ChưƠng I : miễn trách nhiệm trong hợP ĐỒng mua bán hàng hóa quốc tế LÀ GÌ ?



tải về 30.56 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu05.12.2022
Kích30.56 Kb.
#53923
Thuyết trình.


CHƯƠNG I : MIỄN TRÁCH NHIỆM TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ LÀ GÌ ?
Miễn trách nhiệm trong trường hợp vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là việc không buộc bên có hành vi vi phạm phải chịu trách nhiệm hợp đồng trong những trường hợp pháp luật quy định hoặc các bên thỏa thuận trong mua bán hàng hoá quốc tế.
Các giao dịch trong lĩnh vực thương mại hàng hoá, chủ yếu thông qua các hợp đồng, luôn diễn ra "sôi động" nhất, giữ vị trí trung tâm trong các giao dịch thương mại quốc tế. Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là dạng hợp đồng được các chủ thể của quan hệ thương mại quốc tế sử dụng phổ biến và thường xuyên nhất trong các hoạt động thương mại của mình.
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế mang đầy đủ các đặc trưng cơ bản của hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài). Tính quốc tế hay đặc điểm của yếu tố nước ngoài của quan hệ chính là điểm khác biệt của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế với hợp đồng mua bán hàng hoá thông thường.
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế mang những đặc trưng của hợp đồng mua bán tài sản. Ở đó, có sự thoả thuận giữa bên bán và bên mua nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ mua bán, theo đó, bên bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu tài sản là đối tượng của hợp đồng cho bên mua, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán giá trị hàng hoá cho bên bán theo thoả thuận.
CHƯƠNG II : CÁC TRƯỜNG HỢP MIỄN TRÁCH NHIỆM TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
2.1. MIỄN TRÁCH NHIỆM TRONG TRƯỜNG HỢP MỘT BÊN VI PHẠM HỢP ĐỒNG GẶP “TRỞ NGẠI”
Theo quy định tại Mục IV khoản 1 Điều 79 CISG:
“Một bên không chịu trách nhiệm về việc không thực hiện bất kỳ một nghĩa vụ nào đó của họ nếu chứng minh được rằng việc không thực hiện ấy là do một trở ngại nằm ngoài sự kiểm soát của họ và người ta không thể chờ đợi một cách hợp lý rằng họ phải tính tới trở ngại đó vào lúc ký kết hợp đồng hoặc là tránh được hay khắc phục các hậu qủa của nó”.
Trở ngại tức là sự kiện xảy ra khách quan không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể và gây khó khăn cản trở cho chủ thể đó. Trở ngại này sau khi có đủ các dấu hiệu thì chủ thể gặp trở ngại sẽ được miễn trách nhiệm. Trên cơ sở quy định tại Điều 79, trở ngại có đầy đủ ba dấu hiệu:
+ Dấu hiệu thứ nhất: Trở ngại nằm ngoài sự kiểm soát của các bên. Một sự kiện muốn thỏa mãn dấu hiệu này cần thỏa mãn ba điều kiện: phải xảy ra khách quan không phụ thuộc vào ý chí của bên vi phạm; không có lỗi của bên vi phạm gây ra trở ngại này; trở ngại phải hoàn toàn vượt khỏi phạm vi ảnh hưởng của họ hoặc phạm vi trách nhiệm của họ. Sự kiện đó có thể là các hiện tượng tự nhiên nhu sóng thần, động đất, núi lửa,…hoặc có thể là những sự kiện do con người tạo ra như đình công, bạo loạn, chiến tranh…Những sự kiện này phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới việc bên vi phạm không thể thực hiện nghĩa vụ của mình.
+ Dấu hiệu thứ hai: Những trở ngại này bên vi phạm đã không thể lường trước được trong quá trình giao kết hợp đồng. Tức là trở ngại đó phải không nhìn thấy trước được hay nằm ngoài khả năng dự kiến trước; các bên không biết hoặc không buộc phải biết sự kiện đó sẽ diễn ra; sự kiện đó phải là sự kiện bất thường, không thường xuyên lặp đi lặp lại như một quy luật.
Nếu trở ngại gây khó khăn do việc thực hiện hợp đồng có thể nhìn thấy trước hay dự kiến trước thì phải coi bên vi phạm nghĩa vụ đã tự mình tiếp nhận gánh chịu rủi ro về trở ngại phát sinh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
+ Dấu hiệu thứ ba: Những trở ngại này không thể tránh được và không thể khắc phục được hậu quả khi nó xảy ra.
Để đáp ứng dấu hiệu này, khi trở ngại có khả năng xảy ra hoặc đã xảy ra, bên vi phạm cẫn nỗ lực hết sức để khắc phục, né tránh trở ngại hoặc ít nhất là tác động tới hậu quả để lại của trở ngại nhằm hạn chế tối đa những thiệt hại tổn thất mà trở ngại đem lại. Vì thế, khi một sự kiện xảy ra mặc dù đáp ứng hai dấu hiệu trên nhưng bên vi phạm nghĩa vụ đã có thể tránh, khắc phục được trở ngại hoặc tác động vào hậu quả trở ngại bằng các biện pháp tích cực, cần thiết, kịp thời với khả năng thực hiện của mình mà không làm thì vẫn phải chịu trách nhiệm.

Ví dụ : Tranh chấp giữa một công ty Nga (người bán) và một công ty Bỉ (người mua). Người bán kiện người mua ra trọng tài đòi người mua bồi thường thiệt hại do người mua không mở thư tín dụng (L/C). Người mua cho rằng mình không mở thư tín dụng là do gặp bất khả kháng. Hai bên tranh cãi về sự kiện bất khả kháng mà bên mua viện dẫn. Tranh chấp được xét xử tại Trung tâm trọng tài quốc tế Paris, phán quyết số 7197/1992.

2.2. MIỄN TRÁCH NHIỆM TRONG TRƯỜNG HỢP BÊN THỨ BA GẶP TRỞ NGẠI

Trong quan hệ thương mại quốc tế, hợp đồng không chỉ được ký kết giữa bên bán và bên mua mà còn có sự tham gia của nhiều bên liên quan được gọi là bên thứ ba. Trường hợp bên thứ ba gặp khó khăn, ngay lập tức ảnh hưởng tới việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; bên cạnh đó, khi một bên vi phạm hợp đồng, thường xảy ra tình huống họ viện dẫn lỗi của bên thứ ba tham gia thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng để hưởng miễn trách nhiệm.


Khoản 2 Điều 79 CISG quy định:
“Nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình do người thứ ba mà họ nhờ thực hiện toàn phần hay một phần hợp đồng cũng không thực hiện điều đó thì bên ấy chỉ được miễn trách nhiệm trong trường hợp:
a. Ðược miễn trách nhiệm chiếu theo quy định của khoản trên, và.
b. Nếu người thứ ba cũng sẽ được miễn trách nếu các quy định của khoản trên được áp dụng cho họ”.

Bên vi phạm hợp đồng sẽ được miễn trách nhiệm trong trường hợp việc vi phạm hợp đồng do lỗi của người thứ ba (người được bên vi phạm giao cho hoàn thành toàn bộ hoặc một phần hợp đồng). Trong khi đó người thứ ba không hoàn thành nghĩa vụ của mình và hậu quả là gây thiệt hại. Tuy nhiên, không phải bất cứ trường hợp nào thiệt hại do bên thứ ba gây nên cũng được hưởng quyền miễn trách nhiệm. Bên vi phạm hợp đồng do lỗi của người thứ ba chỉ được miễn trách nhiệm khi người thứ ba rơi vào “trở ngại” như trường hợp trên.

2.3.MIỄN TRÁCH NHIỆM DO LỖI CỦA BÊN BỊ VI PHẠM
Điều 80 CISG quy định: “Một bên không được viện dẫn một sự không thực hiện nghĩa vụ của bên kia trong chưng mực mà sự không thực hiện nghĩa vụ đó là do chính những hành vi hay sơ suất của chính họ”.
Theo quy định trên, bên vi phạm nghĩa vụ sẽ được miễn trách nhiệm nếu như nguyên nhân của việc vi phạm đó do những hành vi hay sơ suất của chính bên bị vi phạm. Nói cách khác, bên vi phạm sẽ mất quyền yêu cầu bên vi phạm chịu trách nhiệm về việc không thực hiện nghĩa vụ của mình nếu như việc không thực hiện đó xuất phát từ chính những hành vi và sơ suất của bên bị vi phạm. Quy định miễn trách nhiệm do lỗi của bên bị vi phạm là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với nguyên tắc lỗi. Người gây ra việc thực hiện không đúng hợp đồng thì họ không thể viện dẫn việc này để đem lại lợi ích cho chính họ, khi họ làm cho phía bên kia không thể thực hiện đúng nghĩa vụ thì họ không có quyền buộc bên kia phải chịu trách nhiệm.

2.4.THỎA THUẬN GIỮA CÁC BÊN VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI

Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không chỉ được điều chỉnh bởi các quy định pháp lí mà còn được điều chỉnh bởi chính các thỏa thuận của các bên được ghi nhận trong hợp đồng. Trên cơ sở tự do ý chí thể hiện ý chí, các bên có quyền thỏa thuận mọi vấn đề liên quan đến điều kiện của hợp đồng nhằm ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên với nhau, nếu thỏa thuận đó không trái với các quy định của pháp luật, trong đó có cả vấn đề loại trừ trách nhiệm khi có sự vi phạm hợp đồng của bên có nghĩa vụ trong những trường hợp nhất định.

Có thể nói rằng các bên khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thỏa thuận và quy định về trường hợp miễn trách nhiệm vào trong hợp đồng là một điều hết sức quan trọng và cần thiết. Vì rằng, mặc dù các hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới, cũng như các văn bản pháp lí quốc tế đều có quy định về các trường hợp miễn trừ trách nhiệm như sự kiện bất khả kháng, do lỗi của bên có quyền mà chúng ta đã phân tích ở phần trước. Tuy nhiên, nội hàm của các trường hợp miễn trách nhiệm nói trên ở các hệ thống pháp luật khác nhau là không giống nhau.

Hơn nữa các quy định của pháp luật về trường hợp miễn trách nhiệm chỉ đưa ra ở dạng các nguyên tắc chung, mô phỏng một cách khái quát hóa và trừu tượng hóa, chính vì vậy các bên khi cần viện dẫn để áp dụng trên thực tế luôn gặp phải những khó khăn nhất định; khắc phục hạn chế này, việc các bên quy định rõ ràng và cụ thể vào trong hợp đồng các trường hợp miễn trách nhiệm, không những tạo ra một hành lang pháp lí an toàn để các bên có thể dựa vào đó nhằm bảo vệ quyền lợi của mình mà còn giúp cho cơ quan giải quyết tranh chấp cũng như các bên có thể dễ dàng áp dụng trên thực tế.
2.5 . ĐIỀU KIỆN ĐỂ SỬ DỤNG ĐIỀU KHOẢN MIỄN TRÁCH NHIỆM THEO CÔNG ƯỚC VIÊN 1980
Theo Công ước Viên 1980, trở ngại ngoài khả năng kiểm soát như thiên tai, dịch bệnh chưa phải là căn cứ để bên vi phạm hợp đồng được miễn trừ trách nhiệm nếu trở ngại đó không thỏa mãn những điều kiện sau:
Điều kiện thứ nhất, sự miễn trách chỉ có hiệu lực trong thời kỳ tồn tại trở ngại đó. Như vậy, nếu muốn được miễn trừ trách nhiệm do sự trở ngại ngoài khả năng kiểm soát - như thiên tai, dịch bệnh, theo Điều 79 Công ước Viên 1980, bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh thời điểm vi phạm hợp đồng diễn ra trong giai đoạn xảy ra thiên tai, dịch bệnh đó.

Điều kiện thứ hai, bên nào không thực hiện nghĩa vụ của mình thì phải báo cáo cho bên kia biết về trở ngại. Theo đó, tình huống bất khả kháng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự vi phạm hợp đồng của một bên. Nghĩa vụ thông báo là một dạng thức của việc thực hiện nguyên tắc thiện chí, trung thực trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại quốc tế. Công ước Viên cũng quy định rõ: nếu thông báo không tới tay bên kia trong một thời hạn hợp lý, từ khi bên không thực hiện nghĩa vụ đã biết hay đáng lẽ phải biết về trở ngại đó, thì họ sẽ phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do việc bên kia không nhận được thông báo.


Điều kiện thứ ba, bên không thực hiện nghĩa vụ của mình còn phải báo cáo cho bên kia biết về sự ảnh hưởng của trở ngại đối với khả năng thực hiện nghĩa vụ. Trong lý luận về miễn trừ trách nhiệm do bất khả kháng , đây là điều kiện về mối quan hệ nhân quả giữa tình huống bất khả kháng và việc không thực hiện nghĩa vụ. Theo đó, nếu bất khả kháng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến vi phạm hợp đồng của một bên thì bên vi phạm mới được hưởng điều khoản miễn trách.

Ngoài những điều kiện quy định tại Điều 79, Công ước Viên 1980, bên vi phạm hợp đồng muốn được hưởng miễn trừ trách nhiệm trong trường hợp bất khả kháng còn phải đáp ứng điều kiện tiên quyết. Đó là phải có điều khoản luật áp dụng, trong đó các bên thỏa thuận chọn Công ước Viên 1980 là nguồn luật


CHƯƠNG III . THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG VÀ NÊU KIẾN NGHỊ , ĐỀ XUẤT

3.1. THỰC TIỄN
+Vẫn còn hạn chế về việc xác định sự kiện bất khả kháng
+Hạn chế trong việc trường hợp miễn trách nhiệm do lỗi của bên kia
Việc chứng minh sự tồn tại của bất khả kháng tương đối khó khăn do thời điểm diễn ra dịch bệnh ở mỗi địa phương, mỗi đất nước khác nhau.
Theo quy định tại Khoản 3, Điều 79, Công ước Viên 1980, một trong những điều kiện để bên vi phạm được áp dụng điều khoản miễn trách là phải chứng minh được sự vi phạm hợp đồng xảy ra tại một thời điểm trong giai đoạn tồn tại trở ngại đó. Từ đó, có thể thấy, nếu bên vi phạm muốn được miễn trừ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại quốc tế trong trường hợp thiên tai, dịch bệnh thì bên vi phạm phải chứng minh được thời điểm vi phạm nằm trong thời gian tồn tại của thiên tai, dịch bệnh đó. Tuy nhiên, việc chứng minh được thời điểm này là không dễ dàng, bởi đặc thù của dịch bệnh là có sự lây lan dần trên diện rộng và đặc biệt đại dịch toàn cầu

3.2. KIẾN NGHỊ , ĐỀ XUẤT



Nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp đang hoạt động thương mại quốc tế bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh như hiện nay, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần xem xét một số giải pháp và nhanh chóng cân nhắc để đưa vào thực tiễn.
Bên cạnh đó, cần nhanh chóng thông tin công khai những cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy xác nhận sự kiện thiên tai, dịch bệnh,
Một giải pháp khác cũng cần được nhắc tới là việc nhanh chóng áp dụng các gói tín dụng hỗ trợ cho doanh nghiệp như: cho doanh nghiệp vay với lãi suất ưu đãi, giảm lãi vay, hỗ trợ kịp thời cho doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh.
Cuối cùng, cần sự chuẩn bị các chính sách và lộ trình áp dụng các gói giải pháp kích thích hoạt động ngoại thương khi dịch bệnh từng bước được kiểm soát và chấm dứt. Điều này nhằm giúp hoạt động ngoại thương dần phục hồi, đặc biệt là: các chính sách về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, về thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và về hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam.
tải về 30.56 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương