Châu Phi Nguồn: Wikipedia org Châu Phi hay Phi Châu



tải về 270.26 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu19.08.2016
Kích270.26 Kb.
#22984
Châu Phi

Nguồn: Wikipedia.org

Châu Phi (hay Phi Châu) là châu lục đứng thứ ba trên thế giới về dân số, sau châu Á và Châu Mỹ, và lớn thứ ba trên thế giới, theo diện tích sau châu Á và châu Mỹ. Với diện tích khoảng 30.244.050 km² (11.677.240 mi²) bao gồm cả các đảo cận kề thì nó chiếm 20,4% tổng diện tích đất đai của Trái Đất. Với 800 triệu dân sinh sống ở 54 quốc gia, nó chiếm khoảng 1/7 dân số thế giới.

Thuật ngữ

Danh xưng "châu Phi" và "Phi châu" trong tiếng Việt bắt nguồn từ dịch danh Trung văn của từ "Africa" là A Phi Lợi Gia châu (Trung văn: 阿非利加洲), gọi tắt là Phi châu (非洲). Tên gọi Africa được người châu Âu sử dụng thông qua người La Mã cổ đại, là những người sử dụng tên gọi Africa terra - "vùng đất Afri" (số nhiều, hay "Afer" ở dạng số ít) - để chỉ phần miền bắc của châu lục này, như là tỉnh Africa với thủ đô của nó là Carthage, tương ứng với Tunisia ngày nay.

Nguồn gốc của Afer có thể có từ:



  • Trong tiếng Phoenicia `afar - tức là "bụi";

  • Afri, một bộ lạc - có thể là Berber - là những người sống ở Bắc Phi trong khu vực Carthage;

  • Trong tiếng Hy Lạp từ aphrike có nghĩa là "không có lạnh" (xem thêm Danh sách các tên gọi khu vực truyền thống của người Hy Lạp);

  • hoặc từ chữ aprica trong tiếng Latinh có nghĩa là "có nhiều nắng".

Nhà sử học Leo Africanus (1495-1554) cho là nguồn gốc của từ phrikecó nghĩa là "lạnh và sự khiếp sợ") trong tiếng Hy Lạp khi tổ hợp với tiền tố phủ định a-, có nghĩa là vùng đất không có lạnh và sự khủng khiếp. Nhưng sự thay đổi của âm từ ph sang f trong tiếng Hy Lạp có thể chỉ có từ thế kỷ 1, vì thế trên thực tế nó khó có thể là nguyên gốc của tên gọi.

Ai Cập đã từng được những người cổ đại coi như là một phần của châu Á, và lần đầu tiên nó được gắn với châu Phi nhờ công của nhà địa lý Ptolemy (85-165), là người đã chấp nhận Alexandria như là kinh tuyến gốc và coi kênh đào Suez và Hồng Hải như là ranh giới giữa châu Á và châu Phi. Khi người châu Âu có thể hiểu ra quy mô thực sự của châu lục này thì ý tưởng về Africa cũng đã được mở rộng cùng với hiểu biết của họ.


Địa lý


Châu Phi là lớn nhất trong số 3 phần nổi trên mặt nước ở phía nam của bề mặt Trái Đất. Nó bao gồm trong khu vực bao quanh chung của nó một diện tích khoảng 30.244.050 km² (11.677.240 mi²) tính cả các đảo.

Bị ngăn cách khỏi châu Âu bởi Địa Trung Hải, nó nối liền với châu Á về phía tận cùng đông bắc bằng eo đất Suez (bị cắt ngang bởi kênh đào Suez) có bề rộng 130 km (80 dặm). Về mặt địa lý thì bán đảo Sinai của Ai Cập nằm về phía đông kênh đào Suez (thông thường cũng được coi như là thuộc châu Phi). Từ điểm xa nhất về phía bắc là Ras ben Sakka ở Maroc, nằm về phía tây mũi Blanc, ở vĩ độ 37°21' bắc, tới điểm xa nhất về phía nam là mũi Agulhas ở Nam Phi, 34°51′15″ nam, có khoảng cách khoảng 8.000 km (5.000 dặm); từ Cabo Verde, 17°33′22″ tây, tức điểm xa nhất về phía tây tới Ras Hafun ở Somalia, 51°27′52″ đông, có khoảng cách xấp xỉ 7.400 km (4.600 dặm). Độ dài của đường bờ biển là 26.000 km (16.100 dặm). Sự thiếu vắng của các chỗ lõm sâu vào dọc theo bờ biển được thể hiện theo thực tế là châu Âu có diện tích chỉ 9.700.000 km² (3.760.000 dặm vuông) nhưng lại có đường bờ biển tới 32.000 km (19.800 dặm).

Các đường cấu trúc chính của châu lục này được thể hiện theo cả hai hướng tây-đông (ít nhất là ở phần bán cầu bắc) của những phần nằm về phía bắc nhiều hơn và hướng bắc-nam ở các bán đảo miền nam. Châu Phi vì thế có thể coi là tổ hợp của hai phần vuông góc với nhau, phần phía bắc chạy theo hướng từ đông sang tây, phần phía nam chạy theo hướng bắc-nam.

Lịch sử


Châu Phi là nơi sinh sống đầu tiên trên Trái Đất, với loài người có nguồn gốc từ châu lục này. Xương Ishango, có niên đại cacbon khoảng 25.000 năm trước, là các que tínhtrong ký hiệu toán học.

Trong suốt thời kỳ tiền sử của loài người thì châu Phi (giống như các châu lục khác) đã không có các quốc gia và chủ yếu là các nhóm người săn bắn theo bầy đàn sinh sống. Khoảng năm 3300 TCN nhà nước Ai Cập cổ đại đã ra đời và phát triển, nó đã tồn tại với các mức độ ảnh hưởng khác nhau cho đến khoảng năm 343 TCN. Các nền văn minh khác bao gồm Ethiopia, vương quốcNubia, các vương quốc Sahel (GhanaMalivà Songhai) và Đại Zimbabwe.

Năm 1482 người Bồ Đào Nha đã thiết lập trạm thương mại đầu tiên (trong số nhiều trạm như thế) dọc theo bờ biển Guinée ởElmina. Các hàng hóa được trao đổi chính lànô lệvàngngà voi và hồ tiêu. Sự phát hiện ra châu Mỹ năm 1492 đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ trong buôn bán nô lệ mà trước thời kỳ của người Bồ Đào Nha thì việc buôn bán này trên đất liền gần như chỉ là những trường hợp hãn hữu.

Nhưng cùng vào thời điểm này thì chế độ nông nô đã đi vào giai đoạn kết thúc ở châu Âu và trong đầu thế kỷ 19 thì các lực lượng thực dân châu Âu đã tiến hành sự "tranh giành châu Phi" vô cùng khủng khiếp và đã chiếm đóng nhiều vùng đất của châu lục này, tạo ra nhiều quốc gia thuộc địa, chỉ để sót lại 2 quốc gia độc lập là: Liberia, thuộc địa của người Mỹ da đen và Ethiopia. Sự chiếm đóng này còn tiếp diễn cho đến tận sau khi kết thúc Thế chiến thứ hai, khi các nước thuộc địa dần dần giành được quy chế độc lập hình thức.

Ngày nay, châu Phi là quê hương của trên 50 quốc gia độc lập, tất cả trong trong số đó có đường biên giới được tạo ra trong thời kỳ chủ nghĩa thực dân của người châu Âu.

Chính trị

Châu Phi thuộc địa


Chủ nghĩa thực dân đã tạo ra những hậu quả gây mất ổn định trên tất cả những điều mà các bộ tộc châu Phi ngày nay còn cảm nhận được trong hệ thống chính trị của châu Phi. Trước khi có ảnh hưởng của người châu Âu thì các ranh giới quốc gia đã không phải là những điều đáng quan tâm nhất, trong đó người Phi châu nói chung theo các thực tiễn trong các vùng khác của thế giới, chẳng hạn như ở bán đảo Ả Rập, mà ở đó lãnh thổ của các nhóm dân cư là trùng khít với khu vực có ảnh hưởng về quân sự và thương mại của họ. Sự cố tình của người châu Âu trong việc vạch ra các ranh giới xung quanh các lãnh thổ để chia tách họ ra khỏi các quyền lực khác tại thuộc địa thông thường có ảnh hưởng tới việc chia cắt các nhóm dân cư hay chính trị liền kề hoặc cưỡng ép các kẻ thù truyền thống phải sống cạnh nhau mà không có khu vực đệm giữa họ. Ví dụ, sông Congo, mặc dù nó dường như là ranh giới địa lý tự nhiên, đã có các nhóm sắc tộc sống trên hai bờ sông chia sẻ cùng một ngôn ngữ và văn hóa hay các điều gì đó tương tự. Sự phân chia đất đai giữa Bỉ và Pháp dọc theo con sông này đã cô lập các nhóm sắc tộc này khỏi nhau. Những người sống ở khu vực Sahara hay Hạ Sahara là những người buôn bán xuyên châu lục này trong nhiều thế kỷ, thông thường hay vượt qua các "biên giới" mà thông thường chỉ tồn tại trên các bản đồ của người châu Âu.

Trong các quốc gia có dân cư là người châu Âu chính gốc như Rhodesia (Zambia vàZimbabwe ngày nay) và Cộng hòa Nam Phi, các hệ thống công dân hạng hai thông thường được lập ra để đảm bảo cho quyền lực chính trị của người gốc Âu vượt qua hạn chế về số lượng của họ (nếu tính theo phổ thông đầu phiếu). Tuy nhiên, các đường vạch ra thông thường không thể hiện chính xác các ranh giới về chủng tộc. Tại Liberia, những công dân là hậu duệ của nô lệ Mỹ đã thống trị các hệ thống chính trị trên 100 năm, làm cho các cựu nô lệ và người bản địa trong khu vực cân bằng tương đối về quyền lập pháp mặc dù thực tế là những cựu nô lệ này chỉ chiếm khoảng 10% dân số nói chung. Ý tưởng kỳ quặc cho hệ thống này là của Thượng viện Hoa Kỳ, nó làm cân bằng quyền lực của các khu vực dân tự do và nô lệ một cách buồn cười cho dù dân số của dân tự do bản địa là nhiều hơn.

Những người châu Âu thông thường thay đổi cán cân quyền lực, tạo ra các sự phân chia dân tộc mà trước đó đã không tồn tại, và tạo ra sự phân chia văn hóa gây hại cho những người dân sống trong khu vực họ kiểm soát được. Ví dụ, trong khu vực ngày nay là Rwandavà Burundi, hai sắc tộc Hutu và Tutsi đã bị trộn lẫn trong một nền văn hóa trong thời gian những kẻ thực dân người Bỉ kiểm soát khu vực này trong thế kỷ 19. Không còn sự phân chia sắc tộc do sự hòa trộn, hôn nhân lai tạp và sự hòa trộn của các tục lệ văn hóa trong hàng thế kỷ đã xóa bỏ các dấu hiệu đáng kể để phân biệt về văn hóa, người Bỉ thực hiện chính sách phân loại theo sắc tộc trong thời gian kiểm soát khu vực này, do sự phân loại và các triết lý dựa theo sắc tộc đã là những điều không đổi trong văn hóa châu Âu trong thời gian đó. Thuật ngữ Hutu nguyên thủy nói tới các bộ tộc nói tiếng Bantu sinh sống bằng nông nghiệp đã di cư từ phía tây tới Rwandan và Burundi ngày nay, và thuật ngữ Tutsi là nói tới các bộ tộc sinh sống bằng chăn nuôi bò từ miền đông bắc tới khu vực này muộn hơn. Các thuật ngữ đối với người bản xứ cuối cùng đã được dùng để chỉ đẳng cấp kinh tế của một người. Các cá nhân sở hữu từ 10 con bò hoặc nhiều hơn được coi là người Tutsi, và những người sở hữu ít hơn thì bị coi là người Hutu, không phụ thuộc vào lịch sử tổ tiên. Điều này không phải là ranh giới chính xác nhưng nó là quy luật chung cho cách gọi, vì thế một người có thể chuyển từ người Hutu sang thành người Tutsi hay ngược lại.

Người Bỉ đã đưa vào hệ thống phân biệt chủng tộc. Những cá nhân nào có nhiều đặc trưng giống người châu Âu khi nhìn - da sáng màu, cao lớn, mũi hẹp v.v. - được giao cho quyền lực trong số những người dân thuộc địa. Người Bỉ xác định các đặc trưng này là lý tưởng hơn cả ở người Hamit, người Hamit theo đó là gần giống với người châu Âu và thuộc về nhóm người có quan hệ gần với người Tutsi theo trực hệ. Họ đã thực hiện chính sách làm thẻ căn cước dựa trên triết lý này. Những người gần giống với mô hình lý tưởng này được coi là người Tutsi còn những người còn lại là người Hutu.


Châu Phi hậu thuộc địa


Kể từ khi độc lập, các nước châu Phi đã thường xuyên bị cản trở bởi sự bất ổn định, nạn tham nhũng, bạo lực và chủ nghĩa độc tài. Phần lớn các nước châu Phi là các nước cộng hòa hoạt động theo một số kiểu của chế độ tổng thống. Có một ít quốc gia ở châu Phi có chính thể dân chủ, nhưng bị nối tiếp bởi những vụ đảo chính tàn bạo hay các chế độ độc tài quân sự.

Có không ít thủ lĩnh chính trị của châu Phi hậu thuộc địa là những người ít học và dốt nát trong việc điều hành công việc nhà nước; nguyên nhân chính gây bất ổn chủ yếu là do kết quả của sự cách ly của các nhóm sắc tộc và sự tham nhũng của các thủ lĩnh này.

Ngoài ra, nhiều thủ lĩnh chính trị còn sử dụng vị trí quyền lực để kích động các mâu thuẫn sắc tộc, làm cho nó trầm trọng hơn, hay thậm chí là tạo ra những luật lệ thuộc địa. Tại nhiều nước, lực lượng quân sự đã từng là các nhóm duy nhất có thể đảm báo duy trì ổn định và trật tự ở phần lớn các nước châu Phi trong thập niên 1970 và đầu những năm thập niên 1980.

Trong giai đoạn từ đầu thập niên 1960 tới cuối thập niên 1980 ở châu Phi đã có trên 70 vụ đảo chính và 13 vụ ám sát tổng thống.

Các mâu thuẫn chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô cũng đóng vai trò trong sự bất ổn này. Khi các quốc gia giành được độc lập, thông thường nó sẽ nghiêng về một trong hai siêu cường. Nhiều nước ở Bắc Phi nhận sự trợ giúp quân sự của Liên Xô, trong khi nhiều nước ở Trung và Nam Phi đã được Hoa Kỳ và/hoặc Pháp hỗ trợ. Trong thập niên 1970 đã có sự leo thang do các quốc gia mới giành độc lập như Angola và Mozambique nghiêng về phía Liên Xô còn vùng Tây và Nam Phi tìm kiếm sự ngăn cản ảnh hưởng của Xô viết.

Các tranh cãi về biên giới và lãnh thổ là phổ biến với các biên giới do người châu Âu áp đặt đối với nhiều quốc gia bị tranh giành thông qua các vụ xung đột vũ trang.

Các chính sách nhà nước sai lầm và sự mục nát của hệ thống chính trị đã tạo ra hậu quả là nhiều nạn đói lan tràn và một phần đáng kể châu Phi vẫn còn các hệ thống phân phối không có khả năng cung cấp đủ lương thực hay nước uống cho dân cư để sống sót. Sự lan tràn của bệnh tật cũng rất phổ biến, đặc biệt là sự lan tràn của HIV và bệnh AIDS, nó đã trở thành một đại dịch nguy hiểm đối với châu lục này.

Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng đã có một số dấu hiệu cho thấy châu lục này còn có hy vọng ở tương lai. Các nhà nước dân chủ dường như bắt đầu mở rộng, mặc dù vẫn chưa phải là chủ yếu (National Geographic cho rằng có tới 13 quốc gia châu Phi có thể coi là dân chủ thực sự). Ngoài ra, nhiều quốc gia đã có ít nhất là các nền tảng được công nhận trên danh nghĩa của quyền con người cho mọi ng dân, mặc dù trên thực tế những quyền này không phải lúc nào cũng được thừa nhận, và đã tạo ra hệ thống tư pháp độc lập tương đối hợp lý.

Có các dấu hiệu rõ ràng của sự gia tăng quan hệ giữa các tổ chức hay quốc gia châu Phi. Trong nội chiến ở Cộng hòa Dân chủ Congo (tên cũ Zaire), không phải là các nước giàu, ngoài châu Phi can thiệp vào mà là khoảng một nửa tá các quốc gia châu Phi láng giềng đã tham gia (xem thêm Chiến tranh Congo lần 2). Số người bị chết ước tính lên tới 3,5 triệu kể từ khi xung đột mới nổ ra năm 1998. Nó thể hiện những gì tương tự như những điều đã diễn ra trong giai đoạn đầu của Thế chiến thứ hai ở châu Âu, mà sau đó người dân ở các nước láng giềng quyết định tham dự vào theo những cách thức mà cuộc chiến giữa họ trở nên không giống như cuộc chiến giữa Pháp và Đức (nếu có ngày nay).

Các liên minh chính trị như Liên minh châu Phi cũng là một niềm hi vọng cho hợp tác và hòa bình lớn hơn giữa nhiều nước của châu lục này.

Sự lạm dụng trong quyền con người vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi của châu Phi, thông thường là dưới sự giám sát của nhà nước. Phần lớn các vi phạm như thế diễn ra vì các lý do chính trị, như là 'hiệu ứng phụ' của nội chiến. Các nước bị liệt kê là có nhiều vi phạm lớn bao gồm (nhưng không bị giới hạn chỉ có vậy): Cộng hòa Dân chủ CongoSierra LeoneLiberia,SudanCôte d'Ivoire. Các vi phạm được báo cáo gồm có tục ăn thịt người, các hình phạt gây tổn thương cho cơ thể và nạn hãm hiếp.

Châu Phi hiện đại


Phần lớn các nước phương Tây sử dụng các giới hạn trong việc trợ giúp các quốc gia châu Phi. Các hạn chế này chủ yếu được sử dụng để kiểm soát chính phủ các quốc gia Phi châu này; kết quả là các quốc gia này phải đi tìm các nguồn trợ giúp tài chính truyền thống. Trung Quốc ngày càng tăng sự trợ giúp tài chính cho châu Phi để đảm bảo an toàn cho các hợp đồng khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Các sự trợ giúp này thường không có hiệu lực chính trị.

Kinh tế


Châu Phi là châu lục có người sinh sống nghèo khổ nhất thế giới, và sự nghèo khổ này về trung bình là tăng lên so với 25 năm trước.

Báo cáo phát triển con người[1] của Liên hiệp quốc năm 2003 (về 175 quốc gia) đã cho thấy các vị trí từ 151 (Gambia) tới 175 (Sierra Leone) đã hoàn toàn thuộc về các nước châu Phi.

Tại châu Phi, tình trạng đã và đang trong giai đoạn chuyển tiếp không ổn định từ chủ nghĩa thực dân sang giai đoạn mới thuộc thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh, sự gia tăng của tham nhũng và chế độ chuyên quyền là những yếu tố chính để lý giải nền kinh tế yếu kém. ViệcTrung Quốc và hiện nay là cả Ấn Độ có sự tăng trưởng nhanh chóng, hay các nước Nam Mỹcó sự tăng trưởng vừa phải đã nâng mức sống của hàng triệu người thì châu Phi đã bị đình đốn, thậm chí thụt lùi trong thương mạiđầu tư và thu nhập trên đầu ngườiSự nghèo đóinày có ảnh hưởng rộng lớn, bao gồm tuổi thọ trung bình thấp, bạo lực và sự mất ổn định - các yếu tố bện vào nhau và có liên quan với sự nghèo đói của châu lục. Trong nhiều thập niên một loạt các giải pháp đã được đưa ra và nhiều trong số đó đã được thực hiện, nhưng chưa có giải pháp nào thu được sự thành công đáng kể.

Một phần của vấn đề là sự viện trợ của nước ngoài nói chung được sử dụng để khuyến khích trồng các loại cây công nghiệp như bôngcô ca và cà phê trong các khu vực của nền nông nghiệp tự cung tự cấp. Tuy nhiên, cũng vào thời gian này thì các nước công nghiệp lại theo đuổi chính sách nhằm hạ giá các sản phẩm từ các loại cây này. Ví dụ, giá thành thực sự của bông trồng ở Tây Phi là nhỏ hơn khoảng một nửa giá thành của bông trồng tại Mỹ nhờ giá nhân công rẻ mạt. Tuy nhiên, bông của Mỹ được bán ra với giá thấp hơn bông châu Phi do việc trồng bông ở Mỹ được trợ cấp rất nhiều. Kết quả là giá cả của các mặt hàng này hiện nay chỉ xấp xỉ với giá của thập niên 1960.

Châu Phi cũng phải hứng chịu sự chảy vốn liên tục. Nói chung, thu nhập đến với các nước châu Phi lại nhanh chóng ra đi, hoặc là do các tài sản được bán ra đều là sở hữu của ngoại quốc (dầu mỏ là một ví dụ điển hình) và tiền thu về lại được chuyển cho các chủ nước ngoài, hoặc là các khoản tiền đó phải sử dụng để thanh toán các khoản vay của các nước công nghiệp hay Ngân hàng thế giới (WB). Người ta ước tính rằng châu Phi có thể giảm sự phụ thuộc vào viện trợ của nước ngoài một cách đáng kể nếu mọi lợi nhuận thu được tại các nước châu Phi được tái đầu tư vào khu vực trong ít nhất 12 tháng.



Botswana, một trong những quốc gia nghèo của châu Phi mà không đi theo các sự kiểm soát do Ngân hàng thế giới (WB) hay Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đề xuất, là một trong những ngoại lệ đối với quy luật chung của sự đình đốn nền kinh tế châu Phi, và đã thu được sự phát triển vững chắc trong những năm gần đây cho dù họ không có cả đầu tư nước ngoài, tự do luân chuyển vốn hay tự do hóa thương mại.

Nước thành công kinh tế nhiều nhất là Cộng hòa Nam Phi, đây là một quốc gia phát triển về công nghiệp và kinh tế như bất kỳ nước công nghiệp châu Âu hay Bắc Mỹ nào, nước này còn có thị trường chứng khoán riêng rất hoàn thiện. Nam Phi đạt được điều này một phần là nhờ sự giàu có đáng ngạc nhiên về các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nước này là nước dẫn đầu thế giới về sản xuất vàng và kim cương.



Nigeria nằm trên một trong những nguồn dầu mỏ lớn nhất đã được công nhận trên thế giới và cũng là nước có dân số lớn nhất trong số các quốc gia châu Phi, cũng là một quốc gia phát triển nhanh. Tuy nhiên, phần lớn ngành công nghiệp dầu mỏ thuộc sở hữu của nước ngoài, và trong ngành này thì sự tham nhũng là lan tràn, ngay ở cấp độ quốc gia, vì thế rất ít tiền thu được từ dầu mỏ còn lại trong nước, và số tiền đó chỉ đến với một phần trăm ít ỏi của dân số.

Dân cư


Dân cư châu Phi có thể nhóm một cách thuận tiện theo khu vực mà họ sinh sống ở phía bắc hay phía nam của sa mạc Sahara; các nhóm này được gọi là người Bắc Phi và người Phi hạ Sahara một cách tương ứng. Người Ả Rập-Berber nói tiếng Ả Rập chi phối khu vực Bắc Phi, trong khi khu vực châu Phi hạ Sahara được chi phối bởi một lượng lớn dân cư tạp nham, nói chung được nhóm cùng nhau như là 'người da đen' do nước da sẫm màu của họ. Ở đây có một sự đa dạng về các loại hình dáng cơ thể trong số những người Phi hạ Sahara -- dao động từ người Masai và Tutsi, được biết đến nhờ vóc người cao lớn của họ, tới người Pygmy, là những người có tầm vóc nhỏ nhất thế giới.

Ngoài các nhóm người gốc sông Nil ở miền nam Sudan, một số nhóm người gốc sông Nil có ở Ethiopia, và các tộc người Phi thiểu số Bantu ở Somalia, người Phi từ các phần đông bắc của châu lục này nói chung có hình dáng bên ngoài khác với những người này ở các khu vực khác. Những người nói tiếng Bantu là đa số ở miền nam, trung tâm và đông châu Phi; nhưng cũng có vài nhóm người gốc sông Nil ở Đông Phi, và chỉ còn rất ít người Khoisan ('San' hay 'Busmmen') và Pygmy bản địa ở miền nam và trung châu Phi.

Người Phi nói tiếng Bantu cũng chiếm ưu thế ở Gabon và Guinea Xích đạo, cũng như có sinh sống ở miền nam của hai nước Cameroon và Somalia. Tại sa mạc Kalahari ở miền nam châu Phi, những người được gọi là Bushmen ("San", có quan hệ gần với người "Hottentot", nhưng khác biệt rõ) đã sống ở đó lâu đời. Người San về mặt bề ngoài là khác biệt với những người châu Phi khác và là dân bản địa ở miền nam châu Phi. "Pygmy" là người bản địa của miền trung châu Phi.

Người Phi ở Bắc Phi, chủ yếu là Ả Rập-Berber, là những người Ả Rập đã đến đây từ thế kỷ 7 và đồng hóa với người Berber bản địa. Người Phoenicia (Semit), và người Hy Lạp và ngườiLa Mã cổ đại từ châu Âu cũng đã định cư ở Bắc Phi. Người Berber là thiểu số đáng kể ởMaroc và Algérie cũng như có mặt ở Tunisia và Libya. Người Tuareg và các dân tộc khác (thường là dân du mục) là những người sinh sống chủ yếu của phần bên trong Sahara ở Bắc Phi. Người Nubia da đen cũng đã từng phát triển nền văn minh của mình ở Bắc Phi thời cổ đại.

Một số nhóm người Ethiopia và Eritrea (tương tự như Amhara và Tigray, gọi chung là người "Habesha") có tổ tiên là người Semit (Sabaea). Người Somali là những người có nguồn gốc từ các cao nguyên ở Ethiopia, nhưng phần lớn các bộ tộc Somali cũng có tổ tiên là người gốc Ả Rập. Sudan và Mauritania được phân chia giữa phần lớn người gốc Ả Rập ở phía bắc và người Phi da đen ở phía nam (mặc dù nhiều người gốc "Ả Rập" ở Sudan có tổ tiên rõ ràng là người châu Phi, và họ khác rất nhiều so với người gốc Ả Rập ở Iraq hay Algérie). Một số khu vực ở Đông Phi, cụ thể là ở đảo Zanzibar và đảo Lamu của Kenya, có những người dân và thương nhân gốc Ả Rập và Hồi giáo châu Á sinh sống từ thời Trung Cổ.

Bắt đầu từ thế kỷ 16, người châu Âu như Bồ Đào Nha và Hà Lan bắt đầu thiết lập các điểm thương mại và pháo đài dọc theo bờ biển tây và nam châu Phi. Cuối cùng thì một lượng lớn người Hà Lan, cùng với người Pháp Huguenot và người Đức đã định cư lại tại khu vực gọi làCộng hòa Nam Phi ngày nay. Hậu duệ của họ, người Phi da trắng (Afrikaan), là nhóm dân da trắng lớn nhất ở Nam Phi ngày nay. Trong thế kỷ 19, giai đoạn thứ hai của quá trình thuộc địa hóa đã đem một lượng lớn người Pháp và người Anh tới định cư ở châu Phi. Người Pháp sống chủ yếu ở Algérie, còn một lượng nhỏ khác sống ở các khu vực khác thuộc Bắc và Tây Phi. Người Anh định cư ở Nam Phi cũng như ở Rhodesia thuộc địa và ở các vùng cao nguyên của Kenya ngày nay. Một lượng nhỏ binh lính, thương nhân và viên chức gốc Âu cũng sinh sống ở các trung tâm hành chính như Nairobi và Dakar. Sự tan rã của các thuộc địa trong thập niên 1960 thường tạo ra sự di cư hàng loạt các hậu duệ gốc Âu ra khỏi châu Phi -- đặc biệt là ở Algérie, Kenya và Rhodesia (nay là Zimbabwe). Tuy nhiên, ở Nam Phi thì người da trắng thiểu số (10% dân số) vẫn ở lại rất nhiều tại nước này kể cả sau khi sự cai trị của người da trắng chấm dứt năm 1994. Nam Phi cũng có cộng đồng người hỗn hợp về chủng tộc (người da màu).

Sự thực dân hóa của người châu Âu cũng đem tới đây nhiều nhóm người châu Á, cụ thể là những người từ tiểu lục địa Ấn Độ tới các thuộc địa của Anh. Các cộng đồng lớn người Ấn Độ có ở Nam Phi và các nhóm nhỏ hơn có ở Kenya và Tanzania cũng như ở một vài nước thuộc nam và đông châu Phi. Một cộng đồng khá lớn người Ấn Độ ở Uganda đã bị nhà độc tài Idi Amin trục xuất năm 1972, mặc dù nhiều người kể từ đó đã quay trở lại.

Ngôn ngữ


Theo phần lớn các ước tính thì châu Phi có trên cả ngàn ngôn ngữ. Có 4hệ ngôn ngữ chính có gốc bản địa ở châu Phi.

  • Hệ ngôn ngữ Phi-Á là hệ ngôn ngữ của khoảng 240 thứ tiếng và 285 triệu người sử dụng trải khắp Bắc Phi, Đông Phi, Sahel và Tây Nam Á.

  • Hệ ngôn ngữ Nil-Sahara bao gồm hơn 100 thứ tiếng được khoảng 30 triệu người sử dụng. Các tiếng Nil-Sahara chủ yếu sử dụng ở Tchad, Sudan, Ethiopia,Uganda, Kenya và bắc Tanzania.

  • Hệ ngôn ngữ Niger-Congo bao phủ phần lớn châu Phi hạ Sahara và có lẽ là họ ngôn ngữ lớn nhất thế giới khi nói đến như là có nhiều thứ tiếng khác nhau. Một điều đáng chú ý trong số đó làcác tiếng Bantu được nói nhiều nhất ở khu vực hạ Sahara.

  • Hệ ngôn ngữ Khoisan có số lượng trên 50 thứ tiếng và được khoảng 120.000 người nói ở miền nam châu Phi. Nhiều thứ tiếng trong họ ngôn ngữ này đang ở trong tình trạng mai một. Người Khoi và San được coi là những cư dân nguyên thủy của vùng này.

Các ngôn ngữ châu Âu cũng có một số ảnh hưởng đáng kể; tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Tây Ban Nha là các ngôn ngữ chính thức tại một số nước do kết quả của quá trình thực dân hóa. Tại Cộng hòa Nam Phi, nơi có một lượng đáng kể người gốc châu Âu sinh sống, thì tiếng Anh và tiếng Afrikaan là ngôn ngữ bản địa của một bộ phận đáng kể dân chúng.

Văn hóa


Thay vì có một nền văn hóa, châu Phi có một lượng lớn các nền văn hóa pha tạp lẫn nhau. Sự khác biệt thông thường rõ nhất là giữa châu Phi hạ Sahara và các nước còn lại ở phía bắc từ Ai Cập tới Maroc, những nước này thường tự gắn họ với văn hóa Ả Rập. Trong sự so sánh này thì các quốc gia về phía nam sa mạc Sahara được coi là có nhiều nền văn hóa, cụ thể là các nền văn hóa trong nhóm ngôn ngữ Bantu.

Sự phân chia còn có thể thực hiện bằng cách chia châu Phi nói tiếng Pháp với phần còn lại của châu Phi, cụ thể là các cựu thuộc địa của Anh ở miền nam và miền đông châu Phi. Một cách phân chia có khuyết điểm khác nữa là sự phân chia thành những người Phi theo lối sống truyền thống với những người có lối sống hoàn toàn hiện đại. Những "người truyền thống" đôi khi lại được chia ra thành những người nuôi gia súc và những người làm nông nghiệp.

Nghệ thuật châu Phi phản ánh tính đa dạng của nền văn hóa châu Phi. Nghệ thuật có tuổi cao nhất còn tồn tại ở châu Phi là những bức chạm khác 6000 năm tuổi tìm thấy ở Niger, trong khi Đại kim tự tháp Giza ở Ai Cập là tổ hợp kiến trúc cao nhất thế giới trong khoảng 4000 năm cho đến khi người ta xây dựng tháp Eiffel. Tổ hợp các nhà thờ xây bằng đá ởLalibela, Ethiopia, trong đó Nhà thờ St. George là đại diện, được coi là một kỳ công khác của nghành công trình.

Âm nhạc châu Phi là một trong các dạng nghệ thuật năng động nhất. Ai Cập đã có một lịch sử lâu đời gắn liền với sự trung tâm văn hóa của thế giới Ả Rập, trong khi các giai điệu âm nhạc của châu Phi hạ Sahara, cụ thể là của Tây Phi, đã được truyền thông qua buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương thành các loại nhạc blues, jazz, reggae, rap và rock and roll hiện đại. Âm nhạc hiện đại của châu lục này bao gồm các bài hát hợp xướng tổ hợp cao của miền nam châu Phi và các điệu nhảy soukous, chi phối bởi âm nhạc của Cộng hòa Dân chủ Congo. Sự phát triển gần đây trong thế kỷ 21 là sự nổi lên của hip hop châu Phi, cụ thể là dạng ở Sénégal là pha trộn với mbalax truyền thống. Gần đây ở Nam Phi, một dạng âm nhạc liên quan tới nhạc house (thể loại nhạc sử dụng các thiết bị âm nhạc điện tử - là sự phối trộn của disco và pop, tên gọi có từ câu lạc bộ Warehouse ở Mỹ) được biết dưới tên gọi kwaitođã được phát triển, mặc dù nước này là quê hương của các dạng nhạc jazz Nam Phi, trong khi âm nhạc của người Afrikaan là hoàn toàn khác biệt và chủ yếu là âm nhạc Boere truyền thống và các dạng của âm nhạc dân tộc hay Rock.



  • Danh sách các nhạc sĩ châu Phi

  • Danh sách các nhà văn châu Phi

  • Điện ảnh châu Phi

Tôn giáo

Người Phi châu theo nhiều loại tôn giáo, với Kitô giáo và Hồi giáo là phổ biến nhất. Khoảng 40% dân số châu Phi là người theo Kitô giáo và 40% theo Hồi giáo. Khoảng 20% còn lại chủ yếu theo các tôn giáo châu Phi bản địa. Một lượng nhỏ người Phi cũng theo các tín ngưỡng của Do Thái giáo, chẳng hạn như các bộ lạc Beta Israel và Lemba.

Các tôn giáo châu Phi bản địa có xu hướng tiến hóa quanh thuyết vật linh và tục thờ cúng tổ tiên. Tư tưởng chung của các hệ thống tín ngưỡng truyền thống là sự phân chia thế giới tâm linh thành "có ích" và "có hại". Thế giới tâm linh có ích thông thường được cho là bao gồm linh hồn tổ tiên giúp đỡ cho con cháu của họ hay các thần linh có sức mạnh để bảo vệ toàn bộ cộng đồng tránh khỏi các thảm họa tự nhiên hoặc sự tấn công của kẻ thù; trong khi đó thế giới tâm linh có hại bao gồm linh hồn của các nạn nhân bị sát hại - là những người được chôn cất mà không có các nghi thức mai táng đúng cách và các loại ma quỷ mà các ông đồng, bà cốt sử dụng để tạo ra bệnh tật cho kẻ thù của họ. Trong khi tác động của các dạng nghi lễ thờ cúng nguyên thủy này vẫn còn tiếp diễn và có ảnh hưởng sâu sắc thì các hệ thống tín ngưỡng đó cũng tiến hóa nhờ sự tiếp xúc với các loại tôn giáo khác.

Sự hình thành của vương quốc cổ đại ở Ai Cập trong thiên niên kỷ 3 TCN đã đánh dấu tổ hợp tín ngưỡng tôn giáo đầu tiên được biết trên châu lục này. Vào khoảng thế kỷ 9 TCN,Carthage (ngày nay là Tunisia) đã được người Phoenicia thành lập, và trở thành trung tâm vũ trụ lớn của thế giới cổ đại, trong đó các thần thánh từ Ai Cập, La Mã cổ đại và nhà nước-thành phố Etruscan đã được thờ cúng.

Nhà thờ của Chính thống giáo Ethiopia có niên biểu chính thức từ thế kỷ 4, và vì thế là một trong các nhà thờ đầu tiên của Kitô giáo đã được xây dựng ở một nơi nào đó. Ở giai đoạn đầu thì tính chất chính thống của Kitô giáo đã có ảnh hưởng tới các vùng là Sudan ngày nay và các khu vực lân cận khác; tuy nhiên sau sự phổ biến của Hồi giáo thì sự phát triển của Kitô giáo đã bị chậm lại và bị hạn chế chỉ ở những vùng cao nguyên.

Hồi giáo vào châu Phi khi người theo đạo này xâm chiếm Bắc Phi vào khoảng giữa các năm từ 640 tới 710, bắt đầu từ Ai Cập. Họ đã thành lập ra Mogadishu, Melinde, Mombasa, Kilwa và Sofala, tiếp theo là việc buôn bán theo đường biển dọc theo bờ biển Đông Phi và phổ biến xuyên qua sa mạc Sahara tới phần châu Phi nội địa - theo con đường thương mại của người Hồi giáo. Người Hồi giáo cũng là những người châu Á sau đó định cư ở các vùng châu Phi là thuộc địa của Anh.

Nhiều người Phi đã chuyển sang theo dạng châu Âu của Kitô giáo trong thời kỳ thuộc địa. Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20 các giáo phái khác nhau của Kitô giáo đã phát triển nhanh. Một số các giáo chủ người Phi của Giáo hội Công giáo La Mã đã được nói đến như là các ứng viên cho chức vụ Giáo hoàng. Những người theo Kitô giáo ở châu Phi dường như là bảo thủ hơn so với những người đồng tôn giáo ở phần lớn các nước công nghiệp, điều này gần đây dẫn tới những rạn nứt trong các giáo phái, chẳng hạn như giữaAnh giáo và Phong trào Giám lý.

Lãnh thổ

Các quốc gia độc lập


Đông Phi

Đông Phi bao gồm



  • Burundi (đôi khi được coi là một phần của khu vực Trung Phi)

  • Kenya

  • Mozambique (đôi khi được coi là một phần của khu vực Nam

  • Rwanda (đôi khi được coi là một phần của khu vực Trung Phi)

  • Tanzania

  • Uganda

Đông Bắc Phi

  • Djibouti

  • Eritrea

  • Ethiopia

  • Somalia (bao gồm cảSomaliland)

  • Sudan

Trung Phi

  • Angola (đôi khi được coi là một phần của khu vực Nam Phi)

  • Burundi (đôi khi được coi là một phần của khu vực Đông Phi)

  • Cameroon (đôi khi được coi là một phần của khu vực Tây Phi)

  • Cộng hòa Congo

  • Cộng hòa Dân chủ Congo

  • Cộng hòa Trung Phi

  • Guinea Xích đạo (đôi khi được coi là một phần của khu vực Tây Phi)

  • Gabon (đôi khi được coi là một phần của khu vực Tây Phi)

  • Rwanda (đôi khi được coi là một phần của khu vực Đông Phi)

  • Tchad (đôi khi được coi là một phần của khu vực Tây Phi)

  • Zambia (đôi khi được coi là một phần của khu vực Nam Phi)

Bắc Phi



Bản đồ tự nhiên châu Phi



  • Algérie

  • Ai Cập (bao gồm cả phần lãnh thổ ở châu Á)

  • Libya

  • Maroc

  • Mauritania (đôi khi được coi là một phần của khu vực Tây Phi)

  • Tunisia

Nam Phi

  • Angola (đôi khi được coi là một phần của khu vực Trung Phi)

  • Botswana

  • Lesotho

  • Malawi

  • Mozambique (đôi khi được coi là một phần của khu vực Đông Phi)

  • Namibia

  • Cộng hòa Nam Phi

  • Swaziland

  • Zambia (đôi khi được coi là một phần của khu vực Trung Phi)

  • Zimbabwe

Tây Phi

  • Bénin

  • Burkina Faso

  • Cameroon (đôi khi được coi là một phần của khu vực Trung Phi)

  • Côte d'Ivoire

  • Gabon (đôi khi được coi là một phần của khu vực Trung Phi)

  • Gambia

  • Ghana

  • Guinea Xích đạo (đôi khi được coi là một phần của khu vực Trung Phi)

  • Guinée

  • Guinée-Bissau

  • Liberia

  • Mali

  • Mauritania (đôi khi được coi là một phần của khu vực Bắc Phi)

  • Niger

  • Nigeria

  • Sénégal

  • Sierra Leone

  • Tchad (đôi khi được coi là một phần của khu vực Trung Phi)

  • Togo

Các quốc gia châu Phi quần đảo

  • Cabo Verde (khu vực Tây Phi)

  • Comoros (khu vực Nam Phi)

  • Madagascar (khu vực Nam Phi)

  • Mauritius (khu vực Nam Phi)

  • São Tomé và Príncipe (khu vực Trung hoặc Tây Phi)

  • Seychelles (khu vực Đông Phi)

Các lãnh thổ bị chiếm hữu


  • Azores (Bồ Đào Nha)

  • Quần đảo Canary (Tây Ban Nha/Maroc)

  • Ceuta và Melilla (Tây Ban Nha/Maroc)

  • Madeira (Bồ Đào Nha)

  • Mayotte (Pháp)

  • Réunion (Pháp)

  • Saint Helena (bao gồm cả đảo Ascension và Tristan da Cunha trực thuộc) (Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland)

Lãnh thổ đang tranh cãi


  • Tây Sahara (Maroc đòi chủ quyền)

Chú thích


  1. ^ “Báo cáo phát triển con người”. Truy cập 2 tháng 9 năm 2011.


An ninh lương thực: Vấn đề "sống còn" của Châu Phi


(Tamnhin.net) - An ninh lương thực là vấn đề “sống còn” ở Châu Phi, do sản lượng lương thực toàn cầu giảm mạnh, quá trình biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và bạo động tại Bắc Phi. 





Tại cuộc hội thảo về an ninh lương thực châu Phi trong tương lai được tổ chức ở Nam Phi, ông Andre Louw, chuyên gia Nam Phi về an ninh lương thực,  cho biết giá lương thực thế giới tăng mạnh thời gian gần đây, nhất là từ đầu năm 2011, đã kéo theo sự leo thang về giá lương thực thực phẩm tại một số khu vực, trong đó có châu Phi. Ngoài ra, thay đổi thời tiết bất thường như mưa lớn, lũ lụt xảy ra tại nhiều quốc gia châu Phi như Angola, Mozambique, Tanzania, Uganda, Namibya, Nam Phi....đã làm cho sản xuất nông nghiệp tại các quốc gia này bị ảnh hưởng nghiêm trọng và vấn đề an  ninh lương thực tại lục địa này, vốn đã bấp bênh nay trở lên bấp bênh hơn, khiến nguy cơ thiếu lương thực trầm trọng là khó tránh khỏi. 

Trong khi đó, các nguồn cung cấp lớn trên thế giới cũng đang bị thu hẹp do sản xuất nông nghiệp, nhất là ngũ cốc giảm mạnh. Theo giáo sư Dineo Roy của Đại học Chicago (Mỹ), hiện nay các quốc gia xuất khẩu lúa mỳ, ngô, lúa gạo lớn thế giới như Canada, Mỹ, Pháp, Nga, Australia, Thái Lan, Việt Nam ... đã bắt đầu hạn chế xuất khẩu. Nga - nước xuất khẩu lúa mỳ lớn thứ ba thế giới – đã tuyên bố tạm ngừng xuất khẩu ngũ cốc do tình hình thời tiết không thuận lợi. Hạn hán không chỉ hoành hành ở Nga mà cả ở những khu vực sản xuất lúa mỳ lớn khác tại khu vực Biển Đen gần đây đã làm cho sản lượng lúa mỳ của khu vực này giảm mạnh. Đặc biệt những cơn mưa lớn tại khu vực Bắc Mỹ đã khiến nông dân Canada, nước xuất khẩu lúa mỳ lớn nhất thế giới, không gieo trồng lúa mỳ trên một diện tích đất canh tác rộng lớn. 

Theo số liệu của Cục Lúa mỳ Canađa, năm nay sản lượng lúa mỳ của nước này ước đạt 19 triệu tấn, giảm 30% so với năm 2010. Báo cáo nghiên cứu của Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO) cho biết lũ lụt nghiêm trọng tại các khu vực trồng lúa trọng yếu của Trung Quốc như Giang Tây, An Huy, Triết Giang gần đây cũng khiến sản lượng lúa gạo của nước này có thể giảm khoảng 10% trong năm nay.  Trung Quốc hiện là nhà sản xuất và tiêu thụ lúa gạo lớn nhất thế giới với mỗi năm chiếm 35% sản lượng sản xuất gạo thế giới. 

Cũng tại cuộc hội thảo, các chuyên gia quốc tế, khu vực đều nhận định an ninh lương thực tại là vấn đề "sống còn" và ưu tiên số 1 của Châu Phi vì phần lớn lục địa này đang có nguy cơ thiếu lương thực thực phẩm trầm trọng và nạn đói luôn đe dọa 1/4 dân số "lục địa đen". Với năng suất ngũ cốc khoảng 1 tấn/ha, Châu Phi chỉ đáp ứng 1/2 nhu cầu về lương thực và mỗi năm phải nhập khẩu khoảng 25 triệu tấn ngũ cốc. 

Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, xây dựng, nâng cấp hệ thống thủy lợi, áp dụng khoa học công nghệ và ứng dụng giống cây trồng mới, cộng thêm sự tài trợ của các nước phát triển, tổ chức quốc tế về phát triển nông nghiệp chính là những giải pháp trước mắt và lâu dài để đảm bảo an ninh lương thực cho "lục địa đen" trong tương lai.


Lê Chân (theo FAO)

Vấn nạn hàng giả ở châu Phi






Một đôi giày nhái Adidas
(Dân trí) - Ở châu Phi, gần như mọi sản phẩm tiêu dùng đều có hàng giả hàng nhái, bất kể đắt rẻ, to nhỏ. Tại đây, hàng giả đã trở thành một vấn nạn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến doanh thu của nhà sản xuất chính hãng.

Cách đây vài năm, tập đoàn hàng tiêu dùng Sara Lee bắt đầu phát hiện hàng giả sản phẩm bán chạy nhất của mình tại châu Phi: xi đánh giày Kiwi. Vậy là họ quyết định ngăn chặn việc này bằng cách đổi mới nhãn mác Kiwi, nhưng chẳng bao lâu sau lại xuất hiện hàng giả. Không nản lòng, Sara Lee quyết định thay đổi kích cỡ bao bì. Nhưng cũng chỉ nửa năm sau, hàng giả, với kích thước mới, lại xuất hiện.Với quyết tâm đẩy lùi hàng giả, tập đoàn cho thay đổi toàn bộ khuôn đúc để hộp xi đánh giày Kiwi có mép sâu hơn, nhưng rồi hàng giả cũng nhanh chóng “bắt kịp” hàng chính hãng, tất nhiên với chút khác biệt nhỏ.

 

“Mỗi lần chúng tôi thay đổi, họ lại thay đổi theo và lần sau nhanh hơn lần trước. Đầu tiên họ mất 6 tháng để bắt kịp thay đổi của hàng chính hãng, còn bây giờ chỉ mất khoảng 6 tuần,” Joab Ouma, Giám đốc marketing khu vực Đông Phi của Sara Lee, cho biết.



 

Có giá bán lẻ khá rẻ: chỉ 35 xen/hộp, Kiwi là nhãn hiệu xi đánh giày lớn nhất ở lục địa đen, với tổng doanh thu đạt hơn 50 triệu USD và hiện chiếm khoảng 80% thị phần. Tuy nhiên, tại Uganda và một số nước khác, gần một nửa số xi đánh giày hiệu Kiwi trên thị trường là hàng giả, khiến doanh số của Sara Lee trên toàn châu Phi giảm khoảng 20%.

 




 

Không đề cập đến những loại hàng hay bị làm giả trên thế giới như đồng hồ Rolex, túi xách Louis Vuitton, và thuốc Viagra. Ở châu Phi, các cơ sở sản xuất hàng giả len lỏi vào mọi ngóc ngách thị trường, từ sản phẩm rẻ tiền nhất. Các mặt hàng giá rẻ tiêu thụ nhiều, như bút bi, xà phòng bánh, hay xi đánh giày Kiwi, là mục tiêu chính của các cơ sở sản xuất hàng giả. Kiwi đã phải đóng cửa nhà máy ở Malawi và Zambia, hay một nhà máy sản xuất bút BiC đã phải dừng hoạt động ở Mô-dăm-bic, một phần đều do vấn nạn hàng giả.

 

Không khó để tìm hiểu tại sao các cơ sở sản xuất hàng giả lại đổ về lục địa đen. Thứ nhất, nếu đưa hàng giả len lỏi được vào hệ thống bán lẻ hợp pháp, họ sẽ bán được đúng bằng giá hàng xịn. Không ở đâu tiêu thụ hàng giả dễ như vùng nông thôn của châu Phi, nơi hầu hết hàng hoá được tiêu thụ qua hệ thống cửa hàng và ki-ốt nhỏ. Chỉ một số ít chuỗi cửa hàng lớn kiểm soát chặt chẽ nguồn cung hàng, còn lại, hàng trăm ngàn hộ tiểu thương nhận hàng từ nguồn nào giá rẻ nhất. Uỷ ban tiêu chuẩn quốc gia Uganda ước tính gần 1/3 hàng tiêu dùng ở nước này là hàng giả.



 

Và các cơ sở sản xuất hàng giả luôn có lãi, dù với những mặt hàng giá rất rẻ. Công ty nhựa Nice sản xuất bàn chải đánh răng chỉ để tiêu thụ tại Uganda và một số nước lân cận. Hiện tại, mỗi tháng công ty chỉ tiêu thụ được chưa đến 800.000 sản phẩm, giảm hơn một nửa so với mức 2 triệu chiếc thời trước khi các cơ sở sản xuất hàng giả, đặc biệt là từ Trung Quốc, bắt đầu làm nhái sản phẩm của họ cách đây 2 năm.





Bàn chải đánh răng Nice giả có hình thức và bao bì không mấy khác biệt so với hàng chính hãng

 

Giá bán lẻ một chiếc bàn chải của Nice chỉ là 20 xen, và công ty lãi chưa đến 2 xen trên mỗi sản phẩm, nhưng lợi nhuận của các cơ sở sản xuất hàng giả lại cao hơn, vì họ không mất chi phí quảng cáo hay tiếp thị sản phẩm mà chỉ việc ăn theo hàng chính hãng. Bàn chải Nice giả đóng trong bao bì hầu như giống hệt hàng chính hãng, ngoại trừ trên bao vì hàng giả ghi “Thiết kế tại Đức”, trong khi hàng thật ghi “Sản xuất tại Uganda”.



 

Tại Nairobi, công ty Haco Industries chuyên sản xuất bút nhãn hiệu BiC cũng cho biết doanh thu bán bút đã giảm từ 90% trong tổng doanh thu 25 triệu USD hàng năm của công ty xuống chỉ còn 50% do hàng giả tràn ngập thị trường, đến mức ngay cả lãnh đạo công ty đôi khi cũng khó phân biệt.

 














Các kiểu hàng nhái thương hiệu nổi tiếng

 

Chính phủ các nước châu Phi biết cần giải quyết vấn nạn này, nhưng họ cũng vấp phải nhiều khó khăn. “Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là một khái niệm còn khá mới mẻ ở các nước đang phát triển,” ông Wycliffe Swanya từ Hiệp hội sản xuất Kenya giải thích. Kenya vàUganda đã soạn thảo các quy định chống hàng giả hàng nhái, nhưng vẫn chưa được thông qua. Ngay cả khi bản dự thảo chính thức trở thành luật thì hàng tiêu dùng giá rẻ cũng sẽ không phải là ưu tiên hàng đầu. Vì nguồn lực có hạn, nên nỗ lực chống hàng giả của cáccơ quan chức năng sẽ tập trung vào các mặt hàng như dược phẩm, thay vì bút bi hay xi đánh giày.



 

Điều đó đồng nghĩa với việc chủ các thương hiệu phải tự tìm cách bảo vệ mình. Sara Lee, Nice, Haco, và nhiều hãng khác thường kiện các nhà nhập khẩu hàng giả theo một mớ hổ lốn các quy định hiện thời. Tuy nhiên, các công ty nhập khẩu thường liên tục đổi chủ sau vài chuyến hàng nên rất khó quy trách nhiệm.

 

Tập đoàn Sara Lee đã phát hiện hàng chục nhà máy ở Trung Quốc sản xuất giả sản phẩm của họ, và cho biết họ đang trong quá trình xử lý vụ việc. Tuy nhiên, có một thực tế là mặc dù đôi khi có thể phát hiện được hàng giả để yêu cầu tịch thu không cho tiêu thụ ra thị trường, lẫn lộn với hàng thật, nhưng Sara hiếm khi tịch thu được thiết bị sản xuất. Chính ông Sander Bakker, giám đốc phu trách chống hàng giả của Sara Lee, đã phải thừa nhận rằng họ không thể hoàn toàn ngăn chặn việc sản xuất hàng giả. Tại Hội chợ Canton Fair, tổ chức 2 năm/lần tại thành phố Quảng Châu của Trung Quốc, Bakker cho biết ông đã trông thấy catalog của các cơ sở sản xuất hàng giả, trong đó có các sản phẩm làm giả nhiều thương hiệu nổi tiếng thế giới.



 

Lãnh đạo công ty Haco ở Uganda cho biết vấn nạn hàng giả có thể sẽ khiến họ phải thuê gia công hàng ngay tại Trung Quốc.

 

Đặng Lê

Theo Business Week



LHQ cảnh báo về vấn đề quyền trẻ em ở châu Phi


Nhân dịp dân số thế giới đã chính thức "cán mốc" 7 tỷ người vào ngày 31/10, Tổ chức quốc tế vì quyền trẻ em - Plan cho biết khoảng 66% trong tổng số trẻ sinh ra tại châu Phi không được đăng ký khai sinh và vì vậy không được hưởng các quyền lợi tối thiểu dành cho trẻ em.

Vấn đề đặt ra đối với các tổ chức quốc tế là cơ quan nào đứng ra đảm nhiệm việc thúc đẩy tiến trình đăng ký khai sinh cho các trẻ sơ sinh tại khu vực Tây Phi hiện nay, trong bối cảnh các quốc gia này đang phải đối phó và quan tâm nhiều vấn đề cấp bách như nạn đói nghèo, thất nghiệp tăng cao và các nguy cơ tiềm ẩn bất ổn về an ninh, xã hội...

Tổ chức trên cho rằng cần phải tiến hành đăng ký khai sinh cho trẻ em tại các quốc gia châu Phi, trước mắt là để quản lý dân số tại một số quốc gia trong khu vực đang có hiện tượng bùng nổ dân số tăng gấp đôi trong vòng 20 năm trở lại đây, trong khi chính phủ các nước này không đưa ra các kế hoạch lâu dài nhằm đáp ứng các nhu cầu về xã hội như nhà ở, cơ sở y tế, trường học và các dịch vụ xã hội khác.

Theo đánh giá của các tổ chức nhân quyền quốc tế hoạt động tại châu Phi, tại hầu hết các quốc gia châu Phi hiện nay, tình trạng trẻ em lớn lên và trưởng thành không được tiếp cận nền giáo dục tốt, và nếu không được đăng ký quyền công dân khi sinh ra thì đa số các em không được hưởng những quyền tối thiểu dành cho trẻ em như công ước quốc tế về quyền trẻ em.



Theo báo cáo về dân số thế giới năm 2011 của Liên hợp quốc, dân số châu Phi sẽ tăng gấp ba lần trong thế kỷ 21 và là khu vực bùng nổ dân số nhanh nhất, thêm hơn một tỷ dân vào tổng dân số toàn cầu trong 35 năm./.

(TTXVN/Vietnam+)

VẤN NẠN HIẾP DÂM ĐANG THỊNH HÀNH Ở PHI CHÂU ĐÃ LÀM TRẦM TRỌNG THÊM ĐẠI DỊCH HIV/AIDS Ở KHU VỰC NÀY



 Bangkok – Một nhóm tranh đấu cho nhân quyền hôm thứ tư nói rằng các nhóm phiến quân ở Sudan, Congo và Uganda đã hãm hiếp hàng ngàn phụ nữ và trẻ gái trong mấy tháng gần đây; đẩy nạn nhân vào nguy cơ thảm khốc là cực kỳ dễ bị nhiễm HIV/AIDS. 
Nhóm Vì Sự Bình Đẳng Của Nữ Giới trong Tiếp Cận với Chăm Sóc và Điều Trị (Women’s Equity in Access to Care and Treatment) cho rằng: “Chính quyền và xã hội phải hành động khẩn cấp để ngăn chặn ngay nạn xâm hại tình dục ở phụ nữ và trẻ gái; một tệ nạn làm tăng nguy cơ nhiễm HIV cho người bị hại. Các nữ nạn nhân ở 3 nước nói trên đang có nhu cầu khẩn thiết được bảo vệ khỏi bị hiếp dâm và giày vò thân xác tiếp nữa. Họ cũng cần được săn sóc y tế khẩn cấp ngay sau khi bị hại; bao gồm thuốc dự phòng nhiễm HIV sau tai họa, tư vấn về nạn cưởng dâm cũng như thực phẩm và chốn nương thân.” 
‘Cổ máy kích xúc tình trạng nhiễm HIV’
Trong báo cáo nghiên cứu về nạn hiếp dâm ở nhiều nước tại Nam Phi, tổ chức nói trên cho rằng nạn của tình trạng xâm hại tình dục có hệ thống do các nhóm phiến loạn thực hiện sẽ làm trầm trọng thêm đại dịch AIDS vốn đang tàn phá khu vực phía Nam của châu Phi. 
Anne-Christine d’Adesky, giám đốc điều hành tổ chức Vì Sự Bình Đẳng Của Nữ Giới trong Tiếp Cận với Chăm Sóc và Điều Trị phát biểu trong một cuộc họp báo bên lề Hội Nghị AIDS Toàn Cầu lần thứ 15 ở Thái Lan rằng: “Hiếp dâm là cổ máy kích xúc tình trạng nhiễm HIV” 
Châu Phi hiện có hơn 25 triệu người đang sống với HIV/AIDS, chiếm hai phần ba tổng số ca nhiễm trên toàn thế giới. 
Nạn hiếp dâm cũng phổ biến ở Rwanda khi nước này bị lôi kéo vào cuộc diệt chủng năm 1994. Tổ chức Vì Sự Bình Đẳng Của Nữ Giới trong Tiếp Cận với Chăm Sóc và Điều Trị ước tính trong số 250 ngàn nạn nhân sống sót sau các vụ hiếp dâm có đến 67% bị nhiễm HIV. Adesky, giám đốc tổ chức nói thêm rằng con số này còn tiếp tục gia tăng khi ngày càng có thêm nhiều phụ nữ bị hiếp đi xét nghiệm HIV.            
Trong khi nạn hiếp dâm có hệ thống dường như đã chấm dứt ở Rwanda thì tình hình chưa có gì khả quan ở Congo, bắc Unganda and Greater Darfer ở Sudan, nơi mà bạo hành đối với nữ giới vẫn đang tiếp diễn.  “Các trường hợp vi phạm nhân quyền đáng nguyền rủa nhất trong thời gian gần đây là trường hợp một số người dùng dao, súng và roi uy hiếp để hiếp dâm một số bé gái mới có 3 tuổi ở Congo”, nhóm Vì Sự Bình Đẳng Của Nữ Giới trong Tiếp Cận với Chăm Sóc và Điều Trị tường trình.
‘Họ chiến đấu để được sống’ 
Beatrice Were, một nhà hoạt động cho công cuộc phòng chống AIDS nói: “Chúng ta thảo luận về thuốc điều trị HIV/AIDS, về kiêng khem quan hệ tình dục, về Ngân Quỹ Toàn Cầu cho phòng chống AIDS (the Global Fund), nhưng khi đề cập đến vấn nạn của phụ nữ và trẻ em tại những nơi có xung đột vũ trang thì 3 vấn đề nói trên chẳng có nghĩa lý gì cả.”
“Đối với phụ nữ trong những vùng chiến sự thì việc chiến đấu của họ là để được sống, để được điều trị. Khó mà tưởng tượng được người dân ở các vùng đó sẽ nhận được thuốc điều trị AIDS bằng cách nào.” Đó là lời của Were, một phụ nữ làm việc cho tổ chức Action Aid ở Uganda. Were bị lây HIV từ chồng. Cô có 2 đứa con. Were cũng kể về nổi thống khổ vô bờ bến của những phụ nữ bị hãm hiếp rồi bị nhiễm HIV ở châu Phi. Were phát biểu: “Bạn có thể tưởng tượng ra được không nỗi đau của một phụ nữ không những bị hiếp mà còn bị nhiễm HIV do hậu quả của chuyện đó? Cô ta phải sống với 2 điều tủi nhục: bị hãm hiếp và bị nhiễm HIV! Và một số nạn nhân của các vụ cưỡng dâm có thai. Làm sao bạn có thể giải thích cho một đứa bé biết nó là con hoang, mẹ nó bị nhiễm HIV và bản thân nó có lẽ cũng đã bị nhiễm nốt.”
Trần Phúchttp://www.reuters.com/ Hậu
Dịch theo bản tin của thông tấn xã Reuters tường trình tại Hội Nghị AIDS toàn cầu lần thứ 15 ở Thái Lan, 14/07/2004





Nam Phi đối mặt với vấn đề béo phì



Béo phì đang trở thành vấn đề sức khỏe cộng đồng lớn ở Nam Phi
Béo phì đang là một vấn đề sức khỏe cộng đồng lớn ở Nam Phi, với 23% nam giới và 57% phụ nữ trên cả nước bị thừa cân, Bộ trưởng Bộ Y tế Manto Tshabalala-Msimang cho biết hôm qua 30-5.

"Lười hoạt động thể chất và ăn uống không lành mạnh đã dẫn đến béo phì", Bộ trưởng Manto Tshabalala-Msimang phát biểu trong một cuộc gặp gỡ giới truyền thông.

Có 70% thanh thiếu niên được phát hiện bị béo phì trong một cuộc khảo sát được tiến hành tại các trường học công vào năm 2002. Khảo sát cũng cho thấy có 25% thanh thiếu niên ở Nam Phi xem truyền hình nhiều hơn ba giờ/một ngày. Các bé gái cũng được ghi nhận có nguy cơ ít vận động cao hơn ở các bé trai.

Ban Sức khỏe nước này cũng đã nhấn mạnh các lo ngại về tình trạng béo phì tại các hoạt động nhân Ngày sức khỏe quốc gia ở Alexandra, Johannesburg.

Một chiến dịch lớn đã được đưa ra, bao gồm khuyến khích dinh dưỡng hợp lý, thường xuyên hoạt động thể chất, chống lạm dụng thức uống có cồn, kiểm soát thuốc lá và tình dục an toàn. Chiến dịch này đã được phát động ở bảy tỉnh của nước này, và Ban Sức khỏe nhấn mạnh rằng hoạt động thể chất là nội dung chính của chương trình.

“Chiến lược của chúng tôi là đẩy mạnh việc tham gia rộng khắp vào hoạt động thể chất. Chúng tôi vận động trẻ em, thiếu niên, thanh niên, người cao tuổi và cả những người tàn tật tham gia các hoạt động thể chất ở bất kỳ môn nào, loại hình nào”, Tshabalala-Msimang nói.



Các nhân viên y tế sẽ tập trung vào những người quá cân hoặc những người có gia đình có tiền sử các bệnh như tiểu đường, tăng huyết áp, vốn là các vấn đề khá phổ biến ở tất cả địa phương. Các yếu tố có nguy cơ gây các bệnh này chính là béo phì và ít hoạt động thể chất.

KIM NHUNG (Theo Xinhua)

tải về 270.26 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương