung Quốc : 8

Nước khác : 1
Cho đến trước Thế chiến thứ II, Đại học Tổng hợp Đông Dương có tất cả 14 trường thành viên, trong đó sinh viên trường Y khoa và trường Luật tốt nghiệp được nhận Bằng tốt nghiệp Quốc gia, ngang với văn bằng của các trường đại học ở Pháp.

Vào giai đoạn phát triển nhất, Đại học Đông Dương có tổng số gần một ngàn sinh viên. Đội ngũ giảng viên thường trực bao gồm 25 giáo sư và 21 giáo viên thỉnh giảng.

Những trường nổi tiếng vừa nêu trên được thành lập là động thái thể hiện ý đồ của giới thực dân cầm quyền muốn đào tạo một lớp trí thức tay sai người bản xứ nhằm phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa được dễ dàng. Để chống đối thực dân Pháp trên phương diện giáo dục, năm 1934, nhóm trí thức Việt Nam gồm các ông Hoàng Minh Giám, Phan Thanh, Đặng Thai Mai, Đặng Vũ Xích, Phạm Hữu Ninh, Nguyễn Cao Luyện, Nguyễn Dương... thành lập "Hội mở mang nền tư thục" (Association Pour Le développement I’énseignement - A.D.E.L). Hội A.D.E.L tập hợp những người có thái độ ghét Tây và bọn xu thời... Trường tư thục Thăng Long ra đời trong hoàn cảnh đó để giáo dục tinh thần yêu nước, căm thù quân xâm lược và lũ bán nước cho thanh niên Việt Nam.

Năm 1935, khóa học đầu tiên của trường tư thục Thăng Long khai giảng trở thành một sự kiện vang động ở Hà Nội lúc bấy giờ. Phần vì quy tụ được nhiều trí thức có uy tín đến giảng dạy, phần vì quý mến tinh thần chống Pháp nên số học sinh từ nhiều địa phương trong cả nước về học tại trường lên đến hơn hai ngàn người.

Trường đã quy tụ được một đội ngũ đông đảo các trí thức yêu nước nổi tiếng đến giảng dạy như Phan Thanh, Nguyễn Bá Húc, Phan Mỹ, Khuất Duy Các, Lâm Đăng Dụ, Trương Đình Sửu, Vũ Bội Liên, Hoàng Như Tiếp, Vũ Như Trình... Trong số các giáo sư của trường, nhiều người sau này trở thành chính khách hay hay nhân sỹ, trí thức nổi tiếng như các ông: Võ Nguyên Giáp, Nghiêm Xuân Yêm, Nguyễn Xiển, Nguyễn Cao Luyện, Phan Anh, Nguyễn Lân, Vũ Đình Hoè, Xuân Diệu, Lê Thị Xuyến, cụ Phó bảng Bùi Kỉ …

Để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa, người Pháp cũng lập ra một số cơ sở nghiên cứu khoa học như Viện Vi trùng học (1900), Sở Thú y (1897), Nha Khí tượng (1898), Sở Địa lý (1899), Sở Kiểm lâm (1901) và Trường Viễn Đông Bác Cổ (1898)... hầu hết các viện nghiên cứu của Pháp lập ở Đông Dương đặt trụ sở tại Hà Nội.

Cũng trong mấy thập kỷ đầu thế kỷ 20, một số trung tâm lưu trữ, thư viện được mở ở Hà Nội.

Dù ý đồ của thực dân Pháp là nhằm đào tạo thanh thiếu niên, trí thức người Việt thành lực lượng phục vụ chế độ thuộc địa, tuy nhiên chương trình đào tạo mới và các cơ quan khoa học được thành lập ở Hà Nội lại có ý nghĩa như một cuộc cải cách giáo dục. Hầu hết những trí thức được đào tạo trong các ngôi trường này vốn sẵn có tinh thần yêu nước, khi được Đảng, cách mạng giáo dục, họ đã có nhiều đóng góp vô cùng quan trọng cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng Hà Nội.

Ngành y dược ở Hà Nội thời gian này cũng có nhiều thay đổi. Ngoài trường Y, Dược, Viện nghiên cứu y học, còn có một số bệnh viện (mà lúc đó gọi là nhà thương) được xây dựng trong thời gian này.

Bệnh viện đầu tiên là Nhà thương Đồn Thủy (1881) lập để cứu chữa thương binh Pháp và người Pháp (nay là Bệnh viện 108). Năm 1886 có một tu sĩ tình nguyện bỏ tiền lập nhà Phủ Doãn và đến 1894 trở thành bệnh viện đa khoa điều trị cho người Việt. Bệnh viện Xanh-pôn (1911) nhằm điều trị cho cha xứ và giáo dân; nhà thương Đau mắt (1916), nay là Bệnh viện Mắt Trung ương. Nhà thương Bạch Mai được lập năm 1929. Ngoài ra còn có nhà thương Hòe Nhai chuyên chữa cho bệnh nhân người Hoa.

Dù bệnh viện, các viện nghiên cứu vi trùng của Pháp nhằm trước hết điều trị cho Pháp kiều và quân đội viễn chinh, nhưng nó có tác động nhất định đến nền y học cổ truyền Việt Nam nói chung và tình hình khám chữa bệnh cho bệnh nhân Hà Nội nói riêng. Cùng với hệ thống bệnh viện mới, Hà Nội còn có hàng chục hiệu thuốc tây khá nổi tiếng.

Thuốc Tây, nhà thương Tây xuất hiện vào thời kỳ này và có khả năng điều trị một số căn bệnh nhanh chóng và từ đó thuốc tây cùng với thuốc nam được bệnh nhân ưa dùng.

Hà Nội nửa đầu thế kỷ 20 đã trở thành một trung tâm y học lớn nhất Việt Nam và Đông Dương.



Trung tâm giao thông

Ở Hà Nội, giao thông đường thủy, đường bộ và đường không khá phát triển. Cảng Phà Đen và hệ thống giao thông đường thủy từ Hà Nội nối lên các tỉnh phía Bắc, về Hải Phòng và từ đó vào Sài Gòn, nối với mạng lưới hải thương quốc tế. Hà Nội trở thành trung tâm giao thông với hệ thống đường bộ từ 4 hướng quy tụ về. Đường số 1 nối Bắc Nam, đường 6 lên vùng Tây Bắc, đường 5 xuống mạn Hải Phòng và tuyến đường lên Lạng Sơn, Việt Bắc… Hệ thống cầu phà mới đã khắc phục được trình trạng giao thông đường bộ trước đây bị chia cắt phân liệt vì hệ thống sông ngòi ở Việt Nam nhất là về mùa mưa lũ. Cầu Long Biên là một công trình lớn, thuộc loại hiện đại nhất thế giới ra đời vào đầu thế kỉ 20.

Trong nội phố, hệ thống tàu điện từ Bờ Hồ nối về mạn Hà Đông, Bưởi, chợ Mơ… Hệ thống đường sắt được xây dựng với ga Hàng Cỏ (1902) là trung tâm của hệ thống đường sắt xuyên Việt, nối Hà Nội về phía Đông, phía Nam và phía Bắc.

Hà Nội có 2 sân bay là Gia Lâm và Bạch Mai (1919). Sân bay Gia Lâm vào loại lớn trong vùng Đông Nam Á, xây dựng trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đạt những tiêu chuẩn quốc tế lúc đó.

Các loại phương tiện giao thông ở Hà Nội cũng phát triển và hiện đại hóa. Nếu trước có ba phương tiện giao thông chủ yếu là thuyền (thuyền buồm và thuyền gỗ chèo tay), xe ngựa, xe kéo… thì mấy thập kỷ đầu thế kỷ 20 đã có thêm nhiều phương tiện giao thông có tốc độ cao và đi xa hơn. Đó là máy bay, tàu thủy, tàu hỏa, ô tô, xe đạp, xích lô, tàu điện…

Hệ thống và phương tiện giao thông mới đã tạo điều kiện cho khách hàng đi lại nhanh, nhiều và xa hơn. Khách, hàng hóa di chuyển từ Hà Nội tới các vùng khác và ngược lại cũng thuận lợi, dễ dàng hơn trước rất nhiều.

Hệ thống thông tin hiện đại gồm bưu điện, điện thoại, điện tín, đài phát thanh, ra-đi-ô, liên lạc vô tuyến… chuyển đạt thông tin hai chiều từ Hà Nội đi các nơi và ngược lại khiến tin tức được cập nhật và phát tán nhanh. Qua kênh thông tin này, những tin tức về chính trị, xã hội, kinh tế, quân sự (chiến tranh Pháp-Nhật, Nhật đầu hàng đồng minh, khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ v.v.) được loan báo về Hà Nội kịp thời và chính xác.

Trung tâm kinh tế xứ Bắc Kỳ

Dù toàn bộ nền kinh tế xứ Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng dưới thời Pháp thuộc là nền kinh tế nông nghiệp, tự cung tự cấp, nhưng mặt khác nó đã có những biến động nhất định.

Tại vùng Bắc Kỳ, sau mấy thập kỷ cai trị, ba trung tâm kinh tế lớn đã ra đời, đó là Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định. Ba thành phố này tạo nên tam giác kinh tế trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở các tỉnh thuộc phía Bắc Việt Nam.

Đỉnh phía Bắc tam giác là Hà Nội có vị trí là thành phố thương mại và công nghiệp nhẹ. Hải Phòng-đỉnh phía Đông, là thành phố cảng luân chuyển hàng hai chiều từ ngoài vào và từ trong ra và đỉnh phía Nam - thành phố Nam Định có vị trí thành phố công nghiệp, khai thác nguồn tơ sợi trong toàn vùng Bắc Kỳ.

Về mặt kinh tế, thực dân Pháp đã biến Hà Nội thành một thành phố thuộc địa thương mại, một trung tâm tiêu thụ hàng công nghệ và thu vét nông lâm hải sản ở miền Bắc. Thực dân Pháp đã xây dựng, khai thác Hà Nội theo hướng kìm hãm công nghiệp thuộc địa, nắm chặt các nguồn hàng xuất nhập khẩu để giữ độc quyền khai thác bóc lột. Các công ty thương mại của tư bản tư nhân Pháp tổ chức nhiều cửa hàng bán buôn bán lẻ. Công nghiệp sản xuất hiện đại ở Hà Nội trong tình hình nói trên hầu như không đáng kể. Nhà máy điện đèn, với công suất 15.000kW, thuộc công ty điện khí Đông Dương do chính quyền thực dân và tư bản tư nhân Pháp hùn vốn, là nhà máy quan trọng bậc nhất cung cấp điện cho hệ thống cai trị và sinh hoạt của kiều dân Pháp. Loại quan trọng thứ hai là một số nhà máy sửa chữa nhỏ về cơ khí thuộc ngành giao thông vận tải dân dụng và quân sự. Ngoài số xí nghiệp trên đây còn có các xí nghiệp xây dựng sửa chữa nhà cửa, cầu cống và công nghiệp nhẹ như giao thông, rượu, bia, nước đá, thuộc da, diêm, gạch ngói, in, may mặc, giặt là, xe kéo, pha chế dược phẩm…

Trung tâm buôn bán của Hà Nội vẫn là khu vực 36 phố phường. Tại đây hàng các nơi đổ về và được bày bán dưới hình thức bán buôn, bán lẻ. Việc kinh doanh tuy có lúc thịnh suy, nhưng nói chung mặt hàng đa dạng phong phú hơn thời kỳ tiền thuộc địa. Ngoài các điểm kinh doanh nằm trong hộ gia đình và các khu chợ cũ (Bưởi, Hàng Đào…), một số điểm buôn bán tập trung theo kiểu thị trường châu Âu đã ra đời như trung tâm chợ Đồng Xuân, Hàng Da, Tràng Tiền... Rất nhiều hộ tiểu thương ở các tỉnh kế cận Hà Nội đã về mua đất, tậu nhà để buôn bán trong và quanh khu vực 36 phố phường cũ. Nhiều mặt hàng sản xuất tại Hà Nội đã được tham dự triển lãm tại các kỳ hội chợ quốc tế do Pháp tổ chức.

Ngành công nghiệp Hà Nội tuy chưa phát triển và được xây dựng nhằm trước hết phục vụ chính sách cai trị của Pháp nhưng đã có bước phát triển đáng kể. Một số cơ sở sản xuất công nghiệp ra đời. Các xí nghiệp rượu cồn do các công ty vô danh của Pháp đầu tư xây dựng sớm nhất.

Năm 1898, Hãng rượu Fontaine của Pháp đã xây dựng Nhà máy rượu Hà Nội (nay ở 94 Lò Đúc). Nhà máy này là một trong bốn nhà máy rượu đã xây dựng tại Đông Dương và có quy mô lớn nhất.

Từ đó Pháp thay thế nguời Hoa nắm độc quyền sản xuất và tiêu thụ rượu ở Việt Nam. Nhà máy rượu Hà Nội lúc đó hàng năm sản xuất ra một lượng rượu khổng lồ, tiêu thụ khắp trong Nam ngoài Bắc, thậm chí cả xuất khẩu. Chính phủ Pháp luôn dành sự ưu đãi đối với nhà máy rượu Hà Nội.

Bên cạnh nhà máy rượu, các công ty tư bản Pháp còn mở nhà máy sản xuất bia (nay là Nhà máy bia Hà Nội). Rượu bia được thực dân Pháp khai thác như mặt hàng tiên phong nhằm phục vụ người Pháp và bán cho người bản xứ bằng cách qui định mỗi dân đinh phải mua uống theo đầu người. Thực dân Pháp hưởng món lợi rất từ lớn độc quyền ngành rượu bia.

Tại Hoàn Long, theo báo cáo của các tri phủ, tri huyện Hà Đông “Về việc bán rượu ty năm 1925, 1926”, thì mỗi dân đinh ở đây phải mua 6,55 lít rượu/tháng (vào tháng 1-1926)11.

Các công ty của Pháp còn xây dựng một số nhà máy sửa chữa nhỏ về cơ khí thuộc ngành giao thông vận tải dân dụng và quân sự. Ngoài số xí nghiệp trên đây là các xí nghiệp xây dựng sửa chữa nhà cửa, cầu cống và công nghiệp nhẹ như công chính lục lộ, nước đá, thuộc da (Thụy Khê), diêm (nhà máy Diêm Hà Nội), gạch ngói, in (Viễn Đông IDEO), giấy (nhà máy giấy Cáp-pha), may mặc, giặt là, xe kéo, pha chế dược phẩm… cùng nhiều cơ sở sản xuất nhỏ nửa cơ khí nửa thủ công thuộc ngành in, mộc, thủy tinh, thêu dệt, đồ gốm, chế biến thực phẩm… Các cơ sở sản xuất công nghiệp quy mô lớn có nhà máy sửa chữa xe lửa Gia Lâm (1905), xưởng sửa chữa A-vi-a (Avia)…

Những cơ sở sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp thời Pháp tuy chưa nhiều nhưng bước đầu, kinh tế khu vực này đã có chiều hướng công nghiệp hóa nhất định dù thực dân Pháp không muốn thúc đẩy tiến trình này phát triển. Với kỹ thuật, phương tiện và quy mô sản xuất mới (có cơ sở đến 1.000 công nhân) nên lực lượng lao động công nghiệp tập trung hơn thời kỳ trước.

Trước khi Pháp chiếm Hà Nội, nhà Nguyễn dời đô vào Huế, vùng đất kinh kỳ Thăng Long trở thành “cố đô”, vị trí của nó không còn được như trước. Hà Nội lúc này chủ yếu đóng vai trò là trung tâm kinh tế, văn hóa của vùng châu thổ sông Hồng.

Nhận thức được vị trí quan trọng của Hà Nội, sau khi chiếm xong Đông Dương, thực dân Pháp đã nhanh chóng xây dựng nơi đây thành thủ phủ của Việt Nam và của cả xứ Đông Dương. Sự khai thác toàn vùng nói chung và Hà Nội nói riêng trong mấy thập kỷ cai trị đầu tiên của thực dân Pháp đã làm cho diện mạo Hà Nội biến đổi nhanh chóng. Từ một đô thị cổ mang dáng dấp phương Đông, Thăng Long đã biến thành thành phố hiện đại kiểu phương Tây. Hà Nội đã có cơ sở hạ tầng mới và một tầm vóc mới: thủ phủ của Đông Dương, thuộc Pháp.

Dù thành phố được xây dựng nhằm phục vụ lợi ích của thực dân Pháp, nhưng mặt khác, qua 3-4 thập kỷ phát triển, Hà Nội từ một địa bàn còn khá khu biệt, đã bắt đầu phát triển ngành công nghiệp sơ khai, bước đầu hội nhập, giao lưu với khu vực và phương Tây. Những thay đổi trên đã tác động mạnh mẽ đến tình hình chính trị, xã hội ở Hà Nội.



1 Đến năm 1935, Hà Nội có tất cả khoảng 175 ô phố được tính từ ô số 1 đến 175.

2 Theo thống kê của thực dân Pháp năm 1943.

3 Có tài liệu cho rằng Hà Nội thời gian này có 30 xã thuộc Đại lý Hoàn Long, có tài liệu cho rằng Hà Nội có 60 xã ngoại thành.

4 Hiện nay trong khu di tích nhà tù Hỏa Lò còn lưu giữ chiếc máy chém Pháp từng chuyển lên Yên Bái để hành hình 13 nghĩa quân trong khởi nghĩa Yên Bái năm 1930.

5 Chương trình phát triển kinh tế 5 năm, số 1/c ngày 1-1-1939 của Công sứ Sơn Tây, dẫn lại theo BCH Đảng bộ Đảng Lao động Việt Nam tỉnh Hà Tây, Sơ thảo lịch sử Cách mạng Tháng Tám Hà Đông – Sơn Tây (1939-1945), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng xuất bản, 1967, tr.198.

6 Đền Chử Đồng Tử ở huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên, cách Hà Nội hơn 20km theo đê sông Hồng;  Đền Thánh Gióng hay Đền Sóc, xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, nơi thờ Thánh Gióng và quần thể các đền thờ Phật, cùng một số vị thần khác. Đền Sóc gắn liền với sự tích làng Gióng (xã Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội);  Tản Viên Sơn Thánh thờ Sơn Tinh, vị đứng đầu “Thượng đẳng tối linh thần”, là một anh hùng văn hóa trong tư duy người Việt cổ. Mặc dù đền thờ thuộc huyện Ba Vì (Hà Tây cũ), nhưng trong hệ thống tâm linh, tôn giáo tín ngưỡng của người Thăng Long - Hà Nội vẫn luôn coi đó là một vị thần của họ; đền Công Chúa Liễu Hạnh, gắn liền với tín ngưỡng dân gian nổi tiếng là hiện tượng Đạo mẫu và tục lên đồng ở nhiều địa phương thuộc đồng bằng Bắc Bộ, phủ thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Tây Hồ;  Đền thờ An Dương VươngLoa Thành (xã Cổ Loa, Đông Anh, ngoại thành Hà Nội). Di tích này có ý nghĩa như một điểm nhấn quan trọng bậc nhất tạo thành “không gian thiêng” của người Thăng Long - Hà Nội.

7 Tờ Thực nghiệp dân báo ra đời năm 1920. Trong những năm 1920-1923, báo hầu như chỉ nói về kinh tế, đăng những bài về kỹ thuật trồng trọt và kỹ thuật tiểu công nghiệp. Sau báo hô hào mọi người đi vào con đường “thực nghiệp”, phê phán tư tưởng “trọng văn khinh nghiệp”, phản ánh tình hình “đói khát về công nghiệp của giai cấp tư sản”. Trong những năm 1925-1926, báo đã chú ý nhiều đến những vấn đề chính trị, đặc biệt là đăng những tin tức về phong trào đòi ân xá Phan Bội Châu và để tang Phan Châu Trinh. Tờ Khai hoá Nhật báo của Bạch Thái Bưởi cũng phản ánh tiếng nói của giới tư sản Bắc Kỳ đang lên. Từ giữa năm 1925, Khai hoá đề cập trực tiếp hơn đến những vấn đề kinh tế và chính trị. Xét về thái độ đối với Pháp, Khai hoá có phần yếu hơn Thực nghiệp dân báo.

Một số tờ báo ra đời trong quãng thời gian này như Đại Việt quan báo, Đại Nam Đồng văn Nhật báo (1893), Đăng cổ tùng báo (1907), Đông Dương tạp chí (1913), Trung Bắc Tân văn, Nam Phong tạp chí (1917)… Sau chiến tranh thế giới lần thứ I, nhiều tờ báo mới ra đời như Thực Nghiệp dân báo (1920-1933), Hữu Thanh tạp chí (1923-1924), Khai Hoá Nhật báo (1921- 1927), Nông Công Thương báo (1923-1933), Hà Thành Ngọ báo (1927-1936), An Nam tạp chí, Hà Nội Tân văn... Từ đầu thế kỷ 20 đã xuất hiện ngày càng nhiều những tờ báo có tinh thần dân tộc và chống Pháp: Thanh niên (1925-1930), Búa Liềm (1929), Lao Động (1929), Cờ Đỏ (1930).



8 Trần Huy Liệu (cb), Lịch sử thủ đô Hà Nội, NXB Lao Động, Hà Nội, 2009, tr. 213.

9 Trường Bưởi là cái tên mà các học sinh đặt để thể hiện tinh thần phản kháng lại người Pháp, không dùng tên do Pháp đặt

10 Trần Huy Liệu (cb), Lịch sử Thủ đô Hà Nội, sđd, tr. 209.

11 Báo cáo về việc bán rượu ty năm 1925, 1926 của các tri phủ, tri huyện Hà Đông, dẫn lại theo Ban chấp hành Đảng bộ Đảng Lao động Việt Nam tỉnh Hà Tây, Sơ thảo lịch sử Cách mạng Tháng Tám Hà Đông – Sơn Tây (1939-1945), sđd, tr. 17.





tải về 141.87 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương