CHƯƠNG VIII
VẬT LIỆU GỖ
8.1. Khái niệm
Gỗ là vật liệu thiên nhiên được sử dụng khá rộng rãi trong xây dựng và
trong sinh hoạt vì những ưu điểm cơ bản sau: Nhẹ, có cường độ khá cao;
cách âm, cách nhiệt và cách điện tốt; dễ gia công (cưa, xẻ, bào, khoan...),
vân gỗ có giá trị mỹ thuật cao.
Ở nước ta gỗ là vật liệu rất phổ biến. Rừng Việt Nam có nhiều loại gỗ
tốt và quý vào bậc nhất thế giới. Khu Tây Bắc có nhiều rừng già và có nhiều
loại gỗ quý như: trai, đinh, lim, lát, mun, pơmu. Rừng Việt Bắc có lim,
nghiến, vàng tâm. Rừng Tây Nguyên có cẩm lai, hương ...
Gỗ chưa qua chế biến vẫn tồn tại những nhược điểm lớn:
1, Cấu tạo và tính chất cơ lý không đồng nhất, thường thay đổi theo
từng loại gỗ, từng cây và từng phần trên thân cây.
2, Dễ hút và nhả hơi nước làm sản phẩm bị biến đổi thể tích, cong vênh,
nứt tách
3, Dễ bị sâu nấm, mục mối phá hoại, dễ cháy.
4, Có nhiều khuyết tật làm giảm khả năng chịu lực và gia công chế biến
khó khăn
Ngày nay với kỹ thuật gia công chế biến hiện đại người ta có thể khắc
phục được những nhược điểm của gỗ, sử dụng gỗ một cách có hiệu quả hơn
như: sơn gỗ, ngâm tẩm gỗ, chế biến gỗ dán, tấm dăm bào và sợi gỗ ép.
8.2. Cấu tạo của gỗ
Gỗ nước ta hầu hết thuộc loại cây lá rộng, gỗ
cây lá kim (như thông, pơmu,
kim giao, sam...)
rất ít. Gỗ cây lá rộng có cấu tạo phức tạp hơn gỗ
cây lá kim. Cấu tạo của gỗ có thể nhìn thấy bằng
mắt thường hoặc với độ phóng đại không lớn gọi
là cấu tạo thô (vĩ mô), cấu tạo của gỗ chỉ nhìn
thấy qua kính hiển vi gọi là cấu tạo nhỏ (vi mô).
8.2.1. Cấu tạo thô
Cấu tạo thô của gỗ được quan sát trên ba mặt
cắt (hình 8-1).
Quan sát mặt cắt ngang thân cây (hình 8-2) ta
có thể nhìn thấy: vỏ, libe, lớp hình thành, lớp gỗ
bìa, lớp gỗ lõi và lõi cây.