CHƯƠng III công tác tư TƯỞngtrong thời kỳ kháng chiến chống mỹ,CỨu nưỚc và XÂy dựng chủ nghĩa xã HỘI



tải về 310.96 Kb.
trang1/4
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích310.96 Kb.
#13276
  1   2   3   4
CHƯƠNG III

CÔNG TÁC TƯ TƯỞNGTRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ,CỨU NƯỚC VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

(1954 - 1975)

III- ĐỘNG VIÊN QUÂN DÂN CẢ NƯỚC ĐÁNH MỸ, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ MIỀN BẮC, HOÀN THÀNH CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG MIỀN NAM (1965 - 1975)

1. Nêu cao quyết tâm đánh thắng chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ (1965 - 1968)

Thay thế cho chiến lược "chiến tranh đặc biệt" đã thất bại thảm hại, từ những tháng đầu năm 1965 đế quốc Mỹ bắt đầu triển khai chiến lược mới, ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ và tiến hành “chiến tranh cục bộ" ở miền Nam Việt Nam, đồng thời tăng cường chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc và mở rộng chiến tranh san Lào. Như vậy, cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ đã không còn giới hạn ở miền Nam Việt Nam mà đã lan ra miền Bắc.

"Chiến tranh cục bộ" là nấc thang chiến tranh cao nhất của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Với hành động leo thang mới của Mỹ, chiến tranh Việt Nam trở thành cuộc chiến tranh lớn nhất, ác liệt nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, gây nên tình hình hết sức căng thẳng không chỉ trên bán đảo Đông Dương mà còn đe doạ nghiêm trọng hòa bình thế giới. Nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới phản đối hành động xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân ta, quan tâm theo dõi diễn biến của cuộc chiến tranh với sự lo lắng: liệu Việt Nam, một nước nhỏ và nghèo, vừa ra khỏi cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp có đương đầu nổi với Mỹ, một đế quốc có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhất thế giới?

Đứng trước cuộc đụng đầu lịch sử mới, trong tư tưởng của cán bộ, đảng viên có một số vấn đề được đặt ra: Quân Mỹ vào có làm thay đổi mục đích, tính chất, hình thức chiến tranh ở miền Nam có làm thay đổi về cơ bản so sánh lực lượng trên chiến trường, làm cho ta phải trở lại thế phòng ngự đường lối chống Mỹ, cứu nước của ta liệu có phải thay đổi hoặc điều chỉnh ?...

Trên cơ sở quán triệt trong Đảng và trong nhân dân Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 cửa Trung ương Đảng tháng 3-1965, công tác tư tưởng đã phân tích rõ âm mưu và hành động mới của Mỹ, tính chất ác liệt của cuộc chiến tranh sẽ tăng lên gấp bội, nhưng (quốc Mỹ sẽ không sao đảo lộn được thế chiến lược hiện nay ở miền Nam. Bởi vì chúng đang ở thế thua, thế bị động về chiến lược và thất bại về chính trị, bị cô lập cao độ cả trong nước và trên thế giới, trong khi ta đang trên đà chiến thắng, ở thế chủ động và được nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới đồng tình ủng hộ. Đảng và nhân dân ta quyết tâm đẩy mạnh cuộc kháng chiến để giành độc lập, thống nhất toàn vẹn cho Tổ quốc. Khẳng định đường lối và phương châm giành thắng lợi ở miền Nam đã đề ra trong các nghị quyết trước đây của Đảng, về cơ bản vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, trong tình hình cả nước có chiến tranh với hình thức và mức độ khác nhau của mỗi miền, trong cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ xâm lược, "miền Nam là tiền tuyến lớn và miền Bắc là hậu phương lớn - nhưng hậu phương ấy cũng đang có chiến tranh hạn chế và đang trực tiếp chiến đấu" nhằm "xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam". Vì vậy Đảng chủ trương chuyển hướng nền kinh tế miền Bắc sang thời chiến. Trong tình hình mới quân và dân miền Bắc nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng đế quốc Mỹ và tay sai, sẵn sàng chiến đấu và công tác bất kỳ nơi đâu khi Đảng cần, sẵn sàng đánh bại bất cứ loại chiến tranh nào của địch, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, xây dựng tinh thần tự lực cánh sinh cao, chống chủ quan khinh địch. Giải phóng miền Nam là trách nhiệm chung của nhân dân cả nước, cả nước đều tham gia đánh giặc, thực hiện Lời kêu gọi nhân ngày 20- 7- 1965 của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Đồng bào miền Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu; dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn"[38].

Ở miền Nam, Ban Tuyên giáo các cấp giúp cấp ủy tổ chức quán triệt và thực hiện Nghị quyết 11 của Trung ương Đảng và Nghị quyết của Trung ương cục về công tác tư tưởng năm 1965 nhằm mục tiêu đưa phong trào đấu tranh quân sự và chính trị, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nông thôn và thành thị lên quy mô lớn, đạt hiệu quả cao hơn trước, triển khai nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, ổng động viên chính trị trong toàn Đảng, toàn quân và các đoàn thể, các tầng lớp nhân dân nhằm nâng cao nhận thức về tính chất, nhiệm vụ của cuộc đấu tranh cách mạng chống chủ nghĩa thực dân mới, nỗ lực tham gia tiến công địch, không sợ hy sinh gian khổ, sẵn sàng đối phó với "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, kiên định ý chí sắt đá: "Sẽ hy sinh tất cả thà chết chứ không chịu làm nô lệ, sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ Tổ quốc, giành độc lập hoàn toàn... Dù Mỹ có đưa 5 vạn hay 10 vạn quân, dù trang bị vũ khí gì hay bất cứ chúng đặt chân lên nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam, chúng ta cũng kiên quyết đánh bại chúng, đánh cho đến khi nào không còn bóng một tên xâm lược trên dải đất thân yêu của chúng ta"[39].

Tháng 12-1965, Hội nghị lần hứ 12 của Trung ương Đảng (khóa III), sau khi xem xét và đánh giá toàn bộ tình hình, đã kết luận: Ngày nay, mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, ực lượng so sánh giữa ta và địch vốn không thay đổi lớn, tuy cuộc chiến tranh ngày càng trở nên gay go ác liệt, nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững và tiếp tục giành thế chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện để đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của địch. Quyết tâm chiến lược của ta là: Động viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước… Phương châm chiến lược chung của chúng ta là: "đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính", trên cơ sở tiếp tục quán triệt và vận dụng phương châm đánh lâu dài, chúng ta cần cố gắng cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.

Nghị quyết 12 của Trung ương Đảng là sự kết tinh ý chí kiên cường, trí tuệ và tài năng sáng tạo của Đảng ta, nhân dân ta và dân tộc ta, là ánh sáng soi đường cho nhân dân cả nước ta tiến lên giành thắng lợi. Các hoạt động tư tưởng trong những năm 1965 - 1968 đã bám sát Nghị quyết 11, 12 của Trung ương Đảng và diễn biến của cuộc chiến tranh, làm quán triệt những nhận định của Đảng, xây dựng ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong bất cử loại chiến tranh nào, trước mắt là đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ” của Mỹ.

Những năm 1965 - 1968 các mặt công tác tư tưởng và khoa giáo đều phát triển. Để giúp Trung ương Đảng lãnh đạo cụ thể hơn đối với mỗi mặt công tác, từ tháng 2-1968, theo Quyết định số 1584 ngày 30-l-1968 của Bộ Chính trị, Ban Tuyên giáo Trung ương được tách ra thành hai ban: Ban Tuyên huấn Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương.

a) Động viên quân dân miền Bắc chuyển hướng xây dựng kinh tế sang thời chiến, vừa sản xuất vừa chiến đấu, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ và tích cực chi viện cho miền Nam.

Từ sau ngày 5-8-1964, đế quốc Mỹ ngày càng tăng cường và mở rộng các hoạt động đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân. Một vấn đề lớn đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là: Trong điều kiện chiến tranh đang lan rộng ra cả nước, có thể tiếp tục công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc hay phải dừng lại?

Căn cứ các nghị quyết 11, 12 của Trung ương Đảng, công tác tư tưởng đã làm rõ chủ trương của Đảng ta là tiếp tục xây dựng miền Bắc thành hậu phương chiến lược vững mạnh, bảo đẩm cho kháng chiến chống Mỹ thắng lợi. Là căn cứ địa của cách mạng cả nước, miền Bắc phải được xây dựng thành hậu phương chiến lược vững mạnh, bảo dảm cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta giành được thắng lợi. Trong điều kiện trưc tiếp phải đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, miền Bắc phải tiếp tục được xây dựng theo phương hướng kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế với củng cố và tăng cường quốc phòng, kiên quyết bảo vệ miền Bắc, đánh bại chiến tranh phá hoại và phong tỏa của máy bay, tàu chiến Mỹ, đồng thời ra sức tăng cường lực lượng về mọi mặt cho miền Nam. Sức mạnh của nhân dân ta trong kháng chiến chống Mỹ là sức mạnh tổng hợp của chính chúng ta (cả hậu phương lớn và tiền tuyến lớn), và sức mạnh của thời đại. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chính miền Bắc xã hội chủ nghĩa là một trong những nhân tố tranh thủ sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa và bè bạn quốc tế đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Chỉ có một miền Bắc được xây dựng theo hướng chủ nghĩa xã hội mới tạo ra sự nhất trí về chính trị và tinh thần của toàn dân với quyết tâm "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Chỉ có tiếp tục xây dựng miền Bắc mới có thể tạo được sức người, sức của để chi viện cho chiến trường miền Nam.

Trong điều kiện phải chịu tác động lớn của chiến tranh, miền Bắc không thể giữ nguyên quy mô, tốc độ và phương hướng xây dựng kinh tế như trong thời bình, mà phải chuyển huớng xây dựng kinh tế sang thời chiến, làm cho việc xây dựng và phát triển kinh tế phù hợp với tình hình địch tăng cường chiến tranh phá hoại miền Bắc, bảo đảm yêu cầu chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc và chi viện cho miền Nam; đồng thời vẫn phù hợp với phương hướng về lâu dài của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Qua lo năm xây dựng trong hòa bình, miền Bắc đã tạo lập được một số nền tảng bước đầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, song chúng ta chưa có nhiều khu công nghiệp lớn tập trung, nền kinh tế chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, các cơ sở kinh tế phân tán. Mỹ khó có thể làm tê liệt nền kinh tế dựa trên cơ sở nông nghiệp, cho dù chúng có thể phá huy các thành phố và khu công nghiệp. Đồng thời với chuyển hướng về xây dựng kinh tế, đẩy mạnh xây dựng kinh tế địa phương, cần chuyển hướng cả về tư tưởng và tổ chức và tăng cường lực lượng quốc phòng phù hợp với tình hình mới.

Kết quả công tác tư tưởng làm quán triệt các Nghị quyết 11, 12 của Trung ương Đảng đã góp phần khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội của quân và dân ta. Cả miền Bắc chuyển nhanh sang thời chiến. Với bản lĩnh của một dân tộc đã dày dạn trong đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, nhân dân miền Bắc bình tĩnh bước vào cuộc chiến đấu mới. Nhiều sáng kiến của các địa phương, các ngành, các đoàn thể được phát huy. Hàng loạt phong trào cách mạng được dấy lên, với hào khí của một dân tộc anh hùng, sục sôi khí thế chống Mỹ. Giai cấp công nhân thực hiện "tay búa tay súng", đồng bào nông dân thực hiện "tay cày tay súng". Hàng triệu thanh niên tình nguyện "ba sẵn sàng": sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu dũng cảm; sẵn sàng đẩy mạnh sản xuất; sẵn sàng đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần. Hàng triệu phụ nữ tình nguyện "ba đảm đang": đảm đang sản xuất và công tác thay thế cho chồng con đi chiến đấu; đảm đang việc gia đình cho chồng con, anh em đi tòng quân, phục vụ lâu dài trong quân đội; đảm đang phục vụ chiến đấu, tham gia dân quân tự vệ, luyện tập quân sự, sẵn sàng chiến đấu. Giới trí thức có phong trào "ba quyết tâm": quyết tâm phục vụ sản xuất và chiến đấu; quyết tâm đẩy mạnh cách mạng khoa học kỹ thuật và cách mạng văn hóa, tư tưởng; quyết tâm xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa. Các lực lượng vũ trang thi đua giành danh hiệu "đơn vị quyết thắng" và "chiến sĩ quyết thắng". Các cụ phụ lão có phong trào “bạch đầu quân”, các cháu thiếu nhi thi đua "làm nghìn việc tốt", làm công tác Trần Quốc Toản.

Với tinh thần "mọi việc ta làm đều nhằm chống Mỹ bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh” trên mặt trận lao động sản xuất và bảo vệ sản xuất, chuyển hướng xây dựng kinh tế, trong những năm 1965 - 1968 quân dân miền Bắc đã làm cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa về căn bản được giữ vững, một số ngành còn phát triển thêm.

Thực hiện Chỉ thị số 104 (tháng 7- 1965) của Ban Bí thư, các hoạt động văn hoá, văn nghệ phát triển rộng rãi, phong phú, sinh động, góp phần khơi sâu lòng căm thù đối với bọn xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai, cổ vũ tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng, bồi dưỡng khả năng sản xuất và chiến đấu của nhân dân, nâng cao sinh hoạt tinh thần của quần chúng, xây dựng một nền văn hóa xứng đáng với nhân dân ta, phục vụ sự nghiệp vĩ đại chống Mỹ, cứu nước của dân tộc. Trong chiến tranh, Đảng ta vẫn rất quan tâm gìn giữ và phát huy văn hoá tốt đẹp của các dân tộc thiểu số, xây dựng và củng cố sự nhất trí về chính trị và tinh thần của nhân dân các dân tộc, vận động cải tạo nếp sống cũ, bài trừ mê tín dị đoan, đồi phong bại tục, xây dựng nếp sống mới và đời sống văn hóa mới phong phú, lành mạnh, văn minh, tiến bộ, đậm đà bản sắc dân tộc.

Đông đảo văn nghệ sĩ bám sát sản xuất và cuộc sống chiến đấu hào hùng của dân tộc để sáng tác. Các đội văn công ra tuyến lửa phục vụ đồng bào và chiến sĩ ngày đêm chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Trong các tác phẩm ca ngợi những sự tích anh hùng của quân và dân ta ở hai miền trong cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội đã nổi lên một số tác phẩm có giá trị về giáo dục tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Số sách in ra năm 1965 là 22 triệu bản, năm 1968 tăng lên 30 triệu bản. Số đội chiếu bóng lưu động năm 1968 tăng gấp hơn hai lần năm 1965. Phong trào văn nghệ quần chúng phát triển mạnh. "Tiếng hát át tiếng bom" là phong trào ca hát quần chúng thể hiện khí thế hào hùng, nếp sống lạc quan yêu đời của quân và dân ta trong những năm chiến tranh. Tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 4 (tháng 1-1968), trong thư gửi Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã biểu dương những cố gắng và tiến bộ trên lĩnh vực văn nghệ và của các văn nghệ sĩ từ Đại hội lần trước đến Đại hội lần này, nêu tình hình và nhiệm vụ chung của quân và dân cả nước kêu gọi văn nghệ sĩ nước ta hãy mạnh dạn sáng tạo, tiến công liên tục trên mặt trận tư tưởng và văn hóa phục vụ đắc lực cho công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và cho cách mạng xã hội chủ nghĩa “hãy xứng đáng là chiến sĩ anh hùng diệt Mỹ trên mặt trận văn nghệ". Bức thư viết: "Văn nghệ ta phải có nội dung xã hội chủ nghĩa trong sáng và đậm đà tính chất dân tộc"... "đối với anh chị em văn nghệ sĩ của ta, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản phải là mục đích và lý tưởng đẹp đẽ nhất: Tổ quốc, nhân dân và cách mạng là đối tượng phục vụ cao quý nhất; văn hóa và tư tưởng là chiến trường; tác phẩm văn học, nghệ thuật là vũ khí sắc bén...

Trung ương Đảng tin rằng văn nghệ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước vẻ vang này sẽ đạt tới những đỉnh cao trong lịch sử văn học và nghệ thuật nước nhà"[40]. Trong chiến tranh ác liệt, mọi hoạt động tư tưởng (báo chí, đài phát thanh, thông tấn xã, xuất bản, giáo dục chính trị lý luận, văn hoá văn nghệ) đều được tăng cường. Mỗi đơn vị đều có phương án đảm bảo hoạt động trong thời chiến, kể cả trong tình huống ác liệt nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước rất quan tâm việc chuẩn bị chu đáo, bảo đảm hoạt động nhanh chóng, liên tục của báo, đài, thông tấn xã trong tình hình mới. Mạng lưới các phân xã của Việt Nam Thông tấn xã và phóng viên thường trú của các báo Trung ương ở các địa phương, nhất là vùng tuyến lửa được hình thành, bảo dảm cho hoạt động thông tin đại chúng luôn luôn đứng ở mũi nhọn sản xuất và chiến đấu, kịp thời tố cáo tội ác dã man của đế quốc Mỹ trước dư luận trong nước và trên thế giới, khơi sâu chí căm thù, nêu cao những tấm gương đơn vị và cá nhân sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi, tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Công tác tư tưởng vừa phát huy những hình thức sinh động, cuốn hút đông đảo quần chúng, cổ vũ mạnh mẽ phong trào hành động của nhân dân, vừa phát huy truyền thống công tác vận động quần chúng của Đảng đến với từng nhà, từng người, trong từng trận đánh và trên mọi lĩnh vực của sản xuất và đời sống. Đông đảo cán bộ, đảng viên bám ruộng đồng, bám nhà máy, bám trận địa, vận động và tổ chức quần chúng hăng hái sản xuất, chiến đấu, phục vụ chiến đấu và xây dựng cuộc sống mới. Qua thử thách trong chiến tranh, miền Bắc thể hiện tính ưu việt của hậu phương xã hội chủ nghĩa. Một hậu phương trong chiến tranh ác liệt, đời sống của nhân dân nói chung vẫn ổn định. Một hậu phương chi viện ngày càng nhiều sức người sức của cho tiền tuyến lớn với tinh thần "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người". Một hậu phương đầy tình nghĩa, các gia đình liệt sĩ, thương binh, gia đình có người đi chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu các hộ cô quả, neo đơn, những người bị tai nạn chiến tranh được tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể và hợp tác xã chăm nom, giúp đỡ. Một hậu phương vững vàng, kiên cố, không gây rối loạn, hoang mang, nao núng trước sự đánh phá ác liệt của kẻ thù. Một hậu phương mà ở đó mọi người thương yêu, đùm bọc lẫn nhau trong gian khổ, hoạn nạn và thử thách, là niềm tin, niềm thôi thúc chồng con, anh em họ lớp lớp nối tiếp nhau ra tiền tuyến lớn sát cánh cùng đồng bào và chiến sĩ miền Nam ngày đêm chiến đấu. Đó là những đóng góp quan trọng và là kết quả của công tác tư tưởng, đồng thời đó cũng là cơ sở thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả xã hội của công tác tư tưởng.

Đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ tăng cường quốc phòng chiến đấu bảo vệ miền Bắc và chi viện cho miền Nam, với cố gắng lớn trong công tác tuyên truyền giáo dục của Đoàn Thanh niên và các cấp, các ngành, phong trào thanh niên xung phong tòng quân diễn ra sôi nổi, liên tục. Đi bộ đội, ra chiến trường trở thành nguyện vọng thiết tha của tuổi trẻ. Anh hùng Lê Mã Lương là một trong những tấm gương tiêu biểu "nước còn giặc còn đi đánh giặc", "cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù". 13 vạn cuốn sách về anh được in ra và phát hành rộng rãi trong thanh niên. Trong 4 năm 1965 - 1968, đã có 888.641 thanh niên nhập ngũ, trong đó có 336.941 người vào Nam chiến đấu. Các hoạt động tư tưởng đã thường xuyên cổ vũ phong trào bắn máy bay Mỹ bằng những vũ khí có trong ta. Khẩu hiệu "nhằm thẳng quân thù mà bắn" của anh hùng Nguyễn Viết Xuân được cổ vũ mạnh mẽ, đã trở thành hành động của hàng vạn chiến sĩ bộ đội và dân quân tự vệ. Năm 1965 quân dân miền Bắc đã bắn rơi 834 máy bay Mỹ, tiêu diệt và bắt làm tù binh hàng trăm giặc lái Mỹ, làm cho chúng bị thiệt hại lớn mà vẫn không đạt được một mục tiêu cơ bản của chiến tranh phá hoại là ngăn chặn chi viện từ Bắc vào Nam.

Các năm 1966, 1967, 1968 Mỹ ngày càng leo thang đánh phá miền Bắc, hòng "gây áp lực không thương xót"[41] đối với quân dân ta. Chỉ riêng năm 1967 khối lượng bom đạn chúng dội xuống miền Bắc đã gấp 7 lần năm 1965. Máy bay Mỹ đánh phá dã man cả vào các chợ, bệnh viện, trường học... tàn sát hàng ngàn phụ nữ, người già, người bệnh và trẻ em. Từ cuối tháng 4-1967 chúng mở rộng đánh phá liên tục vào Hà Nội, Hải Phòng; tàu chiến Mỹ tăng cường bắn phá, phong tỏa đường biển. Các hoạt động tư tưởng, trong không khí sôi sục chiến đấu, đã chiến đấu, đã nêu cao ý chí Việt Nam thể hiện trong Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17-7-1966 gửi đồng bào và chiến sĩ cả nước: "Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ" Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn"[42]. Bao năm rên xiết dưới ách thống trị của nước ngoài, nhân dân Việt Nam hiểu rõ nỗi nhục mất nước và giá trị cao quý của độc lập, tự do. Nền độc lập, tự do mà nhân dân ta giành được là thành quả mồ hôi xương máu của các thế hệ người Việt Nam trong mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước. Quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc là ý chí sắt đá của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, không gì có thể là chuyển được.

Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh khơi dậy mạnh tinh thần yêu nước của toàn dân vượt qua mọi gian khổ sinh quyết đánh Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Mọi mặt sản xuất, xây dựng, chiến đấu được đẩy mạnh. Trên mặt trận bắn máy bay, tàu chiến Mỹ ngày càng xuất hiện nhiều điển hình cá nhân và đơn vị đánh giỏi bắn trúng, diệt nhiều máy bay Mỹ, bắn cháy tàu chiến Mỹ.

Giao thông vận tải là mặt trận ngày đêm nóng bỏng. Địch quyết phá để chặn chi viện của miền bắc cho miền Nam, ta quyết giữ và không ngừng mở rộng để chi viện ngày càng cao cho tiền tuyến lớn. Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ và của Trung ương Đoàn Thanh niên, các hoạt động tư tưởng đã góp phần động viên thanh niên tham gia các đội thanh niên xung phong. Chỉ trong vòng ba tháng, từ tháng 4 đến tháng 7-1965 gần 5 vạn đội viên thanh niên xung phong lên đường để cùng sát cánh với bộ đội Trường Sơn làm nhiệm vụ mở đường mới và đảm bảo giao thông vận tải chi viện cho tiền tuyến, vượt qua bom đạn ác liệt "địch đánh, ta cứ đi". Cuộc chiến đấu trên tuyến đường lửa là một thiên anh hùng ca. Mỗi đoạn đường Trường Sơn hằng ngày, hằng giờ diễn ra những sự tích kỳ diệu, sáng chói chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Báo, đài và nhiều cuốn sách đã liên tục nêu cao ý chí sắt thép của bộ đội Trường Sơn và thanh niên xung phong "sống anh dũng bám đường, chết kiên cường dũng cảm", "tim có thể ngừng đập nhưng mạch máu giao thông không thể tắc". Biết bao tấm gương hy sinh oanh liệt, một trong những tấm gương tiêu biểu là đội nữ thanh niên xung phong ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh)… Để góp phần giữ vững giao thông vận tải chi viện cho tiền tuyến, đồng bào các tỉnh Liên khu IV không tiếc sức người, sức của với tinh thần "xe chưa qua, nhà không tiếc". Vai trò to lớn và hoạt động sáng tạo của nhân dân ta để đảm bảo giao thông vận tải thông suốt, đã được khái quát thành câu ca:

"Dễ mười lần không dân cũng chịu

Khó trăm lần dân liệu cũng xong"[43].

Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua chống Mỹ, cứu nước họp ngày 30-12-1966 đã tuyên dương nhiều đơn vị anh hùng và 111 anh hùng cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta.

Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng kịp thời chuyển hướng để đảm bảo yêu cầu lãnh đạo quân dân ta thực hiện tốt những nhiệm vụ cấp bách của miền Bắc. Thực hiện Chỉ thị số 88 - CT/TƯ ngày 2- 1- 1965 của Bộ Chính trị, cuộc vận động chỉnh huấn mùa Xuân năm 1965 được tiến hành trong toàn Đảng nhằm nâng cao ý chí phấn đấu, nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, khắc phục những tư tưởng lệch lạc, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Học tập kết hợp với tự phê bình và phê bình, quán triệt nhiệm vụ mới, phát huy tính tiên phong của đảng viên cộng sản, sẵn sàng đứng ở hàng đầu trên trận tuyến cách mạng. Nhân dịp những ngày kỷ niệm quan trọng (kỷ niệm 35 năm ngày thành lập Đảng, 150 năm ngày sinh Các Mác) đều tiến hành các đợt giáo dục chính trị, tư tưởng trong Đảng.

Trong 5 năm 1964 - 1968 toàn Đảng đã kết nạp được 486.123 đảng viên, gấp hơn 2 lần các năm 1961 - 1964. Số đảng viên được kết nạp nhiều nhưng số được huấn luyện còn ít. Kết quả kiểm tra cuối năm 1965 ở 31 đơn vị, có 50.760 đảng viên dự bị nhưng mới huấn luyện được 25.300 đồng chí, tức là chưa được một nửa. Việc giáo dục đảng viên còn làm theo từng vụ, từng việc, chưa có chương trình, kế hoạch giáo dục toàn diện và lâu dài. Một số cấp ủy chưa quan tâm công tác giáo dục đảng viên, có nơi khoán trắng cho cán bộ tuyên huấn. Ban Bí thư quyết định tăng cường hơn nữa công tác giáo dục đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp sửa bản dự thảo kế hoạch mở lớp thí điểm giáo dục đảng viên mới do Ban Tuyên huấn Trung ương soạn. Ban Tuyên huấn Trung ương phôí hợp với Thành ủy Hà Nội mở 2 lớp thí điểm: một lớp cho đang viên mới ở các xí nghiệp công nghiệp, một lớp cho đảng viên mới ở nông thôn. Ngày 14-5- 1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện với các học viên trong buổi khai giảng. Giảng viên đều là các đồng chí lãnh đạo của Đảng phụ trách công tác xây dựng Đảng và các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp... Bác nói với các đồng chí học viên: "Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt. Muốn xây dựng chi bộ "bốn tốt" thì phải bồi dưỡng lập trường vô sản cho đảng viên. Muốn có lập trường vô sản vững chắc, thì đảng viên phải có ý thức giai cấp, đồng thời phải có lý luận cách mạng. Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học thì không thể có lập trường giai cấp vững vàng. Vì vậy, các cô, các chú phải chịu khó học tập..."[44]. Bác căn dặn các đảng viên mới phải học tập nắm vững những hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa cộng sản, về đường lối của Đảng và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng nước ta, về tổ chức cơ sở của Đảng, nhiệm vụ quyền hạn và phương pháp công tác của người đảng viên. Bác nhắc nhở: các cô, các chú còn phải nắm được phương pháp công tác cách mạng của Đảng, ví dụ như cách vận động quần chúng. Không đi theo đường lối quần chúng của Đảng thì sẽ mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng. Bác chỉ thị: "Từ nay trở đi công tác giáo dục đảng viên phải là một điều quan trọng trong chương trình công tác của cấp ủy Phải bồi dưỡng giảng viên lý luận cho chi bộ. Tất cả các đảng viên phải cố gắng học tập, coi việc học tập lý luận và chính trị là một nhiệm vụ quan trọng của mình"[45].

Sự quan tâm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những kinh nghiệm rút ra từ các lớp thí điểm đã tạo chuyển biến mới trong lãnh đạo của các cấp ủy, đưa công tác giáo dục đảng viên đi vào có chương trình, kế hoạch tiến hành thường xuyên, các Truởng Đảng huyện được xây dựng, bộ phận huấn học trong các Ban Tuyên giáo được tăng cường để bảo đảm thực hiện chương trình kế hoạch giáo dục đảng viên. Là người quan tâm đến công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ, tháng 3-1967, khi đến thăm lớp bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp huyện, được biết trong tổng số 288 học viên chỉ có 16 cán bộ nữ, Bác phê bình và mong các đồng chí lãnh đạo các cấp khắc phục bệnh hẹp hòi, không đánh giá đúng khả năng của phụ nữ, không quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ.

Từ năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng huy hiệu của Người cho những người tốt làm việc tốt được báo, đài nêu gương. Tháng 6- 1968 Bác mời các đồng chí lãnh đạo Ban Tuyên huấn và Bộ Văn hóa để bàn việc xuất bản loại sách người tốt việc tốt. Bác nói: "Nhìn lại lịch sủ mấy nghìn năm của ông cha ta, ta cũng thấy điều đó. Cứ mỗi lần có những thử thách lớn thì nhân dân ta lại tỏ rõ khí phách, nêu cao phẩm chất tốt đẹp của mình. Ngày nay, chúng ta lại đang đứng trước những thử tháeh rất lớn, truyền thống anh hùng hàng nghìn năm đang được nhân dân ta phát huy đến độ cao chưa từng thấy. Và đã có những người làm nên sự tích oanh liệt được Đảng và Nhà nước tuyên dương..."[46]. Nhưng dù sao, số người và tập thể được công nhận là anh hùng, dũng sĩ, chiến sĩ thi đua, được tặng huân chương, huy chương vẫn chỉ là số ít so với hàng triệu, hàng chục triệu con người hàngngày góp gió thành bão, đang gánh vác mọi việc nước, việc nhà để đánh thắng giặc Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội… Những chiến công và thành tích nổi bật, vang dội thì ai cũng có thể nhìn thấy được. Còn những việc nhỏ, bình thường thôi nhưng ích nước lợi dân thì hay bị xem thường... Người tốt, việc tốt nhiều lắm, ở đâu cũng có. Ngành giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có... Những gương người tốt làm việc tốt muôn hình muôn vẻ là vật liệu quý để các chú xây dựng con người. Lấy gương tốt trong quần chúng nhân dân và cán bộ, đảng viên để giáo dục lẫn nhau còn là một phương pháp, lấy quần chúng giáo dục quần chúng cũng rất sinh động và có sức thuyết phục rất lớn. Đó cũng là cách thực hành đường lối quần chúng trong công tác giáo dục.

Bác hỏi các đồng chí lãnh đạo tuyên huấn: Lâu nay các chú tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin như thế nào? kết quả ra sao? Các chú có xem xét công tác giáo dục thanh niên không? Bác nói: Theo Bác, hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin tức là cách mạng phân công cho việc gì, làm Chủ tịch nước hay nấu ăn, đều phải làm tròn nhiệm vụ. Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Mấy chục năm nay cán bộ, đảng viên và nhân dân ta thực hành chủ nghĩa Mác - Lênin bằng cách ra sức làm tròn nhiệm vụ cách mạng và sống với nhau có tình có nghĩa. Lấy gương người tốt, việc tốt có thật trong nhân dân và cán bộ, đảng viên ta mà giáo dục lẫn nhau đó chính là một cách tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin một cách thiết thực nhất.

Về loại sách Ngủời tốt, việc tốt sắp làm, Bác căn dặn: Không nên tham viết dài. Nhân dân ta có truyền thống kể chuyện ngắn gọn mà lại có duyên. Các chú phải học cách kể chuyện của nhân dân. Nên kèm theo nhiều tranh vẽ dễ hiểu và đẹp, nhưng đừng vì vẽ nhiều mà tính đắt quá. Bác góp ý cụ thể về khuôn khổ cuốn sách, không nên to quá hoặc nhỏ quá. Ngoài bìa cần có dòng chữ Loại sách người tốt, việc tốt. Phải bàn tập thể để đặt tên sách và viết lời tựa cho đúng, cho hay. Có sách rồi lại phải biết tuyên truyền, giới thiệu sách cho nhiều người biết và đọc. Ở trang đầu mỗi cuốn sách đều phải ghi một câu Hoan nghênh bạn đọc phê bình. Từ nay trở đi, trên sách hay trên báo, các chú nên luôn luôn có câu đó. Bác biết các chú văn hay chữ tốt, nhưng dù sao nhân dân trăm tay nghìn mắt vẫn có nhiều ý kiến thông minh giúp các chú tiến bộ hơn.

Thực hiện lời hứa với Bác, Ban Tuyên huấn Trung ương đã tích cực chỉ đạo biên soạn và xuất bản, đúng ngày 2-9-1986 kỷ niệm ngày Quốc khánh, các cuốn đầu tiên của loại sách Người tốt, việc tốt ra mắt bạn đọc. Đến giữa năm 1969 đạt số lượng xuất bản gồm 9 triệu 80 vạn cuốn, được đông đảo người đọc hoan nghênh, có tác dụng giáo dục sâu sắc. Mục "người tốt, việc tốt" cũng trở thành một mục thường xuyên của của báo Đảng, đoàn thể. Nêu gương các điển hình tiên tiến và những người tốt, việc tốt có tác dụng lớn và trở thành một trong những phương thức chủ yếu của công tác tuyên truyền giáo dục.

Hoạt động tư tưởng ở các địa phương và cơ sở luôn luôn nảy sinh những cái hay, những cách làm tốt. Năm 1967, từ kinh nghiệm của phong trào thi đua "Hai giỏi" ở Quảng Bình và cuộc vận động "Báo công” ở "tỉnh tấn Thái Bình", Ban Tuyên huấn Trung ương đã nghiên cứu tại chỗ, rút kinh nghiệm và kiến nghị với Ban Bí thư đưa cuộc vận động "Báo công, lập công" thành nền nếp hàng năm (Chỉ thị số 153 của Ban Bí thư, tháng 6- 196'7). Đây là một hình thức lấy quần chúng giáo dục quần chúng, nâng cao tính quần chúng của công tác tư tưởng. Đây là cách giáo dục lấy xây làm chính, nâng cao con người lên, thấy được công lao, ưu điểm của họ, phát huy ưu điểm để khắc phục khuyết điểm, phát huy những cái hay, cái đẹp trong mỗi con người.

Từ khi bước vào cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, công tác tuyên truyền đối ngoại đã từng bước được tăng cường. Được sự giúp đỡ của anh em bạn bè trên thế giới, chúng ta đã tích cực tranh thủ các diễn đàn quốc tế (phong trào không liên kết, Đoàn thanh niên dân chủ thế giới, Liên đoàn phụ nữ quốc tế, v.v.) và thông qua các hoạt động ngoại giao, nêu cao cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ xâm lược, tố cáo tội ác dã man của Mỹ, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ to lớn của anh em bè bạn và nhân dân tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ. Đài phát thanh Cuba dành cho ta một kênh tiếng Anh phát 6 buổi một ngày để tuyên truyền vào nhân dân Mỹ. Việc củ các đoàn ra, đón các đoàn vào, kể cả các đoàn người Mỹ tiến bộ, trong đó có nhiều nhân sĩ, nhà báo, văn nghệ sĩ có tiếng, ngày càng mở rộng. Được tận mắt chứng kiến cuộc chiến đấu chính nghĩa, hào hùng của quân dân ta và tội ác dã man của đế quốc của Mỹ, những người đến Việt Nam đều lên án cuộc "chiến tranh bẩn thỉu" của Mỹ, khâm phục và đồng tình ủng hộ nhân dân ta. Tòa án Bertrand Roussel kết tội đế quốc Mỹ, đã gây ảnh hưởng rộng rãi trong dư luận tiến bộ trên thế giới. Những kết quả đó đã góp phần từng bước hình thành mặt trận thống nhất ba nước Đông Dương chống Mỹ và mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam, xây dựng hậu phương quốc tế cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta.

Hội nghị lần thứ 13 của Trung ương Đảng (1- 1- 1967) chủ trương đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, song song với đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, phối hợp giữa các mặt đấu tranh đó để giành thắng lợi to lớn hơn nữa. Quán triệt nghị quyết Trung ương, các hoạt động tư tưởng đã vạch trần những thủ đoạn "hòa bình" giả hiệu của Mỹ, nêu cao lập trường bốn điểm của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và tuyên bố năm điểm của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, trước mắt đòi Mỹ phải chấm dứt không diều kiện và vĩnh viễn việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Thắng lợi vang dội của ta trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 ở miền Nam và thắng lợi chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ đối với miền Bắc đã buộc tổng thống Mỹ đêm 3 1-3-1968 phải tuyên bố ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận đàm phán với ta ở Pari. Thực hiện chủ trương của Đảng "vừa đánh vừa đàm", quân dân miền Bắc tiếp tục đánh thắng máy bay và tầu chiến Mỹ từ vĩ tuyến 20 trở vào, tăng cường chi viện cho miền Nam với khối lượng lớn để đánh thắng "chiến tranh cực bộ" của Mỹ. Ngày 1- 11- 1968 Tổng thống Mỹ buộc phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn việc ném bom bắn phá và mọi hành động chiến tranh khác chống Việt Nam dân chủ cộng hòa, chấp nhận họp Hội nghị Pari để giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam, thừa nhận đại diện chính thức của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong Hội nghị.

Các hoạt động tư tưởng đã nêu cao thắng lợi của ta, sự thất bại không sao cưỡng lại được của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Vỉệt Nam và tuyên truyền phổ biến rộng rãi Lời kêu gọi ngày 3-11-1968 của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Chúng ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc. Song đó mới chỉ là thắng lợi bước đầu. Đế quốc Mỹ rất ngoan cố và xảo quyệt... Vì vậy, nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất tổ quốc… Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi"[47].

b) Động viên quân dân miền Nam đánh bại các cuộc phản công chiến lược của Mỹ, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của chúng.

Trong 10 năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1964), đối tượng tác chiến trực tiếp và đấu tranh trực diện về chính trị của quân và dân ta ở miền Nam chủ yếu là ngụy quân, ngụy quyền được Mỹ chỉ huy, huấn luyện và tài trợ. Nay trong "chiến tranh cục bộ" quân dân ta ở miền Nam phải trực tiếp đương đầu với quân viễn chinh Mỹ và quân đội tay sai, với bộ mày chiến tranh khổng lồ chưa từng có trong lịch sử chiến tranh xâm lược nước ta.

Chúng ta quyết đánh, nhưng bằng cách nào đê đánh thắng Mỹ vẫn là một câu hỏi lớn, một vấn đề tư tưởng mà Đảng ta, quân dân ta phẫi giải quyết trong thự tiễn chiến đấu.

Ngày 8-3- 1965 đơn vị đầu tiên của lữ đoàn số 9 lính thủy đánh bộ Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng (tỉnh Quảng Đà - khu V). Mở đầu kế hoạch, Mỹ đưa ồ ạt quân viễn chinh vào miền Nam Việt Nam, triển khai chiến lược "chiến tranh cục bộ". Lúc đầu, trước đối tượng tác chiến mới, có xã khi quân Mỹ đến càn, du kích "chạy xà đùa", chưa dám đánh; một số các bà, các chỉ chưa dám đấu tranh chính trị trực diện với quân Mỹ.

Nghị quyết của Thường vụ tỉnh ủy Quảng Đà khẳng định quyết tâm: "Miền Nam chưa được giải phóng thì còn đánh, chiến tranh gì cũng đánh, đối tượng nào cũng đánh, địch đông bao nhiêu cũng đánh, lâu bao nhiêu cũng đánh,… Chúng ta có nhiệm vụ đánh Mỹ trước tiên bằng "hai chân, ba mũi" để đóng góp kinh nghiệm cho toàn miền và góp phần đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ". Tỉnh ủy gửi thư động viên quân dân toàn tỉnh kiên quyết đánh Mỹ. Ban Tuyên giáo phối hợp với các ngành, các đoàn thể tiến hành cuộc vận động “Nhà nhà đón thư Đảng bàn việc chống Mỹ, cứu nước", "Toàn dân hiến kế đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Huyện Hòa Vang lập vành đai diệt Mỹ"[48]. Khu ủy V lãnh đạo đánh trận phủ đầu quân Mỹ ở Núi Thành (đêm 26-5- 1965) diệt gọn một đại đội, thu toàn bộ vũ khí. Tiếp đó là chiến thắng lớn của quân dân ta ở Vạn Tường (8- 1965), đánh bại trận ra quân rầm rộ, hiệp đồng binh chủng đầu tiên của quân Mỹ trên một khu vực do chúng lựa chọn...

Công tác tuyên truyền của ta đã nêu rõ chiến thắng Núi Thành, Vạn Tường chứng tỏ quân dân ta có khả năng đánh bại quân Mỹ mặc dù chúng có ưu thế về số lượng, hỏa lực và sức cơ động. Tiếp đó, trong thu - đông 1965, quân dân Nam Bộ và Tây Nguyên liên tiếp đánh thắng các đơn vị có tiếng là thiện chiến của Mỹ (Sư đoàn kỵ binh không vận số 1, Lữ đoàn 173, Sư đoàn bộ binh số "anh cả đỏ") như các trận Plây Me (Tây Nguyên), Dất Cuốc, Bàu Bàng, Dầu Tiếng... (Nam Bộ). Những chiến thắng đó được thông tin nhanh chóng làm nức lòng quân dân cả nước và là thực tế chứng minh quân dân ta ở miền Nam chẳng những dám đánh Mỹ mà còn biết đánh thắng các quân, binh chung Mỹ, chẳng những đánh tiêu hao mà còn có khả năng đánh tiêu diệt từng đơn vị Mỹ, làm chủ chiến trường. Tháng 1- 1966, bộ đội địa phương và du kích Củ Chi (thuộc quân khu Sài Gòn - Gia Định) bám trụ địa bàn, bằng cách đánh mưu trí, sáng tạo, đánh bại cuộc tiến công của Lữ đoàn dù 173 và Sư đoàn "anh cả đỏ" của Mỹ, diệt hàng ngàn tên; hơn 2.000 lượt quần chúng đấu tranh chính trị trực diện với quân Mỹ. Tháng 2- 1966 Bộ Tư lệnh quân khu Sài Gòn - Gia Định tổng kết chiến tranh nhân dân địa phương trên địa bàn huyện Củ Chi rút ra 10 bài học kinh nghiệm đanh Mỹ:

- Ai cũng đánh được Mỹ.

- Vũ khí gì cũng đánh được Mỹ.

- Nhiều cũng đánh, ít cũng đánh, một người, một tổ cũng đánh và đều đánh thắng.

- Ở đâu cũng đánh được Mỹ. Đánh ở rừng, ở xóm, ở ấp chiến lược, ở đồng lầy. Chỉ cần tích cực bám dịch, tìm địch mà đánh là được.

- Đánh cả ở trong xã, ấp chiến đấu và ngoài xã, ấp chiến đấu, chỉ cần nâng cao quyết tâm tìm Mỹ mà đánh, tìm Mỹ mà diệt.

- Có khả năng đánh thắng các loại binh chủng Mỹ.

- Đánh bằng vũ trang, đánh bằng chính trị, đánh cả bằng binh vận.

Những kinh nghiệm phong phú nói trên của quân và dân ta là cơ sở thực tiễn để tiến hành công tác tư tưởng có sức thuyết phục cao, từng bước giải quyết những băn khoăn của đồng bào và chiến sĩ ta trong thời gian đầu trực tiếp chiến đấu với quân Mỹ. Từ chỗ dám đánh, quân và dân ta đã tiến lên biết cách đánh thắng Mỹ. Quyết tâm kháng chiến và niềm tin chiến thắng được củng cố vững chắc hơn. Phong trào "tìm Mỹ mà diệt", thi đua trở thành "dũng sĩ diệt Mỹ" phát triển rộng khắp. Để tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục, năm 1966 khu ủy V xuất bản báo Cờ giải phóng với danh nghĩa cơ quan của Đảng Nhân dân Cách mạng miền Nam khu V.

Triển khai chiến lược "chiến tranh cục bộ", cùng với quân. Mỹ và quân chư hầu ồ ạt kéo vào miền Nam Việt Nam, chiến tranh bằng bom đạn, chiến tranh bằng thuốc độc hóa học chiến tranh tâm lý, văn hóa được Mỹ - nguỵ tăng cường đến cực độ. Ở Sài Gòn và các đô thị khác, địch khủng bố và kiểm soát rất gắt gao, nhưng dưới sự lãnh đạo của đảng bộ và cần cán bộ hoạt động bí mật, phong trào đấu tranh của nhân dân và các giới báo chí, văn nghệ sĩ, trí thức, học sinh, sinh viên yêu nước, trên mặt trận tuyên truyền, báo chí, văn hóa diễn ra sôi động.

"Nội các chiến tranh" mới của Thiệu - Kỳ quyết định đóng cửa các báo ở Sài Gòn trong một tháng, từ ngày 1-7-1965 là để "chấn chỉnh báo chí". Báo chí thành phố lập tức họp Đại hội bất thường, các báo đều đăng ở trang nhất trong khung đen dòng chữ "Chúng tôi cực lực phản đối quyết định đó của tất cả các báo". Nhân dân Sài Gòn ủng hộ mạnh mẽ các báo. Chính quyền Sài Gòn buộc phải rút lệnh đóng cửa xuống ba ngày. Trước tình hình cac biểu hiện văn hóa nô dịch và đồi truỵ phát triển làm nhức nhối mọi người dân yêu nước, dưới sự lãnh đạo của thành ủy, Đảng ủy văn hóa và Ban Trí vận Sai Gòn tiến hành cuộc vận động phong trào quần chúng bảo vệ van hóa dâTl tộc, bảo vệ nhân phẩm phụ nữ Việt Nam, bảo vệ tinh thần thanh thiếu niên Việt Nam. Tháng 6-1966, 118 văn nhân, nghệ sĩ, ký giả Sài Gòn ra tuyên bố tố cáo văn hóa đồi truỵ, phản dân tộc. Lực lượng bảo vệ văn hóa dân tộc ra đời ngày 7-8-1966 với lời kêu gọi: "Phải cứu lấy văn hóa chúng ta", đã tập hợp được đông đảo trí thức, văn nghệ sĩ, các nhà hoạt động xã hội thuộc những khuynh hướng chính trị khác nhau. Tờ Tin văn, cơ quan ngôn luận của Lực lượng bảo vệ văn hoá dân tộc (do Thành ủy lãnh đạo) có ảnh hưởng lớn trong dư luận, quy tụ được rất đông các cây bút yêu nước, nhiều người dân thường ở Sài Gòn gom góp tiền bạc để báo Tin văn sống được và phục vụ phong trào. Cuộc thảo luận trên báo Tin văn về bảo vệ văn hóa dân tộc (8- 1966), chống văn hóa đồi truỵ và những nguyên nhân trực tiếp, chính yếu của văn hoá đồi truỵ đã đưa đến chỗ động viên chống chiến tranh xâm lược, chống sự có mặt của quân đội nước ngoài (Mỹ). Phong trào bảo vệ văn hóa dân tộc, bảo vệ nhân phẩm phụ nữ Việt Nam, bảo vệ tinh thần thanh thiếu niên Việt Nam không chỉ lên mạnh ở Sài Gòn mà phát triển nhanh và rộng ra các thành phố và các tỉnh miền Nam. Lực lượng bảo vệ văn hoá dân tộc còn thành lập Nhà xuất bản Đồ Chiểu.

Một trong các tác phẩm đầu tiên được in là Mười bài sứ ca (1967) tập hợp các ca khúc nổi tiếng (Hội nghị Diên Hồng. Ải Chi Iăng, Bạch Đãng Giang, Lên Đàng...). Những khúc tráng ca này đã góp phần hun đúc tinh thần tự hào dân tộc vốn tiềm ẩn trong tâm hồn thế hệ trẻ. Mỹ - Thiệu tức tối đóng cửa báo Tin văn và Nhà xuất bản Đồ Chiểu. Hai phong trào bảo vệ văn hóa dân tộc, bảo vẹ nhân phẩm phụ nữ Việt Nam tuy bị Mỹ - Thiệu đàn áp, giải tán, nhưng đã ghi lại những thành tích đấu tranh rất đáng trân trọng của nhân dân miền Nam, các ký giả, văn nghệ sĩ, trí thức, học sinh, sinh viên yêu nước miền Nam chống Mỹ - nguỵ trên mặt trận văn hóa[49].

Từ tháng 1 đến tháng 4-1966 Mỹ - Ngụy sử dụng 72 vạn quân cùng nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại mở cuộc phản công chiến lược thứ nhất vào hai chiến trường trọng điểm: miền Đông Nam Bộ và khu V, nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân chủ lực của ta, phá căn cứ, kho tàng của ta, giành lại quyền chủ động chiến trường, mở rộng và củng cố vùng chiếm đóng của chúng. Nhưng chúng đã bị quân và dân ta ở Đông Nam Bộ và khu V đánh bại. Các hoạt động tư tưởng đã nêu cao ý nghĩa chiến thắng của quân dân Đông Nam Bộ và khu V đánh bại ngay từ đầu chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ, qua chiến đấu, quân dân ta hiểu biết thêm về khả năng tác chiến và quy luật hoạt động của quân Mỹ và chư hầu, có thêm kinh nghiệm về cách đánh thắng chúng.

Phát huy thắng lợi đông xuân 1965 - 1966, thực hiện Chỉ thị ngày 26-6- 1966 của Thường vụ Trung ương cục, các đảng bộ ở miền Nam tăng cường công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng động viên toàn đảng, toàn quân, toàn dân nỗ lực vượt bậc, quyết chiến, quyết thắng giành thắng lợi to lớn trong năm 1967. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng được đặt thành công tác trọng tâm hàng đầu, nhằm xây dựng con người quyết chiến quyét thắng giặc Mỹ xâm lược để cứu nước "phát huy đến đỉnh cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Năm 1967, các đảng bộ địa phương tiến hành ba đợt giáo dục chính trị tư tưởng: Đợt mùa Xuân sinh hoạt chính trị theo lời chúc năm mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh; đợt mùa Hè học tập nghị quyết của cấp trên, tiến hành chỉnh huấn; đợt mùa Đông động viên chính trị, quán triệt nhiệm vụ đông xuân 1967 - 1968. Kết quả của công tác giáo dục chính trị tư tưởng năm 1967 đã nâng cao ý chí quyết chiến quyết thắng cho đảng viên, cán bộ, chiến sĩ và quần chúng, củng cố sự vững vàng trong nội bộ đồng thời góp phần tiến công mạnh vào các hoạt động chiến tranh tâm lý, chiêu hồi, chiêu hàng rất xảo quyệt của địch.

"Vì miền Nam ruột thịt" là ý chí và hành động của quân dân miền Bắc chi viện hết sức mình cho cách mạng miền Nam. "Tìm Mỹ mà đánh", "tìm ngụy mà diệt" là ý chí và hành động của quân dân miền Nam chia lửa với miền Bắc, góp phần bảo vệ miền Bắc. Công tác tuyên truyền đã nêu cao những hoạt động phối hợp giữa quân dân cả nước: miền Nam gọi, miền Bắc trả lời, miền Bắc gọi, miền Nam trả lời. Năm 1966 - 1967 hơn 5 vạn bộ đội và hàng vạn tấn vũ khí, phương tiện chiến tranh được chuyển từ miền Bắc vào miền Nam. Hòa nhịp với phong trào "thanh niên ba sẵn sàng", "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" ở miền Bắc, thanh niên miền Nam đẩy mạnh phong trào "năm xung phong". Các đoàn cán bộ quân sự và cán bộ các ngành, trong đó có hàng ngàn cán bộ thông tin, báo chí, văn hóa, giáo dục và nhiều phương tiện công tác tăng cường cho miền Nam. Với lực lượng ngày càng được tăng cường, quân dân miền Nam đánh mạnh, đánh hiểm giáng cho địch những đòn đau, và tích cực chuẩn bị mọi mặt, quyết tâm đánh bại những cố gắng cao nhất của Mỹ trong mùa khô l966-1967

Mùa khô 1966 - 1967, quân và dân ta đã chiến đấu anh dũng bẻ gãy cả ba cuộc hành quân quy nô lớn: Atơnbơrơ, Xêđaphôn và Gianxơnxiti của hơn 1 triệu quân Mỹ - ngụy. Phối hợp chiến đấu với quân dân miền Nam, ngày 73-1967 pháo binh miền Bắc bất ngờ bắn phá vào các vị trí địch ở bên kia sông Bến Hải, mở mặt trận mới, tiến công tuyến phòng ngự đường 9 của địch, làm nức lòng quân dán cả nưóc và buộc địch phải bị động đối phó.

Gọng kìm "bình định" diễn ra rất phức tạp và quyết liệt. Mỹ - nguỵ liên tục mở các cuộc càn quét khủng bố nhân dân san ủi làng mạc, phá phách rụộng vườn, dùng cả máy bay ném bom bắn phá và rải chất độc hóa học làm cho đồng bào ta ở nhiều nơi lâm vào cảnh tan đàn xe nghé, mất sạch tài sản, sống cảnh màn trời chiếu đất rất cơ cực. Bằng những hành động dã man đó, chúng hy vọng tách cán bộ, bộ đội, du kích ra khỏi nhân dân mỗi xóm, ấp để tiêu diệt, song chúng đã thất bại. Dù địch chà đi xát lại nhiều lần, nhưng lực lượng cách mạng ở cơ sở, nòng cốt là các đảng viên và tổ chức đảng đã dày dạn trong chiến đấu, vẫn kiên trì thực hiện "ba bám" tuyên truyền vận động và tổ chức quần chúng phát triển chiến tranh du kích đánh trả các cuộc càn quét của địch, tiêu hao sinh lực chúng, diêt bọn "cán bộ bình định", huy động hơn 1 triệu lượt người tham gia đấu tranh chống địch càn quét khủng bố, bắn pháo, ném bom, rải chất độc hóa học, bắt lính đôn quân. Phong trào toàn dân làm công tác binh vận phát triển kế hoạch của Thiệu bắt lính, đưa quân chủ lực lên 70 vạn tên gặp khó khăn, đôn trên thì hổng dưới; kế hoạch vơ vét l triệu tấn thóc ở đồng bằng sông Cửu Long cũng thất bại Kết thúc mùa khô năm 1967, Mỹ đánh giá chương trình bình định và phát triển nông thôn của Việt Nam Cộng hỏa đã thất bại.

Trên cơ sở đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của quân Mỹ, cach mạng miền Nam đã tạo được thế chiến lược mới để tiến lên giành thắng lợi to lớn hơn. Quân Mỹ ở Nam Việt Nam đã phải lùi dần về chiến lược phòng ngự. Thương vong ngày càng lớn của quân Mỹ dội về nước, chọc thủng màn bưng bít của chính quyền Mỹ. Cuộc đấu tranh của nhân dân và thanh niên tiến bộ Mỹ chống chính sách của chính phủ Mỹ tiến hành chiến tranh âm lược Việt Nam ngày càng phát triển làm cho nhà cầm quyền Mỹ thêm khó khăn cả ở trong nước và trên mặt trận ngoại giao, nhất là trong thời điểm sắp chuyển sang năm 1968 là năm bầu cử Tổng thống mới của Mỹ.

Tháng 6- 1967, căn cứ những diễn biến thực tế trên chiến trường, Hội nghị Bộ Chính trị nhận định nhưng thắng lợi to lớn, toàn diện mà quân và dân ta giành được trên cả hai miền Nam, Bắc đã làm thất bại một bước rất cơ bản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, đẩy chúng vào thế lúng túng và bị động cả về chiến lược lẫn chiến dịch. Về phía ta, thế và lực đang có những tiến bộ, cho phép ta trên cơ sở phương châm đánh lâu dài, đây mạnh nỗ lực chủ quan đến mức cao nhất để giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn. Thực hiện mục tiêu đó, các đảng bộ ở miền Nam dặc biệt coi trọng công tác tư tưởng trong Đảng quân đội và nhân dân. Tháng 9- 1967 Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua, dũng sĩ diệt Mỹ lần thứ hai biểu dương mạnh mẽ thắng lợi to lớn của quân dân miền Nam chống "chiến tranh cục bộ" của Mỹ. Các hoạt động tuyên truyên giáo dục đã nêu cao những tấm gương chiến đấu dũng cảm và mưu trí của các anh hùng dũng sĩ, nhằm tạo một khí thế sục sôi cách mạng hết sức khẩn trương, thừa thắng xông lên liên tục tiến công, đè bẹp ý chí xâm lược của giặc Mỹ. Thực hiện hướng dẫn của Trung ương cục, các cấp ủy đảng tiến hành củng cố các Ban Tuyên ìluấn, tăng cường cán bộ, bồi dưỡng về chính trị, nghiệp vụ và hướng dẫn công tác để Ban Tuyên huấn các cấp giúp cấp ủy đắc lực hơn trong lãnh đạo công tác phát động tư tưởng quần chúng. Lúc này công tác phát động quần chúng là cực kỳ quan trọng vì cách mạng miền Nam đang đứng trước một giai đoạn lịch sử đặc biệt với quyết tâm chiến lược lớn, cuộc chiến đấu sắp tới sẽ diễn ra rất quyết liệt và phức tạp.

Trên cơ sở phân tích toàn bộ tình hình ta, địch, tình hình trong nước và trên thế giới, tháng 1- 1968, Hội nghị lần thứ 14 của Trung ương Đảng quyết định "chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thế kỷ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định". Thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng, các đảng bộ ở miền Nam, lực lượng vũ trang và chính trị trên khắp các chiến trường từ vùng núi đến nông thôn đồng bằng và các đô thị khẩn trương chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy.

Đêm 20-1-1968, chủ lực ta bất ngờ tiến công mãnh 1, tập đoàn cứ điểm Khe Sanh ở tây Quảng Trị trên Đường Phòng tuyến Mắc Namara của Mỹ nhằm ngăn chặn chi viện của miền Bắc cho miền Nam bị uy hiếp nghiêm trọng. Giữa lúc địch đang bị động chống đỡ ở Đường 9 Khe Sanh, đêm 30-1- 1968 (30 tết Mậu Thân) lực lượng vũ trang ta mở cuộc tiến công và nổi dậy đồng loạt ở 41 thành phố, thị xã và hàng trăm quận lỵ, thị trấn trên toàn miền Nam, đánh trúng nhiều sào huyệt và cơ quan đầu não của địch, đặc biệt ở các thành phố lớn như Sài Gòn, Huế... Về chính trị, chính sách đại đoàn kết dân tộc, chĩa mũi nhọn vào giặc Mỹ xâm lược và bọn tay sai giành thêm một thắng lợi mới: tại Huế và Sài Gòn, Liên minh dân tộc, dân chủ và hòa bình được thành lập và sau đó Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Nam Việt Nam ra đời (20-4- 1968), kêu gọi các tầng lớp nhân dân, trí thức đứng lên chống Mỹ - ngụy. Bị tiến công bất ngờ, mãnh liệt và rộng khắp. địch hoang mang rối loạn. Quân Mỹ phải rút chạy khỏi Khe Sanh (Quảng Trị). Nhưng ngay sau đó, chúng nhanh chóng tổ chức lực lượng phản kích quyết liệt.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân được mở ra đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của nhân dân trong nước và dư luận tiến bộ trên thế giới. Các hoạt động tư tưởng trong cả nước, nhất là báo chí, đài phát thanh, đã bám sát diễn biến tình hình, thông tin nhanh chóng chiến thắng lớn của ta, thất bại nặng nề của địch. Đặc biệt nêu rõ ý nghĩa cuộc tổng tiến công và nổi dậy diễn ra đồng loạt với quy mô lớn chưa từng có trên toàn miền Nam. Đây là lần đầu tiên quân ta đánh thẳng vào sào huyệt, hang ổ và các cơ quan đầu não của địch, gây hoang mang lớn trong đội ngũ của chúng. Cuộc tiến công mạnh mẽ của quân dân ta đã làm cho kế hoạch chiến tranh và thế bố trí chiến lược của địch bị đảo lộn, Mỹ - Ngụy càng lún sâu hơn vào thế bị động về chiến lược. Ở miền Nam, Trung ương cục liên tiếp ra 2 chỉ thị (ngày 1-2 và ngày 27-2- 1968) hướng dẫn công tác tuyên truyền, cổ vũ mạnh mẽ quan dân miền Nam thừa thắng xốc tới và đẩy mạnh công tác binh vận. Khuyết điểm của công tác tư tưởng trong đợt này là chưa làm rõ tổng tiến công và nổi dậy là một giai đoạn quyết liệt, không phải "làm cái rụp" là xong; không uốn nắn kịp thời tư tưởng chủ quan, đánh giá quá thấp khả năng phản kích của địch.

Thắng lợi của ta trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã gây chấn động lớn trong chính giới và trong nhân dân Mỹ, bóc trần những luận điệu lừa bịp lâu nay của chính quyền Mỹ đối với nhân dân nước họ, làm bùng lên phong trào nhân dân Mỹ đòi giới cầm quyền Mỹ xem xét lại chính sách tiến hành chiến tranh Việt Nam, đòi chấm dứt dính líu của Mỹ trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Trước sức ép nặng nề từ nhiều phía, ngày 25-3- 1968 Tổng thống Mỹ Giônxơn buộc phải quyết định thay đổi chiến lược quân sự ở Việt Nam, từ "tìm và diệt" lui về "quét và giữ"; tăng cường quân nguỵ để đối phó với ta, từng bước thực hiện "phi Mỹ hóa chiến tranh", giảm sự dính líu trên bộ của Mỹ ở Nam Việt Nam, ngừng ném bom bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra. Ngày 13-5-1968 Mỹ buộc phải cử đại biểu đến Pari đàm phán với ta, song mặt khác chúng vẫn tập trung đánh phá vùng khu IV cũ rất ác liệt, đồng thời mở các cuộc phản kích ở miền Nam, đẩy lực lượng của ta ra xa các đô thị và ráo riết tiến hành "bình định cấp tốc" nhằm giành giật lại các vùng nông thôn đã mất, hy vọng bằng biện pháp quân sự, giành được thế mạnh trong đàm phán.

Với tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân và dân ta, cuộc tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968 đã đạt thắng lợi ta lớn. Nhưng mặt yếu là phong trào nổi dậy và công tác binh vận, địch vận còn kém, trước những khó khăn mới, ta không chuyển kịp để tiếp tục tiến công đợt hai và đợt ba khi yếu tố bất ngờ đã không còn và lực lượng bị tiêu hao chưa kịp củng cố. Lợi dụng sơ hở của ta do dồn lực lượng đánh vào đô thị, không củng cố vững chắc vùng đã giành quyền làm chủ ở nông thôn, những tháng cuối năm 1968 địch dồn sức tiến hành các chiến dịch bình định giành lại hầu hết những khu vực đã mất trong các đợt chiến dịch bình định giành lại hầu hết những khu vực đãmats trong các đợt tiến công và nổi dậy.

Trước những diễn biến mới của tình hình, đã xuất hiện những đánh giá khác nhau về kết quả tiến công và nổi dậy, nảy sinh tâm hoài nghi bi quan. Căn cứ vào những nhận định của Trung ương Đảng, công tác tư tưởng đã nêu rõ ý nghĩa thắng lợi, mà ý nghĩa lớn nhất là một đòn quyết định làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", bước leo thang cao nhất của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, từ đó làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, tạo nên bước ngoặt mới của chiến tranh. Thắng lợi to lớn đó bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng và là kết qua của tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân và dân ta, sự hy sinh to lớn của đồng bào và chiến sĩ. Đảng ta đã đánh giá đúng ý nghĩa của thắng lợi, đồng thời cũng nhận rõ những khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ dạo của Đảng: "Chủ quan trong việc đánh giá tình hình cho nên dù đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế, ta đã không kịp thời kiểm điểm rút kinh nghiệm ngay nhằm đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời; ta chậm thấy những cố gắng mới của địch, những khó khăn lúc đó của ta, không đánh giá hết âm mưu địch trong kế hoạch bình định nông thôn nhằm giành lại những vùng đã mất". "Ta cứ đánh mãi trong khi chúng ta đã bị tiêu hao nặng, mất dân, mất đất nhiều". Sau tết Mậu Thân ta chuyển chậm, chủ trương tiếp tục các đợt tiến công vào đô thị khi không còn điều kiện là sai lầm về chỉ đạo chiến lược, để địch gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất" (Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng). Tuy nhiên, "cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) vẫn giữ một vị trí rất to lớn và oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng"[50].



Каталог: tailieugioithieuBTG
tailieugioithieuBTG -> CHƯƠng II công tác tư TƯỞng trong thời kỳ kháng chiến chống pháP (1945 1954)
tailieugioithieuBTG -> CHƯƠng II công tác tư TƯỞng trong thời kỳ kháng chiến chống pháP (1945 1954) III. ĐỘng viên phong trào thi đua yêu nưỚC: diệt giặC ĐÓI, diệt giặc dốT, diệt giặc ngoại xâM, chống chính sách “DÙng ngưỜi việT ĐÁnh ngưỜi việT
tailieugioithieuBTG -> CHƯƠng III công tác tư TƯỞngtrong thời kỳ kháng chiến chống mỹ,CỨu nưỚc và XÂy dựng chủ nghĩa xã HỘI
tailieugioithieuBTG -> CHƯƠng IV công tác tư TƯỞng trong thời kỳ LÃnh đẠo xây dựng chủ nghĩa xã HỘi trong cả NƯỚc và tiến hành công cuộC ĐỔi mớI (1975 2000)

tải về 310.96 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương