CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam



tải về 143.93 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu26.07.2016
Kích143.93 Kb.
#6484


CHÍNH PHỦ

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc





BẢN THUYẾT MINH CHI TIẾT

Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều tại các Luật về thuế

(Tài liệu trình kèm Tờ trình Quốc hội số 423/TTr-CP ngày 17/10/2014)

_____________________________________

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa XI, Khóa XII đã thông qua một số Luật: Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 (hiệu lực thi hành từ 01/7/2007), Luật thuế TNCN số 04/2007/QH12 ngày 21/11/2007 (hiệu lực thi hành từ 01/01/2009), Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12 ngày 03/6/2008 (hiệu lực thi hành từ 01/01/2009), Luật thuế TNDN số 14/2008/QH12 ngày 03/6/2014 (hiệu lực thi hành từ 01/01/2009), Luật thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 (hiệu lực từ ngày 01/7/2010).

Trong quá trình thực hiện, các Luật trên đã được sửa đổi, bổ sung. Cụ thể: Luật số 21/2012/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế (hiệu lực thi hành từ 01/7/2013), Luật số 26/2012/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNCN (hiệu lực thi hành từ 01/7/2013), Luật số 31/2013/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT (hiệu lực thi hành từ 01/01/2014), Luật số 32/2013/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNDN (hiệu lực thi hành từ 01/01/2014).

Việc ban hành, sửa đổi, bổ sung các Luật thuế với nhiều thay đổi đánh dấu bước ngoặt mới trong chính sách thuế. Những năm qua, do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, nền kinh tế nước ta và cộng đồng doanh nghiệp phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Nhờ thực hiện các giải pháp của Quốc hội, Chính phủ trong giai đoạn 2012-2014 nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, nền kinh tế đã xuất hiện một số dấu hiệu tích cực. Để tiếp tục phục hồi đà tăng trưởng trong thời gian tới; thực hiện những chính sách hỗ trợ đối với nông nghiệp, nông thôn; tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế và cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý thuế, hải quan thì cần có thêm những chính sách thuế để hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động. Do đó, Chính phủ trình Quốc hội Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều tại các Luật về thuế (sau đây gọi là dự án Luật).

Chính phủ báo cáo thuyết minh dự án Luật như sau:

I. Bố cục của Dự án Luật

Dự án Luật được thiết kế gồm 6 Điều, cụ thể như sau:

Điều 1: Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật thuế TNDN.

Điều 2: Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật thuế TNCN.

Điều 3: Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật thuế GTGT.

Điều 4: Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật thuế tài nguyên.

Điều 5: Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Quản lý thuế.

Điều 6: Hiệu lực thi hành.



II. Nội dung sửa đổi, bổ sung:

1. Về sửa đổi, bổ sung Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN)

a) Bổ sung quy định ưu đãi thuế TNDN đối với doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn

- Luật thuế TNDN hiện hành quy định: miễn thuế TNDN đối với thu nhập của doanh nghiệp từ trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản ở địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; áp dụng thuế suất 10% trong thời gian 15 năm đối với doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (khoản 7 Điều 1 Luật số 32/2013/QH13); và áp dụng thuế suất 10% đối với thu nhập của doanh nghiệp từ: trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng; nuôi trồng nông, lâm, thủy sản ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; sản xuất, nhân và lai tạo giống cây trồng, vật nuôi; sản xuất, khai thác và tinh chế muối1; đầu tư bảo quản nông sản sau thu hoạch, bảo quản nông sản, thủy sản và thực phẩm.

- Luật hiện hành chưa có quy định ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản thực hiện tại địa bàn không thuộc danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn. Quy định này chưa thực sự khuyến khích doanh nghiệp có tiềm lực đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nên không thu hút bỏ vốn đầu tư vào sản xuất nông nghiệp để từ đó có tác dụng lan tỏa nhằm phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm tại chỗ cho người nông dân. Thực tế cho thấy có những doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông sản; nghiên cứu phát triển giống), lâm nghiệp, thủy sản do thực hiện tại các địa bàn không thuộc địa bàn ưu đãi thuế nên chưa được hưởng ưu đãi. Trong khi với điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, nếu tăng cầu sản phẩm các ngành khu vực nông nghiệp và công nghiệp chế biến thực phẩm sẽ có tác động tích cực đối với toàn bộ nền kinh tế.

Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, nhất là kinh nghiệm của các quốc gia có ngành sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp phát triển (Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Philippines, ...) nhất là trong giai đoạn yêu cầu hội nhập quốc tế lớn hiện nay các nước đều có chính sách ưu đãi thuế đối với sản xuất nông nghiệp. Đồng thời, để tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân, thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp, Chính phủ trình Quốc hội bổ sung chính sách ưu đãi thuế TNDN đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp2 như sau: Áp dụng thuế suất 20% đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp (nghiên cứu phát triển giống; trồng trọt, chăn nuôi, chế biến sản phẩm nông nghiệp), lâm nghiệp, thủy sản không thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Từ ngày 01 tháng 01 năm 2016, thu nhập của doanh nghiệp quy định tại khoản này được áp dụng thuế suất 17%.

Nội dung thể hiện tại khoản 3 Điều 1 dự thảo Luật.

b) Bổ sung quy định ưu đãi thuế TNDN đối với công nghiệp hỗ trợ (CNHT)

Phát triển ngành CNHT là giải pháp quan trọng, giúp các ngành sản xuất trong nước chủ động được nguồn nguyên vật liệu, phụ tùng, linh kiện, phụ kiện đầu vào, chủ động lựa chọn được nhà cung cấp, giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành, tăng năng lực cạnh tranh, nhất là tránh được sự lệ thuộc vào nguồn cung nước ngoài là điều kiện quan trọng để hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam trụ vững và phát triển trong hội nhập kinh tế quốc tế; đủ điều kiện để hưởng các ưu đãi về thuế quan khi các hiệp định tự do thương mại đã ký kết và có hiệu lực. Thời gian qua, để khuyến khích phát triển những lĩnh vực trọng tâm của ngành CNHT, Chính phủ đã quyết định một số chính sách ưu đãi, khuyến khích như:

- Quy định các chính sách khuyến khích phát triển CNHT với các ngành cơ khí chế tạo, điện tử - tin học, sản xuất lắp ráp ô tô, dệt may, da giày và CNHT cho phát triển công nghiệp công nghệ cao (Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ngày 24/02/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách phát triển một số ngành CNHT);

- Ban hành Danh mục các sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển (Quyết định số 1483/QĐ-TTg ngày 26/8/2011 của Thủ tướng chính phủ). Theo đó, các dự án sản xuất các sản phẩm thuộc 04 ngành: cơ khí chế tạo, điện tử - tin học, sản xuất lắp ráp ô tô, dệt may, da giày và CNHT cho phát triển công nghiệp công nghệ cao thuộc Danh mục này được xem xét áp dụng cơ chế hỗ trợ thích hợp theo quy định tại Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg.

Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ tại các văn bản nêu trên của Chính phủ mới quy định ưu đãi về thuế nhập khẩu, về khả năng tiếp cận tín dụng. Các ưu đãi về thuế TNDN, ưu đãi về tiền thuê đất, tiền sử dụng đất chưa đủ để khuyến khích doanh nghiệp tăng cường, mở rộng đầu tư phát triển những lĩnh vực CNHT kể trên. Thực tế, theo quy định hiện hành thì lĩnh vực CNHT chưa thuộc lĩnh vực được ưu đãi thuế TNDN.

Qua thống kê, tỷ lệ cung ứng nguyên phụ liệu trong nước của một số ngành kinh tế trọng điểm tại Việt Nam hiện nay rất thấp. Trong 8 tháng đầu năm 2014 kim ngạch nhập khẩu của cả nước là 94,162 tỷ USD (tăng 10,7% so với 8 tháng năm 2013); xuất khẩu là 97,233 tỷ USD (tăng 14,4%); xuất siêu là 3,171 tỷ USD. Riêng đối với thị trường Trung Quốc, tổng kim ngạch nhập khẩu là 27,162 tỷ USD; xuất khẩu sang Trung Quốc là 9,833 tỷ USD; nhập siêu là 17,331 tỷ USD3. Trị giá nhập khẩu của các nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng; nhóm hàng nguyên, phụ liệu (xăng dầu, sắt thép, phân bón, vật liệu dệt may) trong 8 tháng năm 2014 là 36,64 tỷ USD (tăng hơn 20% so với cùng kỳ năm 2013). Trung Quốc tiếp tục là thị trường lớn nhất cung cấp các nhóm hàng này cho Việt Nam trong 8 tháng qua với trị giá là 12,86 tỷ USD (chiếm khoảng 35% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước);

Bên cạnh đó để thực hiện có hiệu quả việc thực hiện các Hiệp định chuẩn bị ký kết (TPP, Việt Nam-EU, Việt Nam - Hàn Quốc,...) yêu cầu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam để được hưởng ưu đãi phải đạt 60-65% nguyên vật liệu phải được sản xuất tại Việt Nam.

Do vậy để góp phần giảm nhập siêu, thực hiện có hiệu quả việc thực hiện các cam kết quốc tế và hiệp định mà Việt Nam đang tham gia đàm phán cũng như tăng cường phát triển sản xuất kinh doanh hàng hóa đảm bảo cạnh tranh thắng lợi tại thị trường trong nước (90 triệu dân - sức mua bình quân 18-20%/năm) thì cần thiết phải có các chính sách phát triển lĩnh vực CNHT, để CNHT trợ dần trở thành trụ cột thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước, Chính phủ trình Quốc hội bổ sung lĩnh vực sản xuất sản phẩm CNHT được áp dụng ưu đãi thuế TNDN như sau: Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển được áp dụng thuế suất 10% trong 15 năm, miễn thuế trong 04 năm và được giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo; trường hợp đầu tư mở rộng sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển quy định tại khoản này nếu đáp ứng một trong ba tiêu chí về đầu tư mở rộng quy định tại Luật thuế TNDN số 32/2013/QH13 thì được hưởng ưu đãi thuế (cả thuế suất và thời gian miễn, giảm) theo dự án đang hoạt động cho thời gian còn lại (nếu có).

Đồng thời, để chính sách ưu đãi thuế đối với CNHT khuyến khích đúng các sản phẩm CNHT cần ưu tiên sản xuất, qua đó phát huy lợi thế cạnh tranh, khả năng sản xuất trong nước và tiềm năng xuất khẩu, khả năng tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu hay tham gia chuỗi sản xuất cung ứng sản phẩm/thiết bị cho các công ty đa quốc gia. Theo đó Chính phủ trình Quốc hội quy định tại dự thảo Luật các tiêu chí, nguyên tắc xác định sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển được ưu đãi thuế để áp dụng cho những dự án đầu tư sản xuất sản phẩm CNHT như sau:

- Sản phẩm CNHT cho công nghệ cao theo quy định của Luật công nghệ cao;

- Sản phẩm CNHT cho sản xuất sản phẩm cơ khí chế tạo và sản phẩm CNHT cho linh kiện điện tử, phụ tùng, cơ khí ô tô là sản phẩm tính đến ngày 01 tháng 01 năm 2015 trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng chưa đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng, kỹ thuật;

- Sản phẩm CNHT cho dệt may, da giày là những sản phẩm phụ tùng, linh kiện, phụ kiện mà tính đến ngày 01 tháng 01 năm 2015 trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng chưa đạt được tiêu chuẩn chất lượng, kỹ thuật.

Trên cơ sở các tiêu chí nêu trên, tùy theo tình hình phát triển kinh tế - xã hội, giao Chính phủ quy định cụ thể Danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển cho phù hợp.

Nội dung thể hiện tại khoản 2 Điều 1 dự thảo Luật.

c) Bổ sung quy định ưu đãi thuế đối với dự án đầu tư có quy mô vốn đầu tư tối thiểu 12.000 (mười hai nghìn) tỷ đồng và phạm vi tác động sâu, rộng tới kinh tế - xã hội

Luật thuế TNDN số 32/2013/QH13 (điểm 1 khoản 7 và điểm 1 khoản 8 Điều 1) quy định áp dụng thuế suất 10% trong 15 năm, miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo đối với thu nhập có được từ thực hiện các dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực ưu đãi4 và đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới trong lĩnh vực sản xuất có quy mô vốn đầu tư tối thiểu 6 nghìn tỷ đồng (trừ dự án sản xuất mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), dự án khai thác khoáng sản) đáp ứng một trong hai tiêu chí: giải ngân không quá 3 năm kể từ khi được cấp phép đầu tư và có tổng doanh thu tối thiểu đạt 10 nghìn tỷ đồng/năm chậm nhất sau 3 năm kể từ năm có doanh thu hoặc giải ngân không quá 3 năm kể từ khi được cấp phép đầu tư và sử dụng trên 3.000 lao động chậm nhất sau 3 năm kể từ năm có doanh thu.

Qua tổng kết cho thấy đến nay cả nước có 123 dự án FDI đã được cấp phép còn hiệu lực có quy mô vốn đầu tư trên 6.000 tỷ đồng đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký 139 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 57% tổng vốn đầu tư của tất cả dự án FDI cả nước. Trong đó có 63 dự án FDI có quy mô vốn trên 12.000 tỷ đồng với tổng số vốn đầu tư FDI 116,3 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 48% tổng vốn đầu tư của tất cả dự án FDI cả nước, tập trung vào một số lĩnh vực sản xuất thép, lọc hóa dầu, điện tử, viễn thông, sản xuất điện khoảng 47 dự án do doanh nghiệp nhà nước làm chủ đầu tư (trong đó có 38 dự án đã cấp phép đầu tư và đi vào hoạt động, 9 dự án đang làm thủ tục đầu tư (bao gồm lĩnh vực sản xuất điện 24 dự án, lọc hóa dầu có 3 dự án và lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật khoảng 20 dự án).

Ngoài ra, hiện nay còn 15 dự án BOT nhiệt điện có vốn đầu tư nước ngoài có quy mô vốn trên 12.000 tỷ đồng đang trong quá trình chờ phê duyệt chọn chủ đầu tư và/hoặc trong giai đoạn đàm phán hợp đồng BOT.

Thực tế thực hiện quy định của Luật hiện hành cho thấy, một số dự án đầu tư có tổng quy mô vốn đầu tư lớn hơn mức 6 nghìn tỷ đồng, có tác động lớn tới kinh tế - xã hội (như dự án đầu tư sản xuất điện; dự án lọc, hóa dầu; dự án sản xuất công nghiệp nặng quy mô lớn; dự án đầu tư của các tập đoàn lớn có quy mô xuất khẩu cao...) chỉ được ưu đãi tối đa theo mức nêu trên và nếu đáp ứng điều kiện về công nghệ cao thì mới được Thủ tướng Chính phủ xem xét cho kéo dài thời gian áp dụng thuế suất 10% tối đa thêm 15 năm. Tuy nhiên, qua thực hiện thấy rằng đối với các trường hợp quy mô vốn đầu tư lớn, đòi hỏi cả điều kiện công nghệ cao là chưa phù hợp với thực tế vì tiêu chí xác định doanh nghiệp công nghệ cao còn phức tạp và còn có nhiều cách hiểu khác nhau do tại thời điểm cấp phép đầu tư là công nghệ cao nhưng thời gian ngắn sau đó (1- 2 năm) lại không còn là công nghệ cao nên những dự án tương tự đầu tư sau 1-2 năm sẽ không được công nhận là doanh nghiệp công nghệ cao; bên cạnh đó doanh nghiệp đầu tư quy mô lớn, có doanh số lớn (2-3 tỷ USD/năm, sử dụng hàng chục ngàn lao động). Theo quy định của Luật công nghệ cao phải có ít nhất 5% tổng số lao động của doanh nghiệp có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên trực tiếp thực hiện nghiên cứu và phát triển, doanh thu bình quân của doanh nghiệp trong 3 năm liền từ sản phẩm công nghệ cao phải đạt ít nhất 60% trong tổng doanh thu hằng năm, từ năm thứ tư trở đi phải đạt 70% trở lên là quá cao so với nhu cầu thực tế, trong khi dự án quy mô lớn là những nhà đầu tư chiến lược, làm ăn lâu dài cần thời gian dài (thường trên 15 năm) mới thu hồi được vốn đầu tư và phát triển.

Trong bối cảnh có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài giữa các nước trong khu vực như Inđônexia, Ấn Độ, Thái Lan, Mianma ... do đó để thu hút các dự án đầu tư có quy mô vốn lớn, tác động sâu, rộng đến kinh tế - xã hội của địa phương hoặc vùng kinh tế, Chính phủ trình Quốc hội bổ sung quy định thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp (trừ dự án sản xuất mặt hàng chịu thuế TTĐB, dự án khai thác khoáng sản) có quy mô vốn đầu tư tối thiểu mười hai nghìn tỷ đồng, sử dụng công nghệ phải được thẩm định theo quy định của pháp luật về khoa học và công nghệ và thực hiện giải ngân tổng vốn đầu tư đăng ký không quá 5 năm kể từ khi được cấp phép đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài và từ ngày chấp thuận chủ trương đầu tư đối với nhà đầu tư trong nước được áp dụng thuế suất ưu đãi 10% trong 15 năm, miễn thuế trong 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo. Đối với dự án cần đặc biệt thu hút đầu tư (sử dụng công nghệ tiên tiến trong nước chưa sản xuất được hoặc công nghệ tiên tiến lần đầu áp dụng tại Việt Nam hoặc tại khu vực Đông Nam Á hoặc sản xuất sản phẩm hàng hóa có khả năng cạnh tranh toàn cầu, doanh thu đạt trên 20.000 tỷ/năm chậm nhất sau 5 năm kể từ khi có doanh thu hoặc doanh nghiệp chế xuất sử dụng trên 6.000 lao động thường xuyên hoặc doanh nghiệp đầu tư thuộc lĩnh vực hạ tầng kinh tế kỹ thuật (đầu tư phát triển nhà máy nước, nhà máy điện, hệ thống cấp thoát nước; cầu, đường bộ, đường sắt; cảng hàng không, cảng biển, cảng sông; sân bay, nhà ga, năng lượng mới, năng lượng sạch; công nghiệp tiết kiệm năng lượng; dự án lọc hóa dầu và công trình cõ sở hạ tầng ðặc biệt quan trọng khác do Thủ týớng Chính phủ quyết ðịnh)) thì được xem xét kéo dài thêm thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi 10% nhưng tối đa không quá 15 năm.

Việc bổ sung quy định ưu đãi thuế đối với các dự án đầu tư quy mô vốn lớn như nêu trên còn có vai trò quan trọng trong việc phát triển các doanh nghiệp vệ tinh là doanh nghiệp nhỏ và vừa, các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm CNHT. Đồng thời để tăng cường quản lý, Chính phủ sẽ quản lý chặt chẽ hoạt động xuất nhập khẩu, chuyển giao công nghệ để ngăn chặn tình trạng nhà đầu tư đưa máy móc thiết bị đã qua sử dụng hoặc công nghệ lạc hậu vào Việt Nam.

Nội dung thể hiện tại khoản 2 và khoản 4 Điều 1 dự thảo Luật.

d) Sửa đổi quy định khống chế đối với chi quảng cáo, khuyến mại

Khoản 5 Điều 1 Luật số 32/2013/QH13 quy định không tính vào chi phí được trừ đối với: Phần chi quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới, tiếp tân, khánh tiết, hội nghị, hỗ trợ tiếp thị, hỗ trợ chi phí liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh vượt quá 15% tổng số chi được trừ.

Trong bối cảnh kinh tế ngày càng phải cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải tăng cường quảng bá, giới thiệu sản phẩm để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, chiếm lĩnh thị trường. Việc thực hiện khống chế chi phí quảng cáo đã hạn chế doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có quy mô kinh doanh vừa và nhỏ trong việc phát triển thị trường; các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp đều có kiến nghị xem xét bỏ tỷ lệ khống chế này.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy các nước đều không khống chế mức chi quảng cáo (trừ Trung Quốc) vì cho rằng chi phí quảng cáo, khuyến mãi là chi phí thông thường. Việc giới hạn chi phí quảng cáo, khuyến mãi khiến cho doanh nghiệp bị hạn chế khả năng cạnh tranh trong phát triển thương hiệu và cơ hội kinh doanh cả ở thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu và từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Để phù hợp với thực tiễn, phản ánh đúng bản chất của khoản chi, Chính phủ đề nghị bỏ quy định khống chế khoản chi quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới, tiếp tân, khánh tiết, hội nghị, hỗ trợ tiếp thị, hỗ trợ chi phí liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh. Theo đó, doanh nghiệp thực hiện chi quảng cáo, khuyến mại nếu có đủ hóa đơn, chứng từ theo quy định thì được tính trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN.

Nội dung thể hiện tại khoản 1 Điều 1 dự thảo Luật.

đ) Bổ sung quy định đối với phần thu nhập từ các dự án đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài chuyển về Việt Nam

Hiện nay Việt Nam đã ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với trên 60 nước. Các Hiệp định đã ký có quy định trường hợp một doanh nghiệp của Việt Nam khi nhận được các khoản thu nhập từ đầu tư ở Nước ký kết thì số thuế đã nộp tại Nước ký kết phù hợp với các quy định của Hiệp định được trừ khi xác định số thuế mà doanh nghiệp đó phải nộp tại Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và một số nước đang trong quá trình đàm phán hoặc chưa bắt đầu đầu đàm phán.

Luật thuế TNDN, các văn bản hướng dẫn của Chính phủ cũng đã có quy định doanh nghiệp đã nộp thuế thu nhập đối với thu nhập phát sinh ở nước ngoài thì khi xác định số thuế phải nộp tại Việt Nam được trừ số thuế thu nhập đã nộp ở nước ngoài; trường hợp Hiệp định tránh đánh thuế trùng mà Việt Nam đã ký với nước có quy định khác thì thực hiện theo Hiệp định; trường hợp số thuế TNDN đã nộp ở nước ngoài thấp hơn số thuế TNDN phải nộp tính theo Luật thuế TNDN ở Việt Nam thì doanh nghiệp phải nộp ngân sách bổ sung phần chênh lệch.

Phần lớn các quốc gia và vùng lãnh thổ cũng như các lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam có thuế suất thuế TNDN lớn hơn 22%. Nếu thực hiện theo tinh thần Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần thì số thuế TNDN nộp cho nhà nước Việt Nam chỉ phải thực hiện đánh trên số phần trăm chênh lệch giữa thuế suất thuế TNDN của Việt Nam so với các nước có mức thuế suất thấp hơn (ví dụ: Singapore 18%, Lào quy định lĩnh vực xăng dầu áp dụng thuế suất 20%...). Vì vậy, để khuyến khích hợp lý doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài chuyển thu nhập về Việt Nam, Chính phủ trình Quốc hội bổ sung vào khoản 2 Điều 1 Luật số 32/2013/QH13 nội dung: đối với các nước đã ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần thì thực hiện theo quy định của Hiệp định; đối với các nước chưa ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần thì trường hợp thuế thu nhập doanh nghiệp ở các nước mà doanh nghiệp đầu tư chuyển về có mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn thì thu phần chênh lệch so với số thuế thu nhập doanh nghiệp tính theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam; đối với các nước có thuế suất bằng hoặc cao hơn thì không thu thuế thu nhập doanh nghiệp.

Nội dung thể hiện tại khoản 5 Điều 1 dự thảo Luật.

e) Bổ sung quy định nguyên tắc áp dụng ưu đãi thuế TNDN

Để đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế, những quy định về ưu đãi thuế TNDN đối với địa bàn đầu tư, đối với lĩnh vực đầu tư thời gian qua luôn có sự sửa đổi, bổ sung (Luật thuế TNDN năm 2003 (thực hiện từ 2004 - 2008), Luật thuế TNDN năm 2008 (thực hiện từ 2009 - 2013); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNDN (thực hiện từ ngày 01/01/2014); việc áp dụng Luật tại các thời điểm chuyển tiếp còn phức tạp, gây không ít khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp và cả cơ quan thuế, cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư.

Để khắc phục các bất cập hiện hành, đảm bảo tính nhất quán của chính sách thuế TNDN, tính đồng bộ với những quy định của Luật Đầu tư, Chính phủ trình Quốc hội bổ sung quy định có tính chất nguyên tắc áp dụng ưu đãi thuế TNDN khi Nhà nước sửa đổi, bổ sung ưu đãi thuế TNDN thay cho khổ đầu tiên của khoản 3 Điều 2 Luật thuế TNDN số 32/2013/QH13 như sau: Doanh nghiệp có dự án đầu tư được hưởng ưu đãi thuế TNDN theo quy định của pháp luật thuế TNDN tại thời điểm cấp phép hoặc cấp giấy chứng nhận đầu tư. Trường hợp pháp luật thuế TNDN có thay đổi mà doanh nghiệp đáp ứng điều kiện ưu đãi thuế theo quy định của pháp luật mới được sửa đổi, bổ sung thì doanh nghiệp được quyền lựa chọn hưởng ưu đãi về thuế suất và về thời gian miễn thuế, giảm thuế theo quy định của pháp luật tại thời điểm cấp phép hoặc theo quy định của pháp luật mới được sửa đổi, bổ sung cho thời gian còn lại kể từ khi pháp luật thuế TNDN sửa đổi, bổ sung có hiệu lực thi hành.

Nội dung thể hiện tại khoản 6 Điều 1 dự thảo Luật.

2. Về sửa đổi, bổ sung Luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN)

a) Bổ sung quy định miễn thuế TNCN đối với cá nhân Việt Nam là thuyền viên làm thuê cho các hãng tàu nước ngoài và tàu Việt Nam vận tải quốc tế

- Luật thuế TNCN hiện hành quy định “Thu nhập của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản chưa qua chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường” là thu nhập được miễn thuế TNCN (khoản 5 Điều 4). Như vậy đối với các chủ tàu trực tiếp khai thác thủy sản xa bờ, Luật thuế TNCN đã quy định miễn thuế TNCN, tuy nhiên tàu dịch vụ hậu cần nghề cá cung cấp nước ngọt, xăng dầu ... cho tàu đánh cá đang được khuyến khích phát triển nhưng chưa có quy định miễn thuế TNCN đối với chủ tàu này.

- Qua công tác quản lý thuế, một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động trong đó có các thuyền viên kiến nghị quy định hiện hành về thuế TNCN đã làm giảm sức cạnh tranh của lao động là thuyền viên Việt Nam. Cụ thể: cá nhân Việt Nam là thuyền viên làm việc cho các hãng tàu Việt Nam vận tải quốc tế là đối tượng đặc thù thường không hiện diện ở nước nào quá 183 ngày nên không là đối tượng cư trú của nước ngoài. Theo Luật thuế TNCN sẽ là đối tượng cư trú của Việt Nam và nộp thuế trên thu nhập toàn cầu. Mặt khác, đối với cá nhân là thuyền viên làm việc cho hãng tàu nước ngoài, cùng mức lương được chủ tàu trả thì thu nhập thực nhận của thuyền viên người Việt Nam thường thấp hơn so với thuyền viên nước ngoài do chịu thuế TNCN hoặc do chủ tàu phải trả thuế TNCN cho thuyền viên Việt Nam trong khi nhiều nước có quy định không thu thuế TNCN hoặc thu thấp hơn đối với thu nhập của thuyền viên dẫn đến các chủ tàu không mặn mà với việc tuyển dụng thuyền viên là người Việt Nam.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, có nước quy định một số khoản thu nhập được miễn thuế (trong đó có thu nhập từ làm thuê cho hãng tàu nước ngoài có ràng buộc về thời gian làm việc trên tàu nếu nhiều hơn 182 ngày trong năm (Anh, Ấn Độ, Úc, Litva…), có nước cho phép giảm trừ một khoản khi xác định thu nhập tính thuế (Ailen cho giảm trừ 6.350 EUR nếu thuyền viên làm việc trên tàu trên 161 ngày/năm).

Để tháo gỡ khó khăn và tạo cơ hội cho lao động Việt Nam là thuyền viên làm việc cho các hãng tàu vận tải quốc tế, từ đó góp phần phát triển dịch vụ xuất khẩu, lao động, đảm bảo sự công bằng với người lao động là thuyền viên làm thuê cho các hãng tàu nước ngoài hoặc các hãng tàu Việt Nam vận tải trên các tuyến quốc tế; đồng thời để khuyến khích chủ tàu là cá nhân cung cấp các dịch vụ hậu cần phục vụ cho hoạt động khai thác thủy sản đảm bảo các điều kiện cần thiết cho ngư dân bám biển góp phần đảm bảo an ninh trên biển, bảo vệ chủ quyền biển đảo, Chính phủ trình Quốc hội cho phép miễn thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của thuyền viên là người Việt Nam nhận được do làm thuê cho các hãng tàu nước ngoài hoặc các hãng tàu Việt Nam vận tải quốc tế và thu nhập của cá nhân là chủ tàu từ hoạt động cung cấp hàng hóa, dịch vụ trực tiếp phục vụ hoạt động khai thác thủy sản xa bờ.

Nội dung thể hiện tại khoản 2 Điều 2 dự thảo Luật.

b) Về thuế TNCN đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản và chuyển nhượng chứng khoán

Theo Luật thuế TNCN hiện hành thì:

- Đối với chuyển nhượng bất động sản: Luật quy định 2 phương pháp thu thuế theo thuế suất 25% trên thu nhập (giá bán trừ giá vốn và các chi phí liên quan) và nộp thuế 2% trên giá bán nếu không xác định được giá vốn, các chi phí liên quan và có chứng từ chứng minh.

- Đối với chuyển nhượng chứng khoán thì: Luật quy định 2 phương pháp thu thuế theo thuế suất 20% trên thu nhập năm (giá bán - giá mua và các chi phí liên quan), nếu không xác định được giá vốn, các chi phí liên quan và có chứng từ chứng minh thì nộp thuế 0,1% trên giá bán từng lần. Trường hợp cá nhân áp dụng kỳ tính thuế theo năm thì mỗi lần chuyển nhượng cá nhân tạm nộp thuế TNCN 0,1% trên giá bán chứng khoán từng lần, cuối năm quyết toán được trừ số thuế đã tạm nộp trong năm.

Căn cứ quy định của Luật thuế TNCN, Chính phủ đã quy định cá nhân nếu cung cấp được hồ sơ chứng minh được giá vốn và các chi phí liên quan thì được áp dụng thuế suất 25% trên thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, nếu cá nhân không xác định hoặc không có hồ sơ để xác định giá vốn và chứng từ chứng minh các chi phí liên quan thì áp dụng thuế suất 2% trên giá bán. Đối với chuyển nhượng chứng khoán, đến cuối năm nếu cá nhân chuyển nhượng chứng khoán có yêu cầu quyết toán thuế theo thuế suất 20% trên thu nhập thì thực hiện khai quyết toán thuế trực tiếp với cơ quan thuế.

Tuy nhiên, để minh bạch về chính sách, tránh vướng mắc trong thực hiện và cải cách về thủ tục hành chính, Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 13, 14 Luật thuế TNCN hiện hành theo hướng cá nhân chuyển nhượng bất động sản nộp thuế 2% trên giá bán từng lần chuyển nhượng và cá nhân chuyển nhượng chứng khoán nộp thuế 0,1% trên giá bán chứng khoán từng lần chuyển nhượng.

Theo đó nội dung thể hiện tại khoản 4, 5, 8 Điều 2 dự thảo Luật.

c) Về thuế TNCN đối với thu nhập từ trúng thưởng trong casino

Theo quy định của Luật thuế TNCN (điểm c khoản 6 Điều 3 và điểm c, khoản 2 Điều 23) thì thu nhập từ trúng thưởng hoặc hình thức cá cược, casino là thu nhập chịu thuế TNCN với thuế suất 10% trên phần thu nhập trúng thưởng vượt trên 10 triệu đồng. Trong thực tế không thể xác định được mức thu nhập từ trúng thưởng của người chơi. Ngoài ra, do hình thức kinh doanh casino thuộc loại hình kinh doanh có điều kiện đặc biệt nên mức điều tiết về thuế TNDN, thuế TTĐB là cao hơn so với các ngành kinh doanh khác (thuế GTGT 10%, thuế TTĐB 30%5, thuế TNDN 22%). So với các nước trong khu vực và trên thế giới thì Việt Nam đang là nước có mức động viên về thuế (tính chung các sắc thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế TNDN) đối với hoạt động casino ở mức cao (Macao quy định tổng các khoản thu đối với casino khoảng 37% trên doanh thu, trong đó thu vào ngân sách là 35% và thu vào quỹ phúc lợi địa phương là 2%).

Kinh nghiệm của nhiều nước và vùng lãnh thổ cho thấy các nước không thu thuế TNCN đối với cá nhân trúng thưởng casino (Singapore, Philippin, Lào, Malaysia, Macao ...). Đồng thời phương thức quản lý đối với đối tượng này cũng đảm bảo chặt chẽ, cơ quan thuế giám sát trực tiếp các hoạt động thu ngân bằng tiền mặt, các máy trò chơi nối mạng trực tuyến (online) với cơ quan thuế; thuế thu đối với doanh nghiệp kinh doanh casino được ấn định cụ thể bằng tỷ lệ % trên doanh thu do trên thực tế khó xác định thu nhập chịu thuế từ casino do không phân định được chi phí liên quan đến thu nhập chịu thuế của hoạt động casino và chi phí liên quan đến hoạt động chung của doanh nghiệp.

Để phù hợp với bản chất của thuế TNCN (thu trên thu nhập), phù hợp với thông lệ quốc tế và đảm bảo phòng, chống thất thu ngân sách nhà nước đối với loại hình này, Chính phủ trình Quốc hội xem xét bỏ quy định thu thuế TNCN đối với cá nhân trúng thưởng trong casino, đồng thời điều chỉnh tăng mức thuế suất thuế TTĐB đối với kinh doanh casino từ 30% hiện nay lên mức 35% đã được Chính phủ trình Quốc hội tại Dự án Luật thuế TTĐB thông qua tại kỳ họp này và giao Chính phủ chỉ đạo cơ quan thuế giám sát, quản lý trực tiếp doanh số và quy định về tỷ lệ ấn định tỷ lệ thuế TNDN trên doanh thu. Theo đó, nội dung thể hiện tại khoản 1 Điều 2 dự thảo Luật như sau: “Sửa đổi điểm c Khoản 6 Điều 3 Luật số 04/2007/QH11 như sau: “c) Trúng thưởng trong các hình thức cá cược”.

d) Về thuế TNCN đối với hộ, cá nhân kinh doanh

Theo quy định hiện hành thì hộ, cá nhân kinh doanh ngoài việc phải chịu thuế gián thu còn phải chịu thuế TNCN. Thuế TNCN đối với hộ, cá nhân kinh doanh đang áp dụng quy trình tính thuế phức tạp như: trường hợp cá nhân kinh doanh chưa thực hiện được chế độ kế toán, không xác định được thu nhập chịu thuế thì cơ quan thuế ấn định thu nhập, sau đó lại xác định thu nhập tính thuế trên cơ sở tính giảm trừ gia cảnh để áp dụng biểu thuế luỹ tiến, cuối năm phải quyết toán thuế (theo thẩm quyền của Chính phủ cũng đã ban hành một số quy định bỏ phải quyết toán thuế đối với trường hợp cá nhân hoạt động đại lý bảo hiểm, đại lý xổ số, bán hàng đa cấp). Trên thực tế đại bộ phận hộ, cá nhân kinh doanh không thực hiện chế độ kế toán nên phải thực hiện ấn định thu nhập chịu thuế.

Thực tế cho thấy công tác quản lý thuế đối với hộ, cá nhân kinh doanh nói chung hiện nay rất phức tạp, tiêu tốn nhân lực nhưng không hiệu quả. Tổng số thu từ nhóm hộ, cá nhân kinh doanh chỉ chiếm khoảng 2% tổng thu (trừ dầu) nhưng tổng số nhân lực ngành thuế để quản lý đối tượng này lên đến 60%. Mặc dù ngành thuế đã thực hiện việc công khai thông tin hộ khoán trước và sau khi ấn định thuế. Tuy nhiên, do chính sách thuế phức tạp nên cá nhân cũng không thể tự biết được việc tính thuế như thế nào để xác định số thuế mình phải nộp. Việc công khai minh bạch về chính sách thuế đối với cá nhân kinh doanh cũng không đạt hiệu quả.

Vì vậy, có nhiều ý kiến đề nghị cần quy định tỷ lệ trên doanh thu để đảm bảo đơn giản, minh bạch hộ, cá nhân tự xác định được mức thuế của mình có như vậy mới tạo điều kiện cho người nộp thuế, người dân có điều kiện giám sát việc thực hiện của cơ quan thuế.

Do đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế và giảm gánh nặng quản lý đối với cơ quan thuế, Chính phủ trình Quốc hội xem xét sửa đổi quy định về thuế khoán đối với hộ, cá nhân kinh doanh theo hướng đơn giản để cá nhân có thể tự khai, tự nộp, theo hướng Luật bổ sung nguyên tắc thu thuế khoán đối hộ, cá nhân kinh doanh, giao Chính phủ quy định mức thuế khoán chi tiết đối với từng lĩnh vực, ngành nghề sản xuất kinh doanh.

Thực hiện theo đề xuất này đảm bảo đơn giản, giảm thủ tục khai, nộp thuế cho cá nhân và những đối tượng có thu nhập thấp cũng không phải nộp thuế TNCN (Nội dung thể hiện tại khoản 3, 6, 7, 9, 10, 11 Điều 2 dự thảo Luật).

3. Về sửa đổi, bổ sung Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT)

a) Theo Luật thuế GTGT (Điều 5 và Điều 12) thì dịch vụ dạy học, dạy nghề và dịch vụ y tế, dịch vụ thú y, duy trì vườn thú, vườn hoa, công viên, cây xanh đường phố, chiếu sáng công cộng, thuỷ sản đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân tự đánh bắt bán ra thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT, đồng thời cơ sở kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT không được khấu trừ và hoàn thuế GTGT đầu vào.

Với quy định trên thì thuế GTGT đầu vào của hàng hoá là tài sản cố định của trường học, bệnh viện và thuế GTGT đầu vào của tàu dùng đánh bắt cá không được kê khai, khấu trừ mà phải hạch toán vào nguyên giá tài sản cố định để trích khấu hao tính vào chi phí hoặc phân bổ vào chi phí, tính vào giá thành dịch vụ hoặc giá thành thủy sản.

Thực hiện các quy định trên, doanh nghiệp, tổ chức có dự án đầu tư hoạt động XHH trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường và tàu đánh cá xa bờ cho rằng quy định không được khấu trừ hoặc hoàn thuế GTGT đầu vào đối với hàng hoá là tài sản cố định của các dự án đầu tư khiến cho giá thành dịch vụ, hàng hóa còn cao dẫn đến người dân có thu nhập thấp khó tiếp cận với các dịch vụ giáo dục, dịch vụ khám chữa bệnh, văn hóa, thể thao ... đặc biệt là các dịch vụ được cung cấp từ khu vực ngoài nhà nước khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn. Cụ thể theo quy định của pháp luật hiện hành khi thực hiện chính sách khuyến khích XHH, Nhà nước có nhiệm vụ giao đất, cho thuê đất đã hoàn thành giải phóng mặt bằng đối với cơ sở thực hiện XHH phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; có chính sách hỗ trợ kinh phí bồi thường, giải phóng mặt bằng đối với các dự án đầu tư trong lĩnh vực XHH đã tự thực hiện công tác đền bù, giải phóng mặt bằng cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, thực tế có nhiều dự án đầu tư thuộc lĩnh vực XHH có quy mô lớn nhưng nhà đầu tư phải tự bỏ kinh phí để thực hiện giải phóng mặt bằng. Bên cạnh đó thuế GTGT đầu vào của tài sản cố định thực hiện dự án lại không được kê khai, khấu trừ mà phải hạch toán vào nguyên giá tài sản cố định để trích khấu hao tính vào chi phí hoặc phân bổ vào chi phí, tính vào giá thành dịch vụ làm giá dịch vụ tăng cao, khiến cho nhiều người dân không đủ khả năng tiếp cận với các dịch vụ XHH; đồng thời gây ảnh hưởng đến khả năng tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp, tổ chức kiến nghị Nhà nước sớm sửa đổi các quy định nêu trên.

b) Đối với sản xuất phân bón và thức ăn chăn nuôi công nghiệp: theo Luật thuế GTGT hiện hành thì (i) thức ăn tự nhiên là loại từ sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản nuôi trồng, đánh bắt chưa qua chế biến của tổ chức, cá nhân tự sản xuất, đánh bắt bán ra và ở khâu nhập khẩu không chịu thuế GTGT (khoản 1, Điều 5 Luật thuế GTGT); (ii) thức ăn chăn nuôi công nghiệp phân bón áp dụng thuế suất 5% (khoản 2, Điều 8 Luật thuế GTGT) và khi đó cơ sở sản xuất kinh doanh thức ăn chăn nuôi, sản xuất phân bón được kê khai, khấu trừ hoặc hoàn thuế GTGT đầu vào của máy móc, thiết bị, điện, nước,... sử dụng cho sản xuất hàng hóa chịu thuế.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy nhiều nước trên thế giới có quy định các sản phẩm thiết yếu cho ngành sản xuất nông nghiệp như thức ăn chăn nuôi, phân bón thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Nhiều nước áp dụng chính sách thuế GTGT ưu đãi đối với nhóm các mặt hàng thiết yếu này. Cụ thể:

- Đối với thức ăn chăn nuôi: theo thống kê 78 quốc gia và vùng lãnh thổ cho thấy có 3 quốc gia quy định áp dụng mức thuế suất 0% đối với thức ăn chăn nuôi, mức thuế suất dưới 10% có 26 quốc gia, từ 10% trở lên có 37 quốc gia và có 12 quốc gia có quy định mặt hàng thức ăn chăn nuôi thuộc diện không chịu thuế GTGT, trong đó có Thái Lan và Indonesia.

- Đối với phân bón: có 10 quốc gia có mức thuế suất 0%, mức thuế suất dưới 10% có 50 quốc gia, và từ 10% trở lên có 19 quốc gia. Trong 79 quốc gia và vùng lãnh thổ có 12 quốc gia có quy định mặt hàng phân bón thuộc diện không chịu thuế GTGT.

Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế nhất là những quốc gia có ngành sản xuất sản phẩm nông nghiệp phát triển (Thái Lan, Hàn Quốc, Philippines, Trung Quốc) nhất là trong giai đoạn yêu cầu hội nhập quốc tế lớn hiện nay, để góp phần khuyến khích phát triển sản xuất sản phẩm nông nghiệp, đồng thời để tháo gỡ khó khăn, góp phần thúc đẩy XHH, tạo điều kiện cho chủ tàu khai thác thủy sản phục vụ việc bám biển, Chính phủ trình Quốc hội cho sửa đổi, bổ sung chính sách thuế GTGT đối với mặt hàng thức ăn chăn nuôi, phân bón và đối với hàng hóa mua vào hoặc nhập khẩu tạo tài sản cố định của dự án đầu tư thực hiện XHH trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, dự án sản xuất phân bón, sản xuất thức ăn chăn nuôi và tàu đóng mới hoặc nâng cấp dùng để khai thác thủy sản xa bờ như sau: chuyển mặt hàng phân bón, thức ăn chăn nuôi công nghiệp từ đối tượng chịu thuế GTGT với mức thuế suất 5% hiện nay sang đối tượng không chịu thuế GTGT. Hàng hoá mua vào hoặc nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự án đầu tư sản xuất phân bón, thức ăn chăn nuôi và của dự án xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường, tàu đóng mới hoặc nâng cấp dùng để khai thác thủy sản xa bờ được khấu trừ hoặc hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào.

Nội dung sửa đổi, bổ sung thể hiện tại Điều 3 dự thảo Luật.

4. Về sửa đổi, bổ sung Luật thuế tài nguyên

Khoản 5 Điều 9 Luật thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2010) quy định: Miễn thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên dùng cho nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp.

Trong quá trình thực hiện không phát sinh vướng mắc, tuy nhiên, trong quan hệ thương mại với nước ngoài đã có tranh chấp về mặt pháp lý6.

Để giải quyết vướng mắc trong quan hệ thương mại với các nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, đồng thời đảm bảo cũng như ổn định đời sống người nông dân, khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, Chính phủ trình Quốc hội cho sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 7 Điều 2, khoản 5 Điều 9 Luật thuế tài nguyên từ miễn thuế đối với nước thiên nhiên dùng cho nông, lâm, ngư, diêm nghiệp bằng quy định không thu thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên dùng cho nông, lâm, ngư, diêm nghiệp.

Nội dung thể hiện tại Điều 4 dự thảo Luật.

5. Về sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế

Để cải cách thủ tục hành chính thuế, tạo thuận lợi cho người nộp thuế và góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, Chính phủ đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và chú trọng đẩy mạnh cải cách những thủ tục hành chính có liên quan đến lĩnh vực thuế, hải quan hướng tới giảm thời gian kê khai, nộp thuế. Do đó, để tiếp tục đơn giản về thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người nộp thuế, phù hợp thông lệ quốc tế, Chính Phủ trình Quốc hội cho thực hiện một số nội dung sau:

a) Bỏ Bảng kê hóa đơn hàng hóa mua vào, bán ra trong Hồ sơ khai thuế:

Theo Luật Quản lý thuế (Khoản 1 Điều 31 Luật số 78/2006/QH11 và khoản 8 Điều 1 Luật số 21/2013/QH13) thì hồ sơ khai thuế đối với loại phải kê khai theo tháng, quý phải có: Bảng kê hoá đơn hàng hoá, dịch vụ bán ra hoặc mua vào.

Thông lệ quản lý thuế GTGT tại đa số các quốc gia trên thế giới áp dụng chế độ thuế GTGT, trong đó nhiều quốc gia có trình độ phát triển tương đương Việt Nam, như: Thái Lan, Philipines, Campuchia, Lào.., đều không đòi hỏi doanh nghiệp cung cấp toàn bộ thông tin về việc kê hóa đơn, chứng từ hàng hóa dịch vụ mua vào, bán ra trong việc khai thuế GTGT.

Việc doanh nghiệp phải kê và nộp định kỳ hóa đơn, chứng từ hàng hóa, dịch vụ mua vào bán ra là một trong các lý do dẫn đến số giờ khai thuế cao. Do đó, Chính phủ trình Quốc hội cho bỏ quy định doanh nghiệp phải gửi Bảng kê hoá đơn hàng hoá, dịch vụ bán ra hoặc mua vào khi lập hồ sơ khai thuế đối với loại phải kê khai theo tháng, quý để áp dụng từ ngày 01/7/2015. Doanh nghiệp chỉ phải hạch toán đầy đủ, kịp thời tại doanh nghiệp theo quy định của Luật kế toán để cơ quan thuế thực hiện công tác kiểm tra sau. Theo đó, sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 31 Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 và khoản 8 Điều 1 Luật số 21/2012/QH13 theo hướng từ ngày 01/7/2015, hồ sơ khai thuế đối với người nộp thuế thực hiện khai và nộp theo tháng, quý là tờ khai thuế tháng, quý.

Nội dung thể hiện tại khoản 1 Điều 5 dự thảo Luật.

b) Bổ sung quy định quy đổi tỷ giá tính thuế và nộp ngân sách

Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật thuế GTGT, Luật thuế TTĐB, Luật thuế TNDN, thuế TNCN đều quy định doanh thu tính thuế, chi phí tính thuế, giá tính thuế, thu nhập chịu thuế, đồng tiền nộp thuế được xác định bằng đồng Việt Nam. Trường hợp bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh.

Theo quy định, tỷ giá liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố hàng ngày là công cụ quản lý, điều hành chính sách tỷ giá của Nhà nước; căn cứ tỷ giá này, các ngân hàng thương mại thực hiện mua, bán ngoại tệ với các doanh nghiệp theo một biên độ do Nhà nước cho phép. Thực hiện quy định của Luật thuế hiện hành, doanh nghiệp luôn phải điều chỉnh sổ sách kế toán theo tỷ giá giao dịch liên ngân hàng, gây khó khăn, phức tạp không cần thiết cho doanh nghiệp trong việc xác định doanh thu, chi phí, giá tính thuế, giảm thời gian kê khai, nộp thuế của doanh nghiệp .... Do đó, Chính phủ trình Quốc hội quy định: người nộp thuế xác định doanh thu, chi phí, giá tính thuế và các khoản thuế nộp ngân sách nhà nước bằng đồng Việt Nam (trừ trường hợp nộp thuế bằng ngoại tệ theo quy định của Chính phủ); trường hợp phát sinh doanh thu, chi phí, giá tính thuế bằng ngoại tệ hoặc người nộp thuế có nghĩa vụ phải nộp bằng ngoại tệ nhưng được cơ quan có thẩm quyền cho phép nộp thuế bằng đồng Việt Nam thì phải quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch thực tế tại thời điểm phát sinh.

Việc quy định tỷ giá giao dịch thực tế tại thời điểm phát sinh như đề xuất trên đây đảm bảo phù hợp với thực tiễn, khắc phục những khó khăn vướng mắc, tạo điều kiện cho người nộp thuế giảm chi phí quản lý và không ảnh hưởng tới thu ngân sách nhà nước.

Nội dung thể hiện tại khoản 2 Điều 5 và khoản 2 Điều 6 dự thảo Luật.

c) Về xóa tiền phạt chậm nộp thuế

Trong thời gian qua (2008 - 2013), nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh do những nguyên nhân khách quan như: thị trường tiêu thụ khó khăn, tồn kho sản phẩm cao; lạm phát ở mức cao; tín dụng vay ngân hàng cao (trên 20%/năm); chu kỳ sản xuất kéo dài; bị khách hàng chậm thanh toán lớn ... dẫn đến việc chậm nộp tiền thuế, khi đó doanh nghiệp sẽ bị phạt chậm nộp tiền thuế mức 0,05%/ngày (18,3%/năm) đối với số tiền thuế chậm nộp. Doanh nghiệp bị phạt chậm nộp sẽ khi tiếp cận về tín dụng lại càng khó khăn hơn.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế được Quốc hội thông qua ngày 20/11/2012 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2013 đã xử lý được một số vướng mắc của Luật Quản lý thuế về công tác quản lý thu nợ thuế. Tuy nhiên, đối với tiền phạt chậm nộp phát sinh trước 01/7/2013 theo Luật Quản lý thuế vẫn chưa có cơ chế tháo gỡ. Trong bối cảnh kinh tế như hiện nay, nhiều người nộp thuế đã rất nỗ lực để nộp tiền thuế phát sinh, khó có khả năng nộp tiền nợ thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt chậm nộp, nhất là trong trường hợp doanh nghiệp gặp khó khăn bất khả kháng. Hiện tại có những trường hợp tiền phạt chậm nộp lớn hơn tiền thuế, nếu không có giải pháp và cơ chế xử lý phù hợp thì số tiền thuế nợ và tiền phạt chậm nộp không thu được ngày càng tăng lên, gây áp lực cho người nộp thuế khiến doanh nghiệp càng khó khăn hơn, có trường hợp sẽ lâm vào tình trạng giải thể, phá sản hoặc nghỉ kinh doanh.

Do đó, để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, Chính phủ trình Quốc hội cho phép: Xoá nợ tiền phạt chậm nộp thuế, tiền chậm nộp thuế của các khoản nợ thuế phát sinh trước ngày 01/7/2013 của doanh nghiệp gặp khó khăn khách quan và đã nộp khoản nợ thuế gốc trước ngày 31/12/2014. Thẩm quyền xóa nợ tiền phạt chậm nộp thuế, tiền chậm nộp thuế thực hiện theo quy định tại khoản 22 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế. Trong đó, đối tượng doanh nghiệp gặp khó khăn khách quan được xóa nợ tiền phạt chậm nộp thuế, tiền chậm nộp thuế là doanh nghiệp đáp ứng một trong các tiêu chí sau:

- Doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ được thanh toán bằng vốn ngân sách nhà nước hoặc có nguồn từ ngân sách nhà nước nhưng chưa được thanh toán nên không có nguồn nộp kịp thời các khoản thuế dẫn đến phát sinh tiền phạt chậm nộp.

- Đối tác bị phá sản hoặc phá bỏ hợp đồng kinh tế dẫn đến người nộp thuế phát sinh các khoản nợ thuế và tiền phạt chậm nộp.

- Doanh nghiệp phải vay của các ngân hàng thương mại với lãi suất cao trên 20%/năm dẫn đến tổng tiền chậm nộp phát sinh bằng 100% số tiền thuế trở lên.

Nội dung thể hiện tại khoản 3 Điều 5 dự thảo Luật.

Ngoài ra, để tăng cường quản lý và cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan, Chính Phủ trình Quốc hội cho phép: Căn cứ tình hình thực tế và điều kiện trang bị công nghệ thông tin, Chính phủ quy định cụ thể việc người nộp thuế không phải nộp các chứng từ trong hồ sơ khai, nộp thuế, hồ sơ hoàn thuế và các hồ sơ thuế khác mà cơ quan quản lý nhà nước đã có.

Nội dung thể hiện tại khoản 4 Điều 5 dự thảo Luật.

6. Hiệu lực thi hành: Gồm 3 Khoản như sau:

Khoản 1: Quy định hiệu lực thi hành của Luật từ ngày 01/01/2015.

Khoản 2: Quy định bãi bỏ các nội dung quy định về quy đổi tỷ giá khi xác định doanh thu, chi phí, giá tính thuế, thu nhập tính thuế, thu nhập chịu thuế và thuế nộp ngân sách nhà nước tại Điều 8, khoản 3 Điều 9 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, khoản 5 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, khoản 1 Điều 6 Luật thuế thu nhập cá nhân, khoản 3 Điều 7 Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, khoản 3 Điều 9 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

Khoản 3: Quy định trách nhiệm Chính phủ quy định chi tiết Luật này.

Trên đây là nội dung thuyết minh về Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều tại các Luật về thuế./.



CHÍNH PHỦ



1 Trừ sản xuất muối quy định tại khoản 1 Điều 4 của Luật

2 Bổ sung vào điểm 4 khoản 7 Điều 1 Luật số 32/2013/QH13 hiện hành

3 Năm 2013 tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước là 132,125 tỷ USD và xuất khẩu ra nước ngoài là 132,134 tỷ USD (trong đó riêng đối với thị trường Trung Quốc, kim ngạch nhập khẩu là 36,954 tỷ USD, xuất khẩu là 13,259 tỷ USD, nhập siêu 23,695 tỷ USD).

4 Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; ứng dụng công nghệ cao thuộc danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển theo quy định của Luật Công nghệ cao; ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao; đầu tư mạo hiểm cho phát triển công nghệ cao thuộc danh mục công nghệ cao được ưu tiên phát triển theo quy định của pháp luật về công nghệ cao; đầu tư xây dựng - kinh doanh cơ sở ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao; đầu tư phát triển nhà máy nước, nhà máy điện, hệ thống cấp thoát nước; cầu, đường bộ, đường sắt; cảng hàng không, cảng biển, cảng sông; sân bay, nhà ga và công trình cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định; sản xuất sản phẩm phần mềm; sản xuất vật liệu composit, các loại vật liệu xây dựng nhẹ, vật liệu quý hiếm; sản xuất năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, năng lượng từ việc tiêu hủy chất thải; phát triển công nghệ sinh học và thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực bảo vệ môi trường như sản xuất thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường, thiết bị quan trắc và phân tích môi trường; xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường; thu gom, xử lý nước thải, khí thải, chất thải rắn; tái chế, tái sử dụng chất thải

5 Hiện dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt đã đề nghị tăng thêm 5% (từ 30% lên 35%)

6 Hoa Kỳ cho rằng việc quy định miễn thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên dùng cho nông, lâm, ngư, diêm nghiệp là một trong những hình thức trợ cấp của Chính phủ cho các tổ chức, cá nhân sản xuất hàng xuất khẩu đây là hình thức trợ cấp bị cấm theo nguyên tắc của Tổ chức thương mại thế giới (WTO); phía Hoa Kỳ cũng cho rằng nếu Luật pháp Việt Nam không thu thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên dùng cho nông, lâm, ngư, diêm nghiệp như một số nước khác thì sẽ không bị coi là hình thức trợ cấp


Каталог: DuThao -> Lists -> DT TAILIEU COBAN -> Attachments
Attachments -> BỘ TƯ pháp số: 151 /bc-btp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Phần thứ nhất ĐÁnh giá TÌnh hình tổ chức thực hiện luật hợp tác xã NĂM 2003
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Danh mỤc LuẬt/NghỊ đỊnh thư cỦa các quỐc gia/khu vỰc đưỢc tham khẢo trong quá trình xây dỰng DỰ thẢo luật tài nguyên, môi trưỜng biỂn và hẢi đẢo
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> BỘ giao thông vận tải cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 1- tình hình gia nhập công ước quốc tế về an toàn – vệ sinh lao động
Attachments -> BÁo cáo tổng hợp kinh nghiệm nưỚc ngoài a. Nhận xét chung
Attachments -> BỘ TƯ pháp số: 104/bc-btp cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam

tải về 143.93 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương