ChuyêN ĐỀ II một số VẤN ĐỀ VỀ CÔng tác xây dựng đẢng và CÔng tác cán bộ hiện nay


Việc thực hiện các khâu của công tác cán bộ



tải về 298.26 Kb.
trang4/4
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích298.26 Kb.
#442
1   2   3   4

3. Việc thực hiện các khâu của công tác cán bộ

3.1. Về đánh giá cán bộ:

Đánh giá cán bộ là khâu tiền đề rất quan trọng, có liên quan đến tất cả các khâu của công tác cán bộ. Chỉ có đánh giá đúng cán bộ mới làm cơ sở cho việc tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệmvà thực hiện chế độ, chính sách cán bộ.

- Để thực hiện Chiến lược cán bộ, Bộ Chính trị (khoá IX) đã ban hành Quy chế đánh giá cán bộ (Quy chế 50-QĐ/TW ngày 03/5/2002); Ban Tổ chức Trung ương đã ban hành Danh mục chức danh gốc và tiêu chuẩn chung một số chức danh cán bộ công chức cơ quan Đảng, đoàn thể (Quyết định 450-QĐ/TCTW ngày 22/12/1998).

- Căn cứ vào quy định, hướng dẫn của Trung ương, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng đã cụ thể hoá tiêu chuẩn đối với từng loại cán bộ, xây dựng được tiêu chuẩn chức danh cán bộ cho ngành, địa phương, đơn vị để làm cơ sở đánh giá cán bộ. Việc đánh giá cán bộ đã thực hiện theo quy trình, quy chế, công khai, bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Diện lấy thông tin về cán bộ mở rộng hơn, một số nơi có cơ chế để nhân dân tham gia nhận xét, đánh giá cán bộ nên việc đánh giá cán bộ có hiệu quả, thực chất hơn.

Tuy nhiên, đánh giá cán bộ vẫn là khâu khó và yếu nhất hiện nay, khó nhất là đánh giá cái “tâm”, cái “tầm” và bản lĩnh chính trị của cán bộ. Đánh giá cán bộ vẫn còn hình thức, chưa phản ánh đúng được thực chất cán bộ; chưa lấy hiệu quả công việc là thức đo chủ yếu để đánh giá cán bộ; còn cảm tính, xuê xoa, chiếu lệ. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan tham mưu về công tác tổ chức cán bộ nắm không chắc cán bộ, không hiểu sâu các mối quan hệ của bản thân, gia đình cán bộ, dẫn đến nhận xét, đánh giá cán bộ chưa khách quan, chính xác.

Những yếu kém trên có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là việc quản lý và nắm cán bộ chưa chắc, chưa sâu; tinh thần tự phê bình và phê bình kém, tính chiến đấu chưa cao. Một số nơi còn có biểu hiện lệch lạc, thiếu công tâm, khách quan, trong đánh giá cán bộ; nội bộ mất đoàn kết, cục bộ, gia trưởng, xen động cơ cá nhân trong đánh giá cán bộ.

3.2. Về quy hoạch cán bộ:

- Trong quá trình thực hiện Chiến lược cán bộ, Bộ Chính trị (khoá IX) đã có Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004 về “Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”; Ban Chấp hành Trung ương (khoá X) có Kết luận số 37-KL/TW ngày 02/02/2009 về “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020”; Bộ Chính trị (khoá XI) có Kết luận số 24-KL/TW ngày 05/6/2012 về “Đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo”.

- Để thực hiện các nghị quyết, kết luận của Trung ương và Bộ Chính trị, Ban Tổ chức Trung ương đã có Hướng dẫn số 17-HD/BTCTW ngày 23/4/2003, Hướng dẫn số 47-HD/BTCTW ngày 24/5/2005, Hướng dẫn số 50-HD/BTCTW ngày 06/7/2005 về “Công tác Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” và Hướng dẫn số 15-HD/BTCTW ngày 05/11/2012 về “Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý theo tinh thần Nghị quyết 42-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá IX) và Kết luận số 24-KL/TW của Bộ Chính trị (khoá XI)”.

- Thực hiện sự chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, công tác quy hoạch cán bộ đã đi dần vào nền nếp và đạt một số kết quả quan trọng: Nguồn quy hoạch cho các chức danh lãnh đạo, quản lý khá dồi dào; trình độ đào tạo, cơ cấu ngành nghề, tỷ lệ cán bộ nữc, trẻ, cán bộ người dân tộc ít người có bước tiến bộ. Công tác quy hoạch cán bộ đã cơ bản bảo đảm sự đồng bộ từ dưới lên, mỗi chức danh quy hoạch từ 2 - 3 người và một người có thể quy hoạch vào một số chức danh; lấy quy hoạch cấp ủy làm cơ sở để quy hoạch cán bộ lãnh đạo đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể; số lượng cán bộ được quy hoạch bình quân đạt từ 1,5 - 2 lần so với số lượng cần bổ nhiệm, bầu cử.

- Đến nay, cả nước có trên 110.000 lượt cán bộ được quy hoạch cho các chức danh lãnh đạo, quản lý. Trong đó: trên 1.100 cán bộ quy hoạch cho các chức danh diện Trung ương quản lý; trên 16.500 lượt cán bộ quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý ở các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương; trên 11.200 lượt cán bộ quy hoạch các chức danh lãnh đạo, chỉ huy trong quân đội; trên 17.700 lượt cán bộ quy hoạch các chức danh lãnh đạo, chỉ huy trong công an; gần 7.000 lượt cán bộ quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý diện ban thường vụ tỉnh, thành ủy quản lý; trên 56.000 lượt cán bộ quy hoạch các chức danh ở cấp huyện và trên 750 lượt cán bộ quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý trong các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.

- Kết quả bầu cử, bổ nhiệm thời gian qua cho thấy: trên 95% cấp ủy viên, gần 100% ủy viên ban thường vụ cấp ủy (nhiệm kỳ 2010 - 2015) và cán bộ chủ chốt HĐND, UBND cấp tỉnh, cấp huyện (nhiệm kỳ 2011- 2016) và hầu hết cán bộ được bổ nhiệm các chức danh thuộc Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý đều là cán bộ trong quy hoạch.



Tuy nhiên, mặt yếu kém trong công tác quy hoạch cán bộ :

- Việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ chưa có tầm nhìn xa; còn phổ biến tình trạng khép kín trong từng ngành, từng địa phương; chưa bảo đảm sự liên thông giữa quy hoạch của cấp dưới với quy hoạch của cấp trên, giữa Trung ương và địa phương, giữa các bộ, ngành, các lĩnh vực công tác; chưa bảo đảm cơ cấu 3 độ tuổi trong quy hoạch cán bộ. Chậm quy hoạch cán bộ cấp chiến lược; mới tập trung quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, chưa quan tâm chú ý đến quy hoạch cán bộ các lĩnh vực khác…

- Chất lượng quy hoạch cán bộ chưa cao; tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc, cán bộ xuất thân từ công nhân chưa đạt yêu cầu. Công tác quy hoạch ở một số bộ, ngành, địa phương còn chung chung, hình thức, thiếu tính khả thi; chưa gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ. Do đó, một số nơi vẫn còn hẫng hụt, bị động, lúng túng về cán bộ; có nơi vừa mới quy hoạch nhưng khi chuyển sang làm công tác nhân sự cụ thể thì vẫn khó khăn, không chọn được cán bộ.

3.3. Về luân chuyển cán bộ:

- Trong quá trình thực hiện Chiến lược cán bộ, Bộ Chính trị khoá IX đã có Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 25/01/2002 về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý; Bộ Chính trị khoá X có Kết luận số 127-KL/TW ngày 02/01/2008 về đẩy mạnh công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý và cho chủ trương tăng thêm một số chức danh lãnh đạo cấp ủy, chính quyền đối với một số tỉnh, thành phố và một số đơn vị cấp huyện để vừa tăng cường cán bộ lãnh đạo, quản lý, vừa để đào tạo, rèn luyện cho đội ngũ cán bộ trong hoạt động thực tiễn.

- Đến nay, cả nước có trên 42.000 lượt cán bộ lãnh đạo, quản lý được luân chuyển, trong đó: Trung ương luân chuyển 65 đồng chí về làm cán bộ chủ chốt ở các địa phương; cấp tỉnh có gần 3.900 lượt cán bộ, cấp huyện có hơn 15.000 lượt cán bộ; các bộ, ngành trung ương có hơn 19.000 lượt cán bộ và gần 1.000 lượt cán bộ trong các tập đoàn, tổng công ty nhà nước được luân chuyển; quân đội luân chuyển 23% cán bộ quy hoạch cấp sư đoàn và tương đương, 13% cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược; công an luân chuyển 14% số cán bộ nguồn từ cấp phường trở lên.

- Công tác luân chuyển cán bộ những năm qua đã góp phần đào tạo, rèn luyện, thử thách cán bộ qua thực tiễn và tăng cường thêm cán bộ cho những nơi có khó khăn; khắc phục một bước xu hướng cục bộ, khép kín, trì trệ của đội ngũ cán bộ. Kết quả luân chuyển cán bộ từ Trung ương và địa phương trong hai nhiệm kỳ Đại hội IX và X đã góp phần đào tạo được nhiều cán bộ; nhiều đồng chí đã được bầu vào BCH Trung ương khoá X, khoá XI, được bầu làm bí thư tỉnh ủy hoặc giữ cương vị chủ chốt ở các ban, bộ, ngành Trung ương và cơ quan của Quốc hội.

- Trong quá trình thực hiện luân chuyển cán bộ, Bộ Chính trị khoá IX đã chỉ đạo thực hiện thí điểm chủ trương luân chuyển, bố trí 06 chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý tỉnh Hà Tây (cũ) gồm: bí thư tỉnh ủy, chủ tịch UBND tỉnh, giám đốc công an, sở kế hoạch đầu tư, sở tài chính và viện trưởng viện kiểm sát nhân dân không phải người địa phương. Tiếp theo đó, nhiều tỉnh, thành phố khác đã triển khai thực hiện ở cả cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã; Quân đội đã bố trí 36% chỉ huy trưởng quân sự và biên phòng tỉnh, thành phố không phải người địa phương; đảng ủy Công an Trung ương đã bố trí 20/63 giám đốc công an tỉnh thành phố và 67% trưởng công an cấp huyện không phải người địa phương; v.v.

- Ngoài ra, đã thực hiện chủ trương đưa cán bộ, sỹ quan biên phòng về tăng cường cho các xã biên giới và làm bí thư, phó bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch, trưởng phó công an xã; đưa sinh viên tốt nghiệp đại học về làm phó chủ tịch UBND ở các xã của 61 huyện nghèo, bước đầu đã có tác dụng tốt.



Tuy nhiên, mặt hạn chế, khuyết điểm nổi lên là:

- Nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác luân chuyển cán bộ của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa đầy đủ, sâu sắc; việc thực hiện còn chậm và chưa đồng đều giữa các cấp, các ngành. Việc luân chuyển cán bộ còn khép kín, còn tình trạng nơi thừa, nơi thiếu cán bộ.

- Công tác luân chuyển cán bộ ở một số nơi chưa dựa trên cơ sở đánh giá và quy hoạch cán bộ; còn nhầm lẫn giữa luân chuyển để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ với điều động bố trí cán bộ theo yêu cầu; một số trường hợp luân chuyển không rõ ý định, hướng bố trí sau luân chuyển. Một số nơi, một số ít cán bộ có biểu hiện lệch lạc, lợi dung luân chuyển để “dán tem” hoặc đẩy cán bộ “không ăn cánh với mình” đi nơi khác.

- Việc lựa chọn địa bàn, chức danh luân chuyển có một số trường hợp còn bất hợp lý, trái ngành, trái nghề, làm hạn chế sự đóng góp của cán bộ luân chuyển. Một số ít cán bộ luân chuyển chậm tiếp cận với công việc, cá biệt có trường hợp còn chọn địa bàn, vị trí sau luân chuyển. Chủ trương luân chuyển, bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo không phải người địa phương ít được thực hiện do chưa có quy định cụ thể.



3.4. Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ:

- Từ khi Trung ương ban hành Chiến lược cán bộ đến nay, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có nhiều quyết định, chỉ thị, kết luận về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ như: Quy định chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng; việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước (Đề án 165); thành lập trường chính trị tỉnh, thành phố và trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện; kiện toàn tổ chức, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của Học viện CTQG Hồ Chí Minh…

- Hơn 10 năm qua, các cấp ủy địa phương đã tập trung chỉ đạo xây dựng trường chính trị tỉnh và trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện; phối hợp với Ban Tỏ chức Trung ương, Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ trong dào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp về lý luận chính trị, kiến thức quản lý nhà nước và quốc phòng - an ninh; phối hợp vơí các trường đại học trong và ngoài nước mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng các chuyên ngành về quản lý kinh tế, xã hội, ngoại ngữ…

- Đến nay, nội dung đào tạo bồi dưỡng từng bước được đổi mới; cơ sở vật chất của các cơ sở đào tạo được tăng cường; 98% cán bộ chủ chốt cấp huyện và sở ngành cấp tỉnh có trình độ lý luận chính trị cao cấp và 95% có trình độ đại học; 100% cán bộ được quy hoạch vào cấp ủy tỉnh có trình độ đại học trở lên và 95% có trình độ lý luận chính trị cao cấp.



Tuy nhiên, công tác nghiên cứu, dự báo nhu cầu đào tạo chưa gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và còn thiếu tầm chiến lược. Hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa đồng bộ, cồng kềnh, phân tán; công tác quản lý đào tạo thiếu thống nhất; chưa cân đối giữa đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị với chuyên môn, nghiệp vụ và quản lý nhà nước; trong đào tạo chuyên môn cũng mất cân đối giữa các ngành nghề và lĩnh vực công tác…

II. MỘT SỐ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020

1. Tình hình đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ hiện nay

1.1. Nghị quyết TW3, khoá VIII (1997) đã chỉ ra những khuyết điểm của đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ, nhưng sau 10 năm, Hội nghị TW9, khoá X (2009) vẫn chỉ ra 03 khuyết điểm của đội ngũ cán bộ như sau:

(1). Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, quan liêu, tham nhũng, lãng phí… trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn, xử lý kịp thời. Một số ít cán bộ có biểu hiện bất mãn, suy giảm niềm tin, nói và làm trái quan điểm, đường lối của Đảng, vi phạm pháp luật gây ảnh hưởng xấu trong xã hội.

(2). Chất lượng đội ngũ cán bộ vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới. Từ nhận thức đến tổ chức thực hiện và bản lĩnh hội nhập, xử lý những tình huống phát sinh còn lúng túng.

(3). Cơ cấu đội ngũ cán bộ vẫn mất cân đối, thiếu đồng bộ, chưa hợp lý. Cơ cấu theo ngành nghề, địa bàn, lĩnh vực; tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân công nhân chưa đạt yêu cầu. Việc chuyển tiếp giữa các thế hệ cán bộ lãnh đạo chưa được chuẩn bị chu đáo.

Như vậy, sau 10 năm thực hiện Chiến lược cán bộ thì chất lượng, số lượng và cơ cấu của đội ngũ cán bộ vẫn chưa ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

1.2. Đến Hội nghị TW4 - khoá XI (01/2012),Trung ương tiếp tục chỉ ra 3 khuyết điểm của đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ là:

(1). Trong thực tế có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, thể hiện ở chỗ: phai nhạt lý tưởng, không kiên định con đường XHCN, dao động, thiếu niềm tin; xa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh, thậm chí còn phụ hoạ với những quan điểm sai trái; sống ích kỷ, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm; tình trạng bè phái, cục bộ, mất đoàn kết và phong cách quan liêu, xa dân, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc của dân. Tình hình đó đã làm sói mòn và suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, tác động tiêu cực đến uy tín, sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng.

(2). Việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có đủ phẩm chất, năng lực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là cấp ở Trung ương chưa được chỉ đạo và xây dựng một cách cơ bản nên dẫn đến tình trạng hẫng hụt, chắp vá, không đồng bộ. Một số trường hợp đánh giá cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, không đúng với năng lực, sở trường của cán bộ, đã ảnh hưởng lớn đến uy tín của Đảng, sự phát triển của ngành, địa phương.

(3). Việc chấp hành các nguyên tắc tổ chức của Đảng không được chặt chẽ và còn bị vi phạm, đã dẫn đến tình trạng không rõ ràng, rành mạch về thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị. Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” nhiều nơi rơi vào hình thức do không xác định rõ trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân; khi có khuyết điểm thì đổ lỗi cho tập thể, không ai chịu trách nhiệm.

2. Một số nhiệm vụ lớn về công tác cán bộ từ nay đến năm 2020

Để tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) về xây dựng Đảng, công tác cán bộ từ nay đến 2020, cần thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp lớn sau đây:



2.1. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác cán bộ. Trong đó, tập trung thực hiện tốt một số nội dung sau:

(1). Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ.

(2). Bổ sung, hoàn thiện hệ thống các quy định, quy chế về sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của các tổ chức thành viên khác trong hệ thống chính trị. Tiếp tục cải tiến quy trình công tác nhân sự của Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.

(3). Mở rộng và phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, bảo đảm khách quan, công tâm, công khai, minh bạch.

2.2. Tiếp tục đổi mới công tác đánh giá cán bộ. Cụ thể là:

(1). Phải xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ và tiêu chí đánh giá cụ thể đối với từng chức danh, từng đối tượng cán bộ phù hợp với thời kỳ mới;

(2). Bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, mimh bạch, khách quan, toàn diện;

(3). Lấy chất lượng, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ được giao làm thước đo chính để đánh giá phẩm chất, năng lực của cán bộ;

(4). Phát huy trách nhiệm của người đứng đầu trong đánh giá cán bộ.

2.3. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ.

Ban Tổ chức Trung ương đã có Hướng dẫn số 15-HD/BTCTW về Quy hoạch cán bộ lãnh đạo và quản lý. Trong đó, cần chú ý 09 nội dung sau:

(1). Quy hoạch cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị và thực tế đội ngũ cán bộ; phải bảo đảm sự liên thông của cả đội ngũ cán bộ.

(2). Phải đánh giá đúng cán bộ trước khi đưa vào quy hoạch;

(3). Quy hoạch cán bộ phải bảo đảm phương châm “động” và “mở”.

(4). Phân biệt và làm rõ giữa quy hoạch cán bộ và bố trí nhân sự.

(5). Đối với cán bộ đương chức, chỉ quy hoạch vào các chức vụ cao hơn;

(6). Số lượng cán bộ đưa vào quy hoạch phải bảo đảm 1,5 đến 2 lần; mỗi chức danh quy hoạch 2-3 người; không quy hoạch 1 người cho 1 chức danh.

(7). Phải bảo đảm về độ tuổi và cơ cấu, đó là: Bảo đảm 03 độ tuổi trong quy hoạch và gian cách các độ tuổi là 5 năm; bảo đảm tỷ lệ nữ trong quy hoạch không dưới 15%. Nếu không bảo đảm cơ cấu thì cấp trên không phê duyệt hoặc bổ sung cán bộ từ nơi khác vào quy hoạch.

(8). Thực hiện công khai trong công tác quy hoạch (công khai về tiêu chuẩn, số lượng và danh sách cán bộ quy hoạch đã được cấp trên phê duyệt).

(9). Thực hiện Quy hoạch cán bộ cấp chiến lược nhiệm kỳ 2016-2020 và các nhiệm kỳ tiếp theo.



2.4. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện luân chuyển cán bộ. Cụ thể là:

(1). Kết hợp việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý từ Trung ương về địa phương, địa phương lên Trung ương với luân chuyển cán bộ giữa các địa phương; giữa cơ quan Đảng, đoàn thể với cơ quan Nhà nước và ngược lại.

(2). Xây dựng cơ chế và thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ cấp tỉnh, cấp huyện không phải người địa phương. Phấn đấu đến 2015, trên 25% tỉnh, thành phố và trên 50% quận, huyện được thực hiện.

(3). Kết hợp thực hiện cơ chế thực tập, tập sự lãnh đạo, quản lý với luân chuyển cán bộ để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.



2.5. Tạo chuyển biến sâu sắc về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Cụ thể là:

(1). Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải theo quy hoạch và theo tiêu chuẩn chức danh cán bộ. Đẩy mạnh bồi dưỡng và cập nhật kiến thức mới cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, kể cả ủy viên Bộ chính trị, Ban Bí thư.

(2). Củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng về mọi mặt của hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Huy động mọi nguồn lực và tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước cho việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cả trong và ngoài nước; cả trong và ngoài khu vực kinh tế nhà nước.

(3). Sớm xây dựng chương trình quốc gia về đạo tạo, bồi dưỡng cán bộ; chiến lược quốc gia về nhân tài để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.



2.6. Đổi mới công tác tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ. Cụ thể là:

(1). Tiếp tục hoàn thiện chế độ bầu cử;cải tiến cách thức tuyển chọn, lấy phiếu tín nhiệm, bổ nhiệm cán bộ để chọn đúng người, bố trí đúng việc. Mở rộng quyền đề cử, ứng cử và giới thiệu nhiều nhân sự để lựa chọn.

(2). Thực hiện nghiêm quy chế cho thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Kịp thời thay thế những cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, để việc “có lên, có xuống, có vào, có ra” được thực hiện bình thường trong bố trí, sử dụng cán bộ.

(3). Xây dựng cơ chế để đảng viên, nhân dân tham gia giám sát cán bộ và công tác cán bộ. Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, chạy huân chương.

(4). Thực hiện nghiêm Quy chế chất vấn trong Đảng. Đổi mới cách lấy phiếu tín nhiệm để đánh giá, nhận xét cán bộ theo hướng mở rộng đối tượng tham gia. Quy định việc lấy phiếu tín nhiệm hàng năm đối với các chức danh lãnh đạo trong cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể.

(5). Những người không đủ năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, tín nhiệm thấp cần sắp xếp cho phù hợp; có cơ chế để kịp thời thay thế, không phải chờ đến hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác.



(6). Thí điểm giao quyền cho bí thư cấp ủy lựa chọn, giới thiệu để bầu cử ủy viên thường vụ cấp ủy; cấp trưởng có trách nhiệm lựa chọn, giới thiệu để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó./.



tải về 298.26 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương