Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế



tải về 259.49 Kb.
trang1/3
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích259.49 Kb.
#29532
  1   2   3
LỜI MỞ ĐẦU

Tính thiết yếu của đề tài.

“Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” là chủ trương sáng suốt và đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trước đòi hỏi tất yếu và cấp bách của toàn cầu hóa, quốc tế hóa ngày càng mạnh mẽ - quá trình này đang chi phối toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội của toàn thế giới. Với bước đi quan trọng trong quá trình hội nhập quốc tế đã được chỉ đạo kịp thời và chặt chẽ của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang nỗ lực tham gia vào các tổ chức và diễn đàn kinh tế khu vực, thế giới…

Hiện nay chúng ta đã là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, cùng những các khối liên kết kinh tế như AFTA, APEC… Bên cạnh những cơ hội mang lại cho quá trình phát triển kinh tế Việt Nam – thì chúng ta cũng phải đương đầu với rất nhiều khó khăn và thách thức trước xu thế của thời đại. Trong quá trình đó ngành kinh tế nói chung và Hàng không nói riêng đều giữ vai trò quan trọng trong hoạt động giao lưu buôn bán quốc tế.

Ngành hàng không đã có nhiều đóng góp trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển, tăng thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán. Đồng thời mở rộng trao đổi hàng hóa, giao lưu văn hóa, quảng bá hình ảnh đất nước Việt Nam với thế giới.

Với vai trò đặc biệt quan trọng như vậy thì việc nghiên cứu Ngành hàng không trong quá trình hội nhập có ý nghĩa hết sức quan trọng và cần thiết. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn này.

Ngành hàng không Việt Nam trong quá trình hội nhập”

Đã được lựa chọn làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.

Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa luận được chia làm 3 Chương:

Chương 1: Tổng quan về ngành hàng không Việt Nam.

Chương 2: Sự tác động của toàn cầu hóa tới hàng không Việt Nam.

Chương 3: Định hướng và chính sách phát triển của ngành Hàng không Việt Nam.

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH HÀNG KHÔNG VIỆTNAM
1.1. LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA NGÀNH HÀNG KHÔNG VIỆT NAM.

1.1.1. Sự ra đời của ngành hàng không nói chung.



Hàng không là thuật ngữ nói đến việc sử dụng máy bay, máy móc, khí cụ do con người chế tạo ra có thể bay được trong khí quyển. Nói chung, thuật ngữ này cũng mô tả những hoạt động, những ngành công nghiệp và những nhân vật nổi tiếng liên quan đến máy bay, máy móc và khí cụ bay.

Ước mơ được như chim bay lên bầu trời đã ấp ủ trong lòng nhân loại ở mọi dân tộc, tôn giáo kể từ khi con người biết ước mơ mà điển hình được văn học hình tượng hoá rõ nhất là câu chuyện của cha con Daedalus và Icarus với đôi cánh bằng lông chim gắn sáp trong thần thoại Hy Lạp.

Nhưng trong hàng nghìn năm đã qua mong muốn đó đối với con người chỉ dừng lại ở ước mơ: một vài người có các thí nghiệm bay nhưng đều thất bại và không gây được tiếng vang nào và con người đã an phận là không thể bay được như chim… Mãi cho đến thời kỳ Phục Hưng, trong các ghi chép của Leonardo da Vinci ở thế kỷ XV người ta tìm thấy các bản vẽ về thiết bị bay có nguyên tắc giống như máy bay trực thăng ngày nay, với cơ cấu quay cánh quạt bằng dây chun xoắn lại và có cả bản vẽ người nhảy dù. Từ đó một số người táo bạo không chỉ ước mơ mà đã tin tưởng là con người có thể bay được: một loạt các nhà tiên phong trong lĩnh vực hàng không đã có các thực nghiệm để bay vào không trung. Nhưng tất cả họ cho đến thế kỷ 19 đều thực hiện việc bay bằng cơ chế “vỗ cánh” mô phỏng động tác bay của chim và tất cả đều thực hiện việc bay bằng “sức mạnh cơ bắp” (dùng tay vẫy cánh hoặc dùng chân đạp cơ cấu truyền lực như khi đạp xe đạp), khi đó con người chưa có động cơ để thực hiện bay… Con người không thể bay được chỉ với sức mạnh cơ bắp.

Vào thế kỷ XIX cách mạng khoa học kỹ thuật bùng nổ ở châu Âu và Mỹ con người đã có các nền tảng để bay vào không khí: đó là lý thuyết về thuỷ khí động học với các nhà khoa học đi đầu như Daniel Bernoulli, George Cayley, Nikolai Yegorovich Zhukovski (Николай Егорович Жуковский)…trong đó, liên quan trực tiếp để bay được là các lý thuyết và tính toán về lực nâng khí động học hay còn gọi là lực nâng Zhukovski đã được Zhukovski trình bày rất rõ ràng khi sáng lập ngành khoa học thuỷ khí động học. Việc phát minh ra động cơ nhiệt có thể sản sinh ra công suất lớn gấp hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn lần sức người đã mở ra triển vọng thắng trọng lực để bay thực sự vào không khí.
Từ đầu đến cuối thế kỷ XIX một loạt các nhà tiên phong hàng không đã tiến hành các thí nghiệm bay thành công với lực nâng khí động học bằng tàu lượn: Otto Liliental người Đức đã bay bằng thiết bị bay và lái giống như diều Delta (Deltaplane) mà ngày nay là một ngành thể thao rất phát triển; Huân tước George Cayley người Anh đã dùng thiết bị có động cơ bay được nhưng vẫn không thể tự cất cánh mà vẫn phải dùng ngựa kéo; Một người Pháp là Jean-Marie Le Bris với máy bay L’Albatros artificial có động cơ với trợ lực sức ngựa kéo đã cất cánh và bay lên được độ cao 100 m và xa 200 m… Tất cả các nguyên nhân chính ngăn cản sự phát triển của ngành hàng không trong thời kỳ này là chưa có một động cơ tốt vừa nhỏ nhẹ vừa phát huy được công suất lớn, vì thời kỳ đó con người vẫn chỉ dùng động cơ hơi nước rất nặng nề, có chỉ số công suất riêng (mã lực/kg), thấp và chưa có nghiên cứu chuyên ngành về khí động học nên các nhà tiền phong của ngành hàng không (NHK) chỉ làm theo kinh nghiệm mò mẫm, hiệu suất lực nâng không cao đòi hỏi diện tích cánh phải rất lớn, nặng nề và chưa có hình dạng thích hợp để bảo đảm vừa có lực nâng tốt vừa có độ vững chắc của kết cấu cánh.


Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, đầu thế kỷ XX sự xuất hiện của ô tô với động cơ đốt trong có công suất mạnh, lại gọn nhẹ thì việc bay được đã trở thành hiện thực trước mắt.

Năm 1903 đánh dấu cho lịch sử NHK bằng chuyến bay của anh em nhà Wright người Mỹ, máy bay của họ có động cơ đã có thể duy trì bay trong một khoảng cách vài trăm mét, tuy rằng chưa thể tự cất cánh mà vẫn phải sử dụng thiết bị phóng và khi cất cánh, hạ cánh phải lựa theo chiều gió, nhưng thành công của họ cho thấy máy bay là hoàn toàn hiện thực và đã gây tiếng vang lớn trong dư luận, tạo động lực cho việc nghiên cứu phát triển NHK.

Những năm 1920 đến cuối chiến tranh thế giới thứ hai, là thời kỳ nở rộ của kỹ thuật máy bay. Yếu tố quan trọng nhất của kỹ thuật máy bay là động cơ được quan tâm đặc biệt, không còn là động cơ tự chế hoặc cải tiến từ động cơ thông thường, mà đã được các hãng lớn chuyên sản xuất động cơ máy bay tạo ra loại động cơ có công suất rất lớn, có sức lai cánh quạt đường kính lớn, lực đẩy mạnh cho phép nâng sức nặng, kích thước và tốc độ bay nhanh hơn.

Thời kỳ này, động cơ đốt trong chạy bằng xăng thường là nhiều xi lanh bố trí hình sao. Các cơ cấu điều khiển của máy bay đã hoàn chỉnh: máy bay đã có thể thực hiện được các hình nhào lộn phức tạp. Việc tăng kích thước và các thông số của máy bay đòi hỏi kết cấu vững chắc nhưng vẫn phải nhẹ nên thân vỏ gỗ chỉ còn tồn tại trên những máy bay nhẹ loại nhỏ hai tầng cánh mà thôi, còn hầu hết máy bay đã có thân hợp kim nhôm vừa nhẹ vừa có độ bền vững kết cấu tốt. Vì tốc độ đã cao (đến 500–700 km/h) nên không cần diện tích cánh lớn, máy bay chỉ cần một tầng cánh để nâng, điều này làm tăng tính cơ động linh hoạt của máy bay lên rất nhiều. Tất cả máy bay đều đã có cabin kín bằng thuỷ tinh hữu cơ. Ngoài những thiết bị bay, máy bay được trang bị thêm rất nhiều các bộ phận phụ trợ khác như radio liên lạc, các hệ vũ khí: súng máy, pháo, bom, đạn các loại. Đặc biệt thời kỳ này người ta đã sử dụng dù là phương tiện cứu sinh cho phi công và để tạo ra một binh chủng mới là quân nhảy dù. Sự phát triển của máy bay thời kỳ trước và trong đại chiến gắn liền với sự phát triển không quân của các nước.

Trước chiến tranh thế giới thứ hai, không quân các nước đã phát triển chuyên môn hoá ra các nhánh trong không quân.

Với sự lớn mạnh của không quân, tính chất chiến tranh đã thay đổi rất nhiều.

Sau chiến tranh thế giới thứ 2, kỹ thuật máy bay phát triển rất mạnh theo nhiều hướng khác nhau nhưng có thể thấy vài điểm chính đặc trưng cho giai đoạn này là: phát triển động cơ, phát triển cấu trúc máy bay, phát triển các công năng đặc dụng, phát triển theo công nghệ cao và phát triển trực thăng.
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của ngành hàng không Việt Nam.


* Thời kỳ đầu tiên:

Lịch sử của NHK Quốc gia Việt Nam bắt đầu từ tháng Giêng năm 1956, khi Cục Hàng không Dân dụng được Chính phủ thành lập, đánh dấu sự ra đời của Ngành Hàng không Dân dụng ở Việt Nam. Vào thời điểm đó, đội bay còn rất nhỏ, với vẻn vẹn 5 chiếc máy bay cánh quạt IL 14, AN 2, Aero 45… Chuyến bay nội địa đầu tiên được khai trương vào tháng 9/1956. Hai mươi năm sau đó, NHK Việt Nam vẫn chưa có sự phát triển.

Giai đoạn 1976 - 1980 đánh dấu việc mở rộng và khai thác hiệu quả nhiều tuyến bay quốc tế đến các các nước châu Á như Lào, Cam-pu-chia, Trung Quốc, Thái Lan, Phi-lip-pin, Ma-lai-xi-a và Xinh-ga-po. Vào cuối giai đoạn này, hàng không dân dụng Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (ICAO).

Tháng 4 năm 1993 chính là thời điểm lịch sử khi Hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines) chính thức hình thành với tư cách là một tập đoàn kinh doanh vận tải hàng không có quy mô lớn của Nhà nước. Vào ngày 27/05/1996, ngành hàng không Việt Nam được thành lập trên cơ sở liên kết 20 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh dịch vụ hàng không, lấy Vietnam Airlines làm nòng cốt.

* Tiến trình phát triển của Vietnam Airlines.

Vào ngày 20/10/2002, Vietnam Airlines giới thiệu biểu tượng mới  -  Bông Sen Vàng, thể hiện sự phát triển của Vietnam Airlines để trở thành Hãng hàng không có tầm cỡ và bản sắc trong khu vực và trên thế giới. Đây là sự khởi đầu cho chương trình định hướng toàn diện về chiến lược thương hiệu của Vietnam Airlines, kết hợp với những cải tiến vượt trội về chất lượng dịch vụ, mở rộng mạng đường bay và đặc biệt là nâng cấp đội máy bay.

Tháng 10/2003, Vietnam Airlines tiếp nhận và đưa vào khai thác chiếc máy bay hiện đại với nhiều tính năng ưu việt Boeing 777 đầu tiên trong số 6 chiếc Boeing 777 đặt mua của Boeing. Sự kiện này đánh dấu sự khởi đầu của chương trình hiện đại hóa đội bay của hãng. Ba năm sau đó, Vietnam Airlines trở thành một trong những hãng hàng không có đội bay trẻ và hiện đại nhất trong khu vực.

 Trong 15 năm qua, với tốc độ tăng trưởng trung bình hơn 10%/ năm (trừ giai đoạn khủng hoảng tài chính ở châu Á năm 1997), ngành hàng không Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh và vươn lên trở thành một hãng hàng không có uy tín trong khu vực châu Á nhờ thế mạnh về đội bay hiện đại, mạng bay rộng khắp và lịch nối chuyến thuận lợi, đặc biệt là tại Đông Dương.
Khởi đầu với những chuyến bay nội địa không thường lệ, ngày nay mạng đường bay của Vietnam Airlines đã mở rộng đến 19 tỉnh, thành phố trên cả nước và 42 điểm đến quốc tế tại Mỹ, Châu Âu, Úc và Châu Á.


Năm 2006, sau khi được đạt được chứng chỉ uy tín về an toàn khai thác của Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế (IATA),  Vietnam Airlines đã chính thức trở thành thành viên của Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế và khẳng định chất lượng dịch vụ mang tiêu chuẩn quốc tế của mình.

Xuất phát từ đặc thù của hoạt động VTHK là sử dụng công nghệ cao, gồm nhiều công đoạn với những yêu cầu cao và sự phối hợp chặt chẽ theo những qui trình nghiêm ngặt đối với mỗi mắt xích trong dây chuyền công nghệ đó. Chính vì thế, NHK Việt Nam đã đề ra định hướng, chuyển giao công nghệ (CGCN) là nhiệm vụ và tiêu chí hàng đầu trong các dự án lớn và dài hạn; chuẩn hóa quốc tế các qui trình, qui định chuyên ngành; ưu tiên cho kỹ thuật, công nghệ hiện đại theo hướng đi tắt đón đầu; linh hoạt trong chiến lược phát triển, đặc biệt là trong lĩnh vực CGCN và cạnh tranh thị trường.

Trong hơn mười năm qua, thị trường VTHK có rất nhiều biến động phức tạp do phải chịu ảnh hưởng nặng nề của hàng loạt biến cố trên toàn thế giới, như khoảng hoảng tài chính khu vực châu Á (1997-1998), khủng bố 11/9/2001 tại Mỹ, hai lần chiến tranh vùng Vịnh (năm 1991 và 2003), đại dịch SARS và gần đây nhất là dịch cúm gia cầm. Trong bối cảnh đó, do kiên trì thực hiện mục tiêu chiến lược đề ra, HKVN đã vững vàng vượt qua khó khăn, tận dụng mọi cơ hội và phát huy nội lực, từng bước xây dựng Vietnam Airlines từ một hãng hàng không nhỏ bé thành hãng hàng không trẻ, năng động, có bản sắc và uy tín trong khu vực. Trong 10 năm liền HKVN vẫn duy trì được mức tăng trưởng bình quân là 12,5%, cao gấp rưỡi mức tăng GDP của Việt Nam (từ 7-9%). Vận chuyển hành khách tăng từ 1,1 triệu lượt hàng khách năm 1993 lên 4 triệu lượt hành khách năm 2003; tổng doanh thu giai đoạn 1993-2003 là 75.442 tỷ đồng, tăng bình quân 23%/năm; thị phần vận chuyển quốc tế tăng từ 37% lên 42-44%; đội máy bay của HKVN không ngừng được tăng cường và hiện nay thuộc hàng trẻ và hiện đại nhất thế giới: năm 2000: 21 chiếc; năm 2001: 25 chiếc; năm 2002: 29 chiếc và tính đến hết tháng 12/2003: trong nước có 34 chiếc, trong đó có 11 chiếc thuộc sở hữu, bao gồm: 07B-767; 13 A-320 và A-321; 8 ATR-72; 2 Fokker F70 và 4 chiếc B-777, loại máy bay mới nhất và hiện đại nhất hiện nay, bắt đầu được khai thác từ tháng 4/2003. Mạng đường bay gồm 25 đường bay quốc tế tới khoảng 42 điểm trên thế giới, hơn 20 đường bay nội địa tới 16 tỉnh, thành phố, với tần suất bay nội địa 56 chuyến/ngày và 49 chuyến quốc tế/ngày[1, tr 5]. Nhằm khẳng định thương hiệu quốc tế và thế mạnh về đội bay trẻ, hiện đại, Vietnam Airlines đã để lại ấn tượng mạnh mẽ khi cùng với Công ty cho thuê tàu bay Việt Nam mà Vietnam Airlines là một trong những sáng lập viên, k‎ý một hợp đồng mua máy bay lớn gồm 12 chiếc Boeing 787, 10 chiếc Airbus A350 - 900, 20 chiếc Airbus A321 và 5 chiếc ATR72 - 500 trong năm 2007. Vietnam Airlines hy vọng sẽ mở rộng đội bay lên mức 104 chiếc máy bay hiện đại vào năm 2015 và 150 chiếc vào năm 2020.
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÀNH HÀNG KHÔNG VIỆT NAM

* Công cụ lao động

Trang thiết bị của ngành Hàng không gồm:

Ðội máy bay vận tải dân dụng các loại. Thiết bị điện tử - viễn thông hàng không. Thiết bị phù trợ không vận, vận chuyển thương mại hàng không. Máy móc và thiết bị bảo dưỡng máy bay, bộ phận cơ điện lạnh, máy vận chuyển và nâng hạ .v.v.

* Ðiều kiện lao động

Trừ nghề phi công và tiếp viên là phải làm việc trên bầu trời khi máy bay cất cánh nên thường chịu tác hại bởi vi khí hậu lạnh và tải gia trọng. Nghề khai thác vận tải hàng không có tư thế làm việc thường là đứng và nhiều khi phải cúi khom để vận chuyển hàng hoá, đồng thời thường bị tác hại bởi tiếng ồn và chấn động bởi động cơ nổ của các loại máy bay gây ra.

Còn các nghề khác thì làm việc ở cảng hàng không, thường làm việc ở trạng thái căng thẳng và ức chế tâm lý do công việc phục vụ liên tục, cần phải chuẩn xác và khoa học.

1.2.1. Cơ cấu tổ chức của ngành hàng không Việt Nam.



NHK Việt Nam có hệ thống tổ chức bộ máy quản lý ngày càng tiên tiến, hội nhập với hàng không thế giới. Những năm gần đây, cơ quan quản lý NHK Việt Nam đã tách hẳn khối sản xuất kinh doanh, chấm dứt hiện tượng "vừa đá bóng, vừa thổi còi" trong lĩnh vực quản lý, đặc biệt là giám sát an toàn bay

Mỗi ngành nghề được hình thành đều có mục đích và đối tượng phục vụ khác nhau. Đối tượng phục vụ của ngành Quản lý bay là các hoạt động bay, mà đội ngũ máy bay ngày càng được trang bị các thiết bị hiện đại sẽ bay cao, bay xa, nhanh hơn và tần suất hoạt động cũng cao hơn.

Song song với việc đầu tư thiết bị hiện đại tiên tiến với trình độ công nghệ cao, Trung tâm quản lý bay đang tích cực đào tạo nguồn nhân lực để đội ngũ nhân viên của Trung tâm có khả năng nắm bắt khai thác tốt và làm chủ thiết bị. Đến nay, toàn bộ kiểm soát viên không lưu, nhân viên kỹ thuật cuả Trung tâm quản lý bay đã được huấn luyện về khai thác, sử dụng các hệ thống thiết bị mới như: ATM Automation, VCCS (Trung tâm chuyển mạch thoại), các cán bộ kỹ thuật đầu ngành được huấn luyện theo chiều sâu theo từng lĩnh vực như: phương pháp khắc phục sự cố, cài đặt hệ thống chức năng cuả thiết bị. Muốn cho toàn bộ hệ thống hoạt động liên tục, ổn định 24/24h, thì yếu tố điện, nước, đường truyền với độ an toàn khoảng 300% mới đảm bảo cho hệ thống được liên hoàn.

Với các lĩnh vực hoạt động về Quản lý Nhà nước (trong ngành HK dân dụng VN), Cảng HK - sân bay, quản lý - điều hành bay, kỹ thuật, thông tin thư viện, đào tạo và hợp tác quốc tế, ... Đã thực hiện hàng trăm nhiệm vụ KH&CN (gồm các đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ, Ngành), chủ trì và tham gia các hội nghị, hội thảo quốc tế trong và ngoài nước, tổ chức thành công triển lãm thành tựu Kinh tế - Kỹ thuật Hàng không. Xuất bản định kỳ các ấn phẩm thông tin (Thông tin Kinh tế - Kỹ thuật Hàng không, Thông tin Hàng không và Tin nhanh Hàng không), duy trì hoạt động Thư viện khoa học và công nghệ Hàng không phục vụ bạn đọc trong và ngoài ngành, tồ chức hàng trăm lớp đào tạo cho hàng ngàn học viên, trong đó tổ chức đào tạo tiếng Anh đến trình độ đại học…

Chìa khóa cho những thành tựu trên là do HKVN đã tăng cường đầu tư có trọng điểm cho công tác đào taọ, huấn luyện, phát triển, nâng cao năng lực hệ thống, đảm bảo nguồn nhân lực đủ khả năng vận hành những trang thiết bị và công nghệ hiện đại, điều hành có hiệu quả qui trình sản xuất, kinh doanh theo mô hình một hãng hàng không quốc tế. Đây thực sự là một quá trình đấu tranh để đổi mới và hoàn thiện toàn bộ hệ thống khai thác vận tải hàng không theo những mô hình tiên tiến, được kiểm soát chặt chẽ, cập nhật thường xuyên.
Song song với đổi mới, hiện đại hóa công nghệ, đổi mới hệ thống quản lý điều hành, một yêu cầu bắt buộc là phải thực hiện chiến lược đào tạo nguồn nhân lực theo tiêu chuẩn quốc tế để vận hành và khai có hiệu quả hệ thống đó. Trong 10 năm qua, HKVN đã triển khai đào tạo huấn luyện, CGCN trong và ngoài nước cho gần 18.000 lượt người, trong đó chủ yếu là phi công, kỹ thuật viên và cán bộ quản lý. Từ chỗ đi thuê toàn bộ tổ lái và máy bay vào những năm 1993-1994, đến nay, HKVN đã đào tạo, đáp ứng được 80% lái chính, 90% lái phụ cho B-777/767, A-320/321; 100% người lái cho ATR-72 và Fokker-70. Hơn 900 lượt kỹ sư, thợ máy được đào tạo và chuyển loại tại nước ngoài năm 2002, gần 1100 lượt người năm 2003. Đến nay, đội ngũ kỹ thuật có khả năng đảm nhận hầu hết các vị trí chủ chốt trong lĩnh vực bảo dưỡng máy bay mà trước đây phải thuê của nước ngoài. Các xí nghiệp máy bay đã bắt đầu cung ứng dịch vụ bảo dưỡng cho các hãng Hàng không quốc tế và nội địa, tạo nguồn thu mới, mở rộng và nâng cao vị thế cạnh tranh quốc tế.


Khoa học và công nghệ luôn phát triển theo hướng tích cực. Để nâng cao hiệu quả ứng dụng thành tựu mới của khoa học và công nghệ, đòi hỏi người quản lý và đội ngũ làm công tác chuyên môn phải chủ động nắm bắt sự đổi mới, phải biết thay đổi cái mình đang có sao cho phù hợp và thích nghi với sự đổi mới, hay nói một cách khác là phải biết quản trị sự đổi mới một cách có hiệu quả và đó cũng là nhiệm vụ trọng tâm của công tác đào tạo. Do đó, để có đủ nguồn nhân lực có khả năng làm chủ công nghệ hiện đại, phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH ngành VTHK của Việt Nam, đẩy nhanh quá trình hội nhập, hợp tác và nâng cao năng lực cạnh tranh.

Trước xu thế cạnh tranh ngày càng khốc liệt và toàn cầu hóa thị trường VTKH, đối với HKVN, song song với việc thực thi chiến lược đổi mới công nghệ thì quan tâm đến yếu tố con người, thường xuyên tăng cường đào tạo và tái đào tạo nguồn nhân lực là những nhân tố then chốt cho HKVN vững bước trên con đường hội nhập và phát triển.

Thực trạng trên đã tác động đến sự ra đời của Học viện hàng không

Học viện được thành lập ngày 17/7/2006 theo Quyết định số 168/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ trên cơ sở Trường Hàng không Việt Nam.

Hiện nay, Học Viện có 6 Khoa chuyên ngành như sau:

  • Khoa Không Lưu

  • Khoa Cảng Hàng Không

  • Khoa Cơ Bản

  • Khoa Vận tải hàng Không

  • Khoa Bổ Túc cán Bộ & Hợp Tác Quốc tế

  • Khoa Điện tử viễn thông hàng không

Học viện Hàng không Việt Nam là cơ sở đào tạo công lập đã có bề dày truyền thống với gần 30 năm đào tạo và phát triển. Hàng ngàn học sinh, sinh viên tốt nghiệp của Học viện đã và đang đóng góp đáng kể vào sự nghiệp phát triển của ngành Hàng không dân dụng Việt Nam cũng như công cuộc xây dựng kinh tế của đất nước.

Năm học 2007-2008 là năm đầu tiên Học viện thực hiện đồng thời nhiệm vụ đào tạo ở bậc đại học, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề. Trong bối cảnh đổi mới cải cách của nền giáo dục nước nhà và xu hướng hội nhập với thế giới, tất cả các chương trình đào tạo được xây dựng mới cũng như xây dựng lại theo hướng thực tiễn, cập nhật và hiệu quả hướng đến thực tế sản xuất kinh doanh và dịch vụ của ngành hàng không dân dụng Việt Nam và phù hợp với quốc tế, bảo đảm Học sinh - Sinh viên tốt nghiệp được trang bị kiến thức nền tảng cơ bản, có kỹ năng phong cách chuyên nghiệp, có khả năng phát triển, tạo cơ hội tốt tham gia vào thị trường lao động trong nước và có khả năng đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế.

Chất lượng đào tạo được coi như yếu tố quan trọng hàng đầu của Học viện vì vậy chương trình đào tạo luôn được cập nhật, phương pháp giảng dạy luôn được đổi mới, môi trường thân thiện, các tiện ích của internet và thư viện sẽ giúp học sinh – sinh viên chủ động học tập, nghiên cứu theo hướng chủ động, tích cực và hiệu quả nhất. Sự thành đạt của học sinh, sinh viên luôn là mục tiêu phấn đấu của Học viện.

1.2.2. Cơ sở hạ tầng của ngành Hàng không Việt Nam.



Thực trạng hệ thống cảng hàng không (CHK), sân bay (SB) dân dụng.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế nói chung, đến nay, ngành hàng không dân dụng Việt Nam đã có những bước tiến đáng mừng, có những đổi mới đáng kể trên con đường hiện đại hóa. Chuyến bay của hãng hàng không hiện nay không chỉ đến với hầu hết các sân bay trong nước , mà còn vươn tới nhiều lục địa trên thế giới bằng các loại máy bay mới hiện đại. Các sân bay có thêm nhiều trang thiết bị để phục vụ hành khách, nhiều nhà ga, đường băng, sân đỗ được mở rộng. Trên lĩnh vực quản lý bay đã chuyển từ phương thức cổ điển sang phương thức hiện đại (nói, nghe, nhìn) với thiết bị mới nhất hiện nay, cùng với việc đổi mới trang thiết bị là sự tiến bộ về năng lực quản lý, trình độ tay nghề, chất lượng dịch vụ và phong cách phục vụ của đội ngũ cán bộ quản lý, kĩ thuật, kiểm soát viên không lưu…được đào tạo cơ bản hoặc bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ trong và ngoài nước.


Hiện nay Việt Nam có tổng số 22 sân bay, trong đó có 3 sân bay quốc tế tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh. Hệ thống sân bay phân bố đều khắp các vùng, mạng đường bay nội địa của HKVN đã được phát triển đều khắp, giải quyết được 2 mục tiêu cơ bản: đáp ứng nhu cầu đi lại bằng đường hàng không trong nước, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng, địa phương, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo và đảm bảo hỗ trợ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế của các hãng HKVN. Đến nay, chúng ta đã có 25 đường bay nội địa đến 19 tỉnh, thành phố, thị xã trên toàn quốc. Các mạng đường bay quốc tế của các hãng vận tải HKVN cũng không ngừng được tăng cường và mở rộng với 39 đường bay (36 đường bay trực tiếp và 3 đường bay liên doanh) từ 3 thành phố lớn (Hà Nội, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh) đến 42 điểm thuộc 15 quốc gia trên thế giới, trong đó có 11 điểm ở Đông Bắc Á, 6 điểm ở Đông Nam Á, 2 điểm ở Úc, 3 điểm ở Châu Âu và 2 điểm ở Bắc Mỹ. Về năng lực vận tải hàng không: Tổng số máy bay của các doanh nghiệp vận chuyển trong ngành tính đến thời điểm tháng 12/2005 là 47 chiếc; tỷ lệ sở hữu trên đầu máy bay đạt hơn 42%; tỷ lệ sở hữu trên tổng số ghế cung ứng xấp xỉ 30%[1, tr 7].

Tuy nhiên với tốc độ tăng trưởng như hiện nay, trong giai đoạn phát triển mới, các cảng hàng không ở nước ta cần phải hiện đại hóa hơn nữa để hội nhập với cộng đồng hàng không quốc tế, nhanh chóng đưa các sân bay quốc tế trở thành các trung tâm trung chuyển vận tải hàng không lớn của khu vực và thế giới.

CHK, SB - một nút giao thông quan trọng.

Ở mỗi thành phố, mỗi vùng miền, mỗi quốc gia và cả trên toàn thế giới, khi xây dựng hệ thống giao thông vận tải, phải tính toán, cân nhắc giữa các phương thức vận tải, nhu cầu sử dụng đối với từng loại phương thức này và các biến số chi phối nhu cầu, khả năng xây dựng các hệ thống trên để tìm ra phương án tối ưu. CHK, SB là một nút giao thông quan trọng trong hệ thống giao thông vận tải. Nó là nơi hội tụ cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng cơ bản của ngành hàng không, là nơi đưa đón hành khách, hàng hoá từ nơi này đến nơi khác. Ngày nay, CHK, SB còn là các trung tâm kinh tế, thương mại, du lịch, văn hoá. Hệ thống CHK, SB bao gồm nhiều CHK, SB có các tuyến bay đa hướng, các công trình giao thông hội tụ ở cả mặt đất, trên cao và dưới ngầm, có thể có các đường bộ, sắt, thuỷ kết nối nội địa hoặc liên vận quốc tế.

Khi xây dựng CHK, SB thì công suất của sân bay là một yếu tố cơ bản cần được xác định trước tiên. Thông thường, công suất của một sân bay, bến cảng phụ thuộc vào tính cân đối giữa các phương thức giao thông vận tải, khả năng đáp ứng nhu cầu giao thông vận tải của dân cư (về mức sống, thu nhập của dân cư) và các yếu tố liên quan đến mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng đối với vùng miền, khu vực và cả quốc gia. Các yếu tố đó thay đổi theo thời gian, dao động theo nhịp điệu vô cùng phức tạp và phong phú của cuộc sống. Sự phát triển phù hợp của hệ thống CHK, SB cũng không nằm ngoài ảnh hưởng chi phối của các yếu tố đó. Việc thiết kế quy hoạch hệ thống CHK, SB của một quốc gia đòi hỏi phải tính đến một cách toàn diện các yếu tố liên quan hợp thành đáp ứng nhu cầu dân sinh và an ninh quốc phòng. Có như vậy, hệ thống CHK, SB mới tham gia một cách hiệu quả vào phát triển kinh tế - văn hoá - chính trị - xã hội của quốc gia.

Diện tích sân bay chiếm khá nhiều đất đai, đòi hỏi vốn xây dựng, đền bù lớn. Bởi vậy, khi quy hoạch hệ thống CHK, SB dân dụng cần phải cân nhắc kỹ. Hệ thống CHK, SB phải đảm bảo được tính đồng bộ và hiện đại với các quy hoạch liên quan như quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng, miền và đường bộ - sắt - thuỷ nội địa - biển; quy hoạch xây dựng các khu đô thị, dân cư trong cả nước; chính trị, quốc phòng, an toàn biên giới, vùng trời, vùng biển gắn với an toàn xã hội, an ninh cộng đồng; các công nghệ tiên tiến trong dịch vụ đưa, đón, phục vụ hành khách (trước và sau khi bay). Từ đó, xác định quy mô và cấp hạng CHK, SB để lập ra danh mục thứ tự ưu tiên đầu tư xây dựng hệ thống CHK, SB cho tương lai, kèm theo nhu cầu đất đai, dự trù kinh phí cho từng CHK, SB trong toàn giai đoạn và phân kỳ đầu tư. Muốn vậy, phải lập ra các phương pháp thiết kế một cách khoa học và tìm ra các giải pháp thực hiện cụ thể, đảm bảo hệ thống CHK, SB khả thi trước mắt và đáp ứng nhu cầu phát triển của tương lai.

Các quốc gia phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Nga… đã chú trọng phát triển hệ thống CHK,SB phục vụ vận chuyển nhanh trong giao thông vận tải, đặc biệt trong công tác tìm kiếm, cứu nguy, chữa cháy, động đất, sạt lở đất, ngập lụt, kiểm soát an toàn giao thông, phòng chống tội phạm nguy hiểm xuyên quốc gia, đảm bảo trật tự trị an, ổn định xã hội. Việt Nam là nước có nhiều thiên tai bão lụt, có đường biên giới khá dài, có diện tích hẹp, có hải phận và thềm lục địa rộng lớn (gấp 3 lần diện tích đất liền) nên việc phát triển nhanh đường hàng không là nhu cầu sống còn, cấp thiết để đảm bảo sự phát triển kinh tế ổn định, vững chắc, bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh biên giới trong tình hình mới. Mặt khác, đây cũng là yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự phát triển của đất nước trong xu hướng toàn cầu hoá hội nhập, Việt Nam đang là "điểm đến của thiên niên kỷ mới" với nhiều di sản thế giới. Việc lập quy hoạch hệ thống CHK, SB đòi hỏi phải đồng bộ hoá, hiện đại hoá và tiến tới quốc tế hoá về vận chuyển ở các sân bay.

Đề án “Quy hoạch hệ thống CHK, SB toàn quốc" là sự kết hợp của hai đề án: Quy hoạch hệ thống CHK, SB dân dụng toàn quốc do Viện Khoa học Hàng không chủ trì và quy hoạch hệ thống sân bay quân sự do Công ty Tư vấn Thiết kế Công trình Hàng không thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân chủ trì.

Đề án quy hoạch lần thứ nhất đã soát xét 313 sân bay, bãi đậu trên toàn quốc, rút lại cần đưa vào quy hoạch hệ thống CHK, SB dân dụng gồm: 52 sân bay với 24 sân bay nhỏ gọi là sân bay dịch vụ và 28 sân bay lớn (sân bay cơ bản), trong đó có 3 cảng hàng không quốc tế và 3 cảng hàng không quốc tế dự bị.

Theo định hướng này, để đầu tư xây dựng 52 CHK, SB dân dụng trong toàn hệ thống, cần 20.000 ha đất với kinh phí 5,359 tỷ USD. Hiện ngành HKDD đang quản lý 3.191 ha đất và tài sản cố định trị giá 596 triệu USD, nay cần đầu tư bổ sung thêm 16.809 ha đất và kinh phí cần 4,763 nghìn USD để triển khai hệ thống CHK, SB dân dụng toàn quốc[1, tr 10].

Sự cần thiết phải điều chỉnh quy hoạch phát triển hệ thống CHK, SB.

Xét về 52 sân bay, trong đó có 28 sân bay cơ bản (cảng hàng không) hiện đã có 24 sân bay hoạt động phù hợp với thực tế song hiệu quả khai thác cần được tính kỹ hơn nữa. Các sân bay còn ở dạng tiềm năng là Cao Bằng, Lào Cai, Quảng Ninh, Thanh Hoá vì chưa hội đủ các điều kiện phù hợp cho phát triển. Kể từ khi bắt đầu lập đề án (năm 1993) đến 2003 đã được 10 năm. Qua thống kê cho thấy, thực tế tổng lượng vận chuyển hàng hoá, hành khách trong 10 năm qua đã đạt được là nằm trong khoảng dự báo của đề án. Quy mô từng sân bay nói chung đã phù hợp với sự phát triển, nhưng còn cần phải quy hoạch chi tiết bổ sung cho từng nơi, hiện triển khai còn chưa thoả đáng.

Trong những năm gần đây, nhiều nước châu Á như Singapore, Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc... đã đầu tư lớn xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng sân bay. Dự báo vào năm 2014 sẽ có thêm khoảng trên 100 tuyến bay thẳng từ châu Á tới Mỹ. Cuộc chạy đua nắm bắt thời cơ để xây dựng sân bay mới đã và đang diễn ra quyết liệt. Sân bay mới Inchon (Hàn Quốc) lớn gấp 12 lần sân bay Kaisan (Nhật Bản), với lệ phí rẻ hơn, đang thu hút mạnh các hãng hàng không khu vực và thế giới. Tận dụng lợi thế trong khi Trung Quốc chưa phát triển kịp hạ tầng cơ sở sân bay, Inchon đã trở thành một trong những cửa ngõ lớn vào một loạt thành phố lớn của Trung Quốc và hy vọng sẽ sớm trở thành điểm dừng chân của các máy bay khai thác các đường bay xuyên châu lục. Thái Lan dự định sẽ mở cửa sân bay quốc tế (là sân bay trục Sunwanaphumi) thứ hai vào năm 2005 để thay thế sân bay quốc tế Don Muang hiện nay đang được coi là sân bay trục của Đông Nam Á bị quá tải. Trong vòng 15 năm tới, Trung Quốc sẽ có tới 170 sân bay, trong đó có 37 sân bay quốc tế[5, tr 4].

Một điều đáng quan tâm nữa là quan niệm về mô hình của các CHK, SB trong thế kỷ 21 đã có nhiều đổi mới. Giờ đây, CHK, SB không chỉ là nơi hội tụ điểm các cơ sở hạ tầng kỹ thuật quan trọng của ngành HKDD mà còn là trung tâm kinh tế, thương mại, du lịch, dịch vụ vui chơi giải trí, văn hoá, thể thao... với những quan điểm mới về quy mô, kiến trúc, chức năng... của các CHK, SB tân tiến, hiện đại, phù hợp xu thế thời đại.

Từ các yếu tố trong nước và quốc tế nói trên cho thấy, chúng ta cần gấp rút điều chỉnh hệ thống CHK, SB toàn quốc cho phù hợp. Đây là một trong những nhiệm vụ cấp thiết của bộ Giao thông Vận tải và Ngành HKDD Việt Nam.

Thành lập Trung tâm đào tạo phi công cơ bản

Việt Nam Airlines được phép cùng các cơ sở đào tạo trong nước, hợp tác với nước ngoài thành lập Trung tâm đào tạo phi công cơ bản tại Việt Nam, tập trung đào tạo kỹ sư chuyên ngành hàng không.

Thủ tướng Chính phủ cũng chấp thuận cho Việt Nam Airlines xây dựng đề án thành lập hãng hàng không cổ phần trên cơ sở tổ chức lại Công ty Bay dịch vụ hàng không (VASCO) với sự tham gia của Công ty cổ phần cho thuê máy bay Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cùng các cổ đông khác.
1.3. VAI TRÒ CỦA NGÀNH HÀNG KHÔNG

Ngành hàng không Việt Nam có một tiềm năng và một đóng góp rất lớn cho phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng…

Trong quá trình hội nhập ngành Hàng không đóng vai trò rất quan trọng, trong đó thương hiệu Hàng Không Việt Nam đã được khẳng định rõ ràng. Trong những năm qua, Ngành hàng không Việt Nam đã duy trì được sự tăng trưởng mạnh mẽ và vững chắc, khẳng định được vị thế và vai trò của NHK quốc gia trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở các địa phương, cũng như thúc đẩy hoạt động đầu tư, xúc tiến du lịch và hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với các nước.

Năm 2008 NHK Việt Nam đã thực hiện tốt các chỉ tiêu, kế hoạch sản xuất, kinh doanh, nhất là trong vận tải hành khách và hàng hoá, kinh doanh có lãi, bảo đảm tuyệt đối an toàn, an ninh hàng không…góp phần vào kết quả kinh tế xã hội chung của đất nước.

Trong ngành hàng không, với sự tăng trưởng của nhu cầu hiện tại thì vai trò của thương hiệu không còn như truyền thống. Những yếu tố thực tế như giá cả, hành trình bay và thời gian bay luôn là những mối quan tâm hàng đầu ảnh hưởng tới quyết định mua vé của khách hàng. Đây là sự thật, thậm chí trong những trường hợpthương hiệu - bởi vì kinh nghiệm của thương hiệu, hay chính xác hơn, đó là đường bay trên không của thương hiệu. Điều này tạo ra một câu hỏi: Các thương hiệu chính xác đóng vai trò gì trong cái giá trị đang tăng của ngành hàng không?

Ngành hàng không là một hoạt động nằm trong lĩnh vực vận chuyển hàng hóa, giao lưu văn hóa, thúc đẩy du lịch phát triển nhằm mục đích phát triển kinh tế… Hoạt động đó không chỉ diễn ra ở trong nước mà còn ở nước ngoài, đặc biệt có sự tham gia của toàn bộ hệ thống kinh tế với sự điều hành của nhà nước.

Chính vì vậy ngành Hàng không có vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, nền kinh tế của một nước phát triển như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động kinh doanh của ngành hàng không.

Thông qua hoạt động hàng không có thể làm gia tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, kích thích đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao chất lương sống cho người dân.

Đối với những nước có trình độ phát triển còn thấp như nước ta thì những nhân tố tiềm năng là tài nguyên thiên nhiên và lao động, còn những yếu tố thiếu hụt là vốn, kỹ thuật, thị trường và khả năng quản lý.Chiến lược hướng về phát triển ngành hàng không thực chất là giải pháp mở cửa của nền kinh tế nhằm thu hút đầu tư nước ngoài về vốn và kỹ thuật, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam. Kết hợp chúng lại với tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các nước khác.

Ngành hàng không còn có vai trò mở rộng quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Phát triển ngành hàng không có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế với các nước, mặt khác chính các quan hệ đối ngoại lại tạo tiền đề cho việc mở rộng ngành hàng không.

Có thể nói NHK không chỉ đóng vai trò là chất xúc tác hỗ trợ phát triển kinh tế, mà nó cùng với hoạt động xuất nhập khẩu như là yếu tố bên trong trực tiếp tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ nền kinh tế như vốn, kỹ thuật, lao động, mở rộng thị trường…

Đối với nước ta, hướng mạnh về phát triển NHK là một trong những mục tiêu quan trọng trong phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại, qua đó tranh thủ đón bắt thời cơ, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, rút ngắn sự chênh lệch về trình độ của Việt Nam so với thế giới. Bất kì một quốc gia nào và trong thời kì nào có NHK phát triển thì nền kinh tế của nước đó, trong thời gian đó sẽ có tốc độ phát triển cao,lưu thông và trao đổi hàng hóa dễ dàng.

Tóm lại, NHK có nhiều đóng góp quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì NHK góp phần khai thác tối đa lợi thế, tiềm năng của đất nước đồng thời đẩy mạnh thu hút lợi ích từ bên ngoài.

CHƯƠNG 2: SỰ TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA TỚI HÀNG KHÔNG VIỆT NAM


2.1. THỰC TRẠNG CỦA HÀNG KHÔNG VIỆT NAM TRƯỚC HỘI NHẬP.

Qua 50 năm trưởng thành và phát triển, ngành Hàng không Việt Nam (HKVN) đã trải qua rất nhiều gian nan, thử thách. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, HKVN là đơn vị trực thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân đã trực tiếp tham gia chiến đấu và lập nhiều chiến công: Trong chiến dịch Tết Mậu Thân năm 1968, không quân đã dũng cảm, táo bạo vượt qua vĩ tuyến 17 chở vũ khí, lương thực chi viện cho quân và dân ta anh dũng đánh địch ở mặt trận Trị - Thiên (Huế). Trong Chiến dịch tổng tấn công Mùa xuân năm 1975, Ngành HKVN đã đáp ứng các yêu cầu thần tốc của mặt trận về vận tải phục vụ chiến đấu. Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, Ngành HKVN cũng tham gia có hiệu quả trong việc vận chuyển bộ đội, tiếp tế vũ khí, lương thực cho các đơn vị đang chiến đấu, thả dù tiếp tế lương thực cho nhân dân.

Ghi nhận những thành tựu này, trong 50 năm qua, HKVN đã được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều huân, huy chương các loại, trong đó có 1 Huân chương Hồ Chí Minh (Đoàn bay 919) và 3 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng Vũ trang nhân dân (Trung tâm Quản lý bay Dân dụng Việt Nam và Cụm cảng Hàng không miền Nam), 1 cá nhân là Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới. Ngoài ra, ngành HKVN cũng nhận được nhiều huân chương Độc lập, Quân công, Chiến công, Lao động dành cho các tập thể, cá nhân khác.

Trước thời kỳ Hội nhập ngành HKVN đã gặp không ít khó khăn như: Cơ sở hạ tầng hàng không, sân bay hiện nay còn thiếu và chưa đồng bộ, một số sân bay nội địa đang trong tình trạng quá tải, chất lượng dịch vụ và đào tạo cán bộ vẫn chưa đạt yêu cầu đặt ra, nhưng KHVN đã khắc phục những khó khăn đó để tiếp tục phát triển và hội nhập.

Trong hơn 40 năm qua (1956 – 2000), NHK Việt Nam không có nhiều biến đổi và phát triển chậm, cho đến khi thực hiện kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, Ngành HKVN triển khai nhiệm vụ trong bối cảnh chính trị của đất nước ổn định, kinh tế không ngừng phát triển, quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên, những biến cố lớn trong giai đoạn này (Sự kiện 11/9 năm 2001; chiến tranh Irắc năm 2002; dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS) năm 2003 và dịch cúm gia cầm năm 2004-2005) đã có những tác động nặng nề tới vận tải hàng không toàn cầu nói chung và vận tải hàng không Việt Nam nói riêng. Đây là những khó khăn cho toàn ngành trong việc thực hiện các định hướng, mục tiêu chiến lược cũng như các chỉ tiêu cụ thể đề ra cho cả một giai đoạn phát triển. Song, ngành HKVN đã nỗ lực phấn đấu và đã hoàn thành vượt mức kế hoạch 5 năm 2001-2005 đề ra trên tất cả các lĩnh vực.

Đối với lĩnh vực Vận tải Hàng không đã tạo được môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh thuận lợi. Nhờ vậy, các doanh nghiệp vận tải của Việt Nam đã từng bước vượt qua khó khăn về năng lực, vốn, công nghệ để ổn định sản xuất kinh doanh và phát triển. Đối với lĩnh vực quản lý và khai thác cảng hàng không, các cảng hàng không trong những năm qua đã được tập trung đầu tư nâng cấp, xây mới theo hướng hiện đại, góp phần giảm đáng kể tình trạng quá tải, chất lượng phục vụ hành khách ngày càng được nâng cao, sản lượng hành khách, hàng hóa thông qua các cảng hàng không không ngừng tăng và đã góp phần quan trọng đáp ứng nhu cầu tăng cường an ninh, quốc phòng, phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương. Hiện nay, ngành HK đang quản lý, khai thác 22 Cảng hàng không (CHK) trong đó có 3 CHK quốc tế và 19 CHK địa phương với tổng công suất là 14 triệu hành khách/năm. Có 10 CHK đạt cấp 4E, 10 CHK đạt cấp 4C và 2 CHK đạt cấp 3C theo phân cấp của Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (Internationnal Civil Aviation Organization)[1, tr 4].

Về quản lý, điều hành bay: Việt Nam đang quản lý và điều hành các hoạt động bay trong vùng trời có diện tích khoảng 1.200.000 km2 thuộc 2 vùng thông báo bay (FIR) là FIR Hà Nội và FIR Hồ Chí Minh. Với nhiệm vụ này, ngành quản lý điều hành bay không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ không lưu, đạt được trình độ tiên tiến của các nước trong khu vực...

Trước thời điểm Hội nhập Tổng giám đốc Tổng công ty HKVN, Viện Trưởng Viện KHHK ký quyết định phê duyệt thành lập Trung tâm dịch vụ KHCN.

Các sản phẩm dịch vụ chủ yếu Trung tâm dịch vụ KHCN hiện nay đang triển khai thực hiện bao gồm:

2.1.1. Lĩnh vực dịch vụ khoa học công nghệ của ngành Hàng không.



 Cung ứng các luận chứng kinh tế - kỹ thuật, các dự án quy hoạch, đầu t­theo đặt hàng.

   Tư­ vấn các vấn đề về thẩm định công nghệ, mua bán, chuyển giao công nghệ, sở hữu công nghiệp, bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, dịch vụ.

Hàng năm trung tâm đều có các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học phục vụ trực tiếp cho công tác quản lý của Tổng công ty HKVN như:

-   Chương trình áp dụng ISO 9000 trong Tổng công ty HKVN

-   Sở hữu công nghiệp trong Tổng công ty HKVN năm 2000

  Cung ứng, lắp đặt, hướng dẫn khai thác các thiết bị vật t­ư Khoa học công nghệ và môi trường sản xuất thử nghiệm các sản phẩm nghiên cứu triển khai phục vụ nhu cầu của các cơ quan, đơn vị trong Viện, Tổng công Ty, ngành và thị trường

  Sửa chữa, bảo dư­ỡng, hiệu chỉnh vận hành các thiết bị Khoa học công nghệ và môi trường theo nhu cầu của Viện, Tổng công ty và thị trư­ờng. Các thiết bị, vật tư, phụ tùng thay thế trên máy bay và các trang thiết bị mặt đất.

Đây là 2 nhiệm vụ hiện nay Trung tâm đang gấp rút xây dựng dự án đầu tư cơ sở vật chất và nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu rộng lớn, cấp thiết của Tổng công ty đang đặt ra hiện nay. 

2.1.2. Lĩnh vực thử nghiệm, sản xuất thử.



Hệ thống các sản phẩm tiềm năng của trung tâm, với thế mạnh là hoạt động trong lĩnh vực KHCN tiên tiến về Hàng không, Trung tâm đang xúc tiến tổ chức xây dựng các dự án đầu tư cụ thể để triển khai đồng bộ loại hình dịch vụ này. Hiện nay đội máy bay sở hữu của Vietnam Airlines đang tăng lên nhanh chóng, đi kèm với đội bay, hệ thống trang thiết bị phục vụ mặt đất cũng được đầu tư đồng bộ. Vật tư phụ tùng thay thế hàng năm hầu hết đều phải nhập ngoại. Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học đã đánh giá và đề cập đến việc sản xuất vật tự phụ tùng thay thế đặc biệt là vật tư, phụ tùng trang thiết bị khai thác mặt đất. Một số sản phẩm dự kiến khai thác là: các loại ống hút cao su thuỷ lực, ống hút chất thải vệ sinh máy bay, thùng contener khoang hàng máy bay, tay ốp ghế máy bay... Dự kiến Trung tâm sẽ tổ chức phối hợp với một số đơn vị trong và ngoài ngành để nhanh chóng đưa các đề tài vào sản xuất thử và cung ứng kịp thời theo nhu cầu của thị trường.

Năm 2000 kỷ niệm 990 năm Thăng Long – Hà Nội, Trung tâm đã sản xuất chế tạo thành công 9 con rồng bơm khí và được thả tại Hồ Hoàn Kiếm – Hà Nội do Th.s Phạm Văn Tới chủ trì thực hiện là một trong những ứng dụng đầu tiên của trung tâm trong việc sản xuất thử nghiệm các sản phẩm nghiên cứu.

2.1.3. Các hoạt động dịch vụ khác:   



a) Phục vụ các hội nghị, hội thảo, đưa đón đoàn theo hợp đồng.

Được giao nhiệm vụ khai thác cơ sở vật chất của Viện, trung tâm không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ các lớp học, hội nghị, hội thảo của các đơn vị có nhu cầu. Hệ thống phòng hội trường được trang bị âm thanh và ánh sáng hiện đại. Đội ngũ cán bộ công nhân viên phục vụ từng bước đã nắm bắt tốt hơn cách thức phục vụ các yêu cầu của khách hàng. 

Thực hiện dịch vụ nhận giữ, bảo quản trang thiết bị, vật t­ư với hệ thống kho bãi của Viện dần đảm bảo được về cất lượng và an toàn đối với trang thiết bị, phương tiện giao thông, hàng hoá vật tư.

 b) Tổ chức luyện thi tiếng Anh theo tiêu chuẩn TOEIC của ETS

Học ngoại ngữ đang là nhu cầu cấp thiết đối với xã hội trong điều kiện kinh tế hội nhập, đặc biệt là trong ngành Hàng không luôn gắn ngoại ngữ trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Tông công ty HKVN. Hàng năm, Trung tâm đã tổ chức cho hàng trăm lượt học viên là CBCNV ngành hàng không và các đối tượng có nhu cầu học tập tham gia các khoá ôn luyện thi TOEIC. Trung tâm luôn duy trì mở lớp hàng tháng và chất lượng ngày càng được nâng cao với đội ngũ giáo viên có nhiều năm kinh nghiệm luyện thi và đang giảng dạy trong các trường đại học có uy tín của Việt nam như Đại học ngoại thương, Đại học ngoại ngữ - Đại học quốc gia Hà Nội.

c) Trung tâm dịch vụ KHCN Thực hiện thành công đề án "Thiết kế qui hoạch mạng sân bay dân dụng toàn quốc", được Chính phủ phê duyệt. Hoàn thành xuất sắc đề tài độc lập cấp Nhà nước: "Thiết kế chế tạo máy bay trực thăng siêu nhẹ" (giai đoạn 1). Thực hiện thành công các dự án quốc tế tài trợ như: VIE/89/016 về nâng cấp khí tượng Hàng không; RAS/93/101 về nâng cấp công tác an toàn, an ninh HK, tìm kiếm cứu nguy trong khu vực Đông Nam Á, ...

Những con số ấn tượng trước thời điểm hội nhập[1 ,t r12]:

Sản lượng vận chuyển hành khách từ 2001- 2005 đạt 25,3 triệu lượt, với mức tăng trưởng bình quân 12,8%/năm; Sản lượng hàng hóa đạt 459 nghìn tấn, tăng trưởng bình quân 13,1%/năm; Tổng sản lượng hành khách thông qua cảng HK đạt 53,5 triệu lượt, tăng bình quân 12,4%/năm, sản lượng hàng hóa thông qua cảng đạt 1,15 triệu tấn, tăng bình quân 19,4%/năm; Sản lượng điều hành bay đạt 1,036 triệu lần chuyến và 1,2 tỷ km điều hành, tăng tương ứng 8,8%/năm và 12%/năm. Tổng doanh thu toàn ngành đạt trên 83.000 tỷ đồng, tăng 16,3%/năm, nộp ngân sách đạt 7.148 tỷ đồng, tăng trưởng 9%/năm

2.2. HÀNG KHÔNG VIỆT NAM SAU THỜI KỲ HỘI NHẬP.



Nhìn lại 5 năm tham gia tiến trình hội nhập (2001 – 2005), thị trường hàng không Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể với mức bình quân tăng trưởng hàng năm là 15%. Bộ Giao thông vận tải, Ngành hàng không Việt Nam đã nỗ lực tập trung đầu tư vào các dự án nâng cấp kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị phục vụ, đào tạo con người, đơn giản hóa thủ tục nhằm khai thác hiệu quả các sân bay và cung ứng dịch vụ hàng không.

Ngành hàng không Việt Nam đã chú trọng vào công tác đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu hội nhập và phát triển.

Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang hội nhập toàn cầu như hiện nay, Ngành Vận tải hàng không (VTHK) thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng cũng đang vận hành theo xu thế đó. Để phát triển và hội nhập, Tổng Công ty HKVN đã và đang chủ động tham gia vào thị trường VTHK thế giới - một thị trường có tính cạnh tranh quốc tế rất khốc liệt, với nhiều đối thủ khổng lồ, có tiềm lực mạnh và kinh nghiệm dày dạn như Air France, Singapore Airlines, Lufthansa, Cathay Pacific…

Nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, nơi có lĩnh vực vận tải hàng không được coi là tốc độ phát triển cao nhất toàn cầu, Việt Nam đang được đánh giá là một thị trường đầy tiềm năng.

Việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới  (WTO), ký kết các hiệp định thương mại song phương, hoàn thiện hơn nữa hệ  thống luật pháp, đã làm cho guồng máy của nền kinh tế hoạt động mạnh mẽ hơn,  nhu cầu đi lại và du lịch của người dân tăng cao, từ đó, tạo đà phát triển cho ngành  vận tải hàng không. Nắm bắt cơ hội trong một thị trường đầy tiềm năng, Tổng Công ty Hàng không Việt Nam (HKVN) đã thực hiện một bước đi quan trọng  mang tính chiến lược: Trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội Vận tải Hàng  không Quốc tế (IATA) vào tháng 12/2006.

Để trở thành thành viên của IATA, HKVN phải vượt qua quá trình kiểm tra cấp  chứng chỉ an toàn khai thác hết sức nghiêm ngặt của IATA. Với chứng chỉ  An toàn khai thác, HKVN đã đạt được những yếu tố an toàn bay và những tiêu chuẩn chung  về chất lượng dịch vụ và khai thác bay của thế giới. Vì thế, các rào cản xuất phát  từ lý do trình độ quản lý và khai thác của HKVN được dỡ bỏ, mở ra một loạt  những cơ hội cũng như thách thức mới cho HKVN.

2.2.1. Những cơ hội.



Cơ hội đầu tiên khi gia nhập IATA là HKVN sẽ được tham gia vào một môi  trường kinh doanh bình đẳng hợp tác trong lĩnh vực vận chuyển hàng không, tham  gia khai thác tự do vùng trời ở mọi khu vực và tùng lãnh thổ. Hơn nữa, HKVN còn  có cơ hội khai thác và trao đổi thông tin, dữ liệu chung trên phạm vi toàn cầu về  thời tiết, nguy cơ khủng bố, các lỗi kỹ thuật... và nhận được sự hỗ trợ tối đa khi  khó khăn. Cùng với đó, việc đơn giản hóa các thủ tục kinh doanh cũng là một cơ  hội lớn khi tham gia IATA. Cam kết giữa các thành viên IATA trong quá trình đơn giản hóa thủ tục kinh doanh đã giúp giảm chi phí khai thác và tăng lợi nhuận cho các thành viên. Đổi mới khoa học, công nghệ và tạo nguồn nhân lực trình độ cao cũng là một hoạt động hỗ trợ của IATA dành cho các hãng hàng không thành viên.

Có thể nói, trở thành thành viên của IATA không chỉ đem lại lợi ích về mặt thương mại mà còn có ý nghĩa rất lớn về mặt xây dựng và quảng bá tên tuổi của HKVN. Thương hiệu và biểu tượng "Vietnam Airlines" sẽ được đưa vào danh  sách các hãng hàng không thành viên của IATA, góp phần không nhỏ vào việc khẳng định đẳng cấp quốc tế cũng như chất lượng toàn cầu của các loại hình dịch vụ mà HKVN đang cung cấp.

2.2.2. Những khó khăn.



Thách thức lớn nhất có lẽ là môi trường cạnh tranh khốc liệt với sự mở rộng của thị trường hàng không trong nước thời kỳ hậu WTO. Việc thâm nhập, mở rộng hoạt động của các hãng hàng không lớn với cơ sở hạ tầng vững chắc và nguồn lực dồi dào, sự ra đời và bùng nổ mạnh mẽ của hãng hàng không giá rẻ và luật tự do hóa bầu trời đang đi vào hoạt động, là thách thức đòi hỏi các nỗ lực không ngừng của HKVN.

Cải tiến nâng cao chất lượng dịch vụ, khai thác an toàn nhằm duy trì hiệu lực của chứng chỉ IOSA là một điều kiện tiên quyết mà HKVN phải nỗ lực. Ngoài ra, là thành viên IATA, HKVN còn tham gia các chương trình cải cách lớn của Hiệp hội, như chương trình áp dụng vé điện tử đối với hành khách và hàng hóa mà hãng đang thực hiện. Các chương trình lớn nhằm mục đích số hóa công tác quản lý, sử dụng dữ liệu, đơn giản hóa các thủ tục đối với hành khách, tránh sai lỗi là quá trình cải cách đòi hỏi đầu tư phát triển dài hạn và đồng bộ.

2.2.3. Những thị trường mới.



Ngoài các cơ hội và  thách thức kể trên, việc trở thành thành viên của IATA là bước khởi đầu thuận lợi cho kế hoạch mở đường bay tới Mỹ trong năm 2008 của HKVN. Để vươn tới thị truờng Mỹ, HKVN phải đạt chất lượng khai thác, bảo dưỡng, dịch vụ theo quy chế của nhà chức trách Hàng không Mỹ. Quy chế này về cơ bản bao hàm các yêu cầu  tương đương với tiêu chuẩn IOSA. Do vậy, các cố gắng không ngừng nghỉ đang từng bước đưa Hàng không Việt Nam tham gia vào một trong những thị trường hàng không sôi động nhất thế glớì, thị trường Hoa Kỳ.  HKVN, một hãng hàng không quốc gia trên con đường hội nhập và phát triển còn nhiều thử thách và trở ngại. Tuy nhiên, qua quá trình phát triển từ một hãng hàng  không khiêm tốn của thập niên 90 cuối thế kỷ trước, trở thành một Hãng hàng  không có tên tuổi trong cộng đồng IATA hôm nay, là một minh chứng rằng kết quả của những cố gắng, nỗ lực đó đã và đang được công nhận.

Bước sang năm 2008, là mùa xuân thứ 10 liên tiếp HKVN an toàn tuyệt đối với con số vận chuyển kỷ lục: gần 9 triệu lượt hành khách.

Đây là một thành tích mà trước đây vài năm không mấy người trong ngành HKVN dám mơ ước.Trong đó riêng hãng hàng không quốc gia Vietnam Airlines (VNA) thực hiện gần 70.000 chuyến bay an toàn tuyệt đối, vận chuyển hơn 8 triệu khách.

 Ở ngành HKVN nói chung và Vietnam Airlines nói riêng, mọi hoạt động luôn được đặt trên nền tảng an toàn. Từ cách cầm chiếc cờ lê của người thợ ở xưởng sửa chữa tàu bay đến người làm ở văn phòng cơ quan quản lý, làm thủ tục bay... đều có mục tiêu trước hết là bảo đảm an toàn cho những chuyến bay.

 Có thể nói, không có một nghị quyết, cuộc họp nào ở HKVN lại không nhắc đến an toàn. Ý thức đó cộng với hệ thống kiểm soát an toàn hiện đại, tiên tiến xuyên suốt từ hệ thống tổ chức con người tác nghiệp đến hệ thống luật pháp, kỹ thuật, kiểm soát chất lượng sản phẩm, quy chế an ninh... ngày càng hoàn thiện là nền tảng an toàn vững chắc của HKVN.

 Từ năm 1992 trở lại đây khi nguồn cung cấp kỹ thuật, phương tiện từ Liên Xô không còn nữa, HKVN bắt đầu phải thuê, mua các thế hệ máy bay hiện đại về khai thác. Thời gian này bước khởi đầu hòa nhập với ngành Hàng không thế giới của HKVN. Cứ mỗi một hợp đồng thuê, mua tàu bay thì kèm theo là các hợp đồng tài trợ đào tạo người lái, nhân viên kỹ thuật...

 Cùng các hợp đồng đào tạo theo các hợp đồng thương mại, HKVN tổ chức nhiều lớp đào tạo đủ các ngành nghề tiếp thu những quy trình kiểm soát an toàn khoa học, bài bản của các cường quốc hàng không. Hàng trăm lớp đào tạo thợ, chuyên gia, phi công, kiểm soát viên không lưu được cử đi Australia, Pháp, Anh, Mỹ, Nga, Ucraina, New Zealand học tập, tiếp thu những kiến thức tiên tiến nhất về khai thác hàng không, máy bay, trang thiết bị hiện đại.

 Cùng với kiến thức, phi đội máy bay trẻ, hiện đại, HKVN còn có hệ thống tổ chức bộ máy quản lý ngày càng tiên tiến, hội nhập với hàng không thế giới. Những năm gần đây, cơ quan quản lý Nhà nước ngành HKVN đã tách hẳn khối sản suất kinh doanh, chấm dứt hiện tượng "vừa đá bóng, vừa thổi còi" trong lĩnh vực quản lý đặc biệt là giám sát an toàn bay.

 Theo đó, các đơn vị, hãng hàng không phải tổ chức khai  thác, bảo dưỡng, sửa chữa tàu bay, các trang thiết bị phục vụ bay, đào tạo, huấn luyện nhân viên hàng không... theo đúng quy trình, tiêu chuẩn của Mỹ, châu Âu và các quy định của nhà chức trách HKVN còn ngặt nghèo hơn. Việc thuê, mua bất kể loại tàu bay chở khách gì, chất lượng tốt đến đâu, ngoài lai lịch phải rất rõ ràng, máy bay phải dưới 20 tuổi đời (thông thường hàng không thế giới cho phép khai thác thương mại máy bay đến 25 tuổi). Tất cả các loại vật tư, phụ tùng đều phải được chế tạo bởi những hãng sản xuất danh tiếng nhất...

 Năm 2007 cũng cho thấy cố gắng phi thường của NHK Việt Nam và  Vietnam Airlines đã đi đầu trong việc quản lý chất lượng an toàn khai thác. Vietnam Airlines đã đạt được tiêu chuẩn an toàn khai thác (IOSA) của Hiệp hội các hãng hàng không quốc tế (IATA) sau nhiều năm thực hiện chương trình quản lý chất lượng ISO ở các công ty, xí nghiệp: A75, A76, xí nghiệp phục vụ kỹ thuật thương mại mặt đất Nội Bài, Tân Sơn Nhất...

 Với thành quả đó, Vietnam Airlines được IATA kết nạp là thành viên chính thức. Đây là một mốc son rực rỡ của ngành HKVN. Bởi vì chỉ có những hãng hàng không có tổ chức quản lý chất lượng an toàn khai thác rất cao mới được gia nhập tổ chức này.

 Nếu so sánh với những hãng hàng không lớn, có kinh nghiệm quản lý lâu đời hơn VNA rất nhiều ở Nga, Mỹ, và nhiều nước Đông Nam Á, châu Á, châu Phi mà vẫn chưa được gia nhập tổ chức này, mới thấy sự nỗ lực của VNA, ngành HKVN trong khi gặp không ít khó khăn: Khí hậu khắc nghiệt, mưa, bão... các hãng hàng không thiếu phương tiện, vật tư, phụ tùng...

 Năm 2007, trong khi nhiều nước trên thế giới, trong khu vực, nhất là ở Indonesia, Philipines, Thailand... bị nhiều tai nạn thì HKVN chỉ gặp các sự cố nhưng vẫn nằm trong tầm kiểm soát, tất cả đều được điều tra làm rõ, rút kinh nghiệm kịp thời....

 Vào những ngày cuối năm 2007, Vietnam Airlines đã huy động được nguồn tài chính để ký hợp đồng mua thêm 42 máy bay hiện đại nhất gồm 10 chiếc A350, 20 chiếc A321 của châu Âu và 12 chiếc B787 của Mỹ. Đây cũng là cơ sở quan trọng cho nỗ lực không ngừng nâng cao an toàn của HKVN.

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra từ giữa năm 2008 đang ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế thế giới trong đó có Việt Nam. Tình hình thị trường hàng không cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Theo dự báo của Hiệp hội Hàng không quốc tế (IATA) NHK thế giới sẽ lỗ 6,1 tỷ USD, mức cao nhất từ năm 2003[6, tr 3]. NHK Việt Nam cũng không nằm ngoại lệ, càng bay nhiều càng lỗ, một số hãng đã phải cắt giảm đường bay, chuyến bay, giảm nhiều nhân lực, cơ cấu lại các chuyến bay để giảm lỗ tới mức thấp nhất có thể chịu đựng được.

Đối với hoạt động kinh tế, trong khó khăn vẫn có những cơ hội nếu chúng ta biết nắm bắt. Mặc dù mọi chỉ tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kì hội nhập này đều giảm sút nhưng Việt Nam vẫn được đánh giá là một thị trường tiềm năng và có tốc độ tăng trưởng vẫn cao nhất nhì khu vực và thế giới. Việc giá dầu thế giới đã giảm từ mức 148 USD/thùng giữa năm 2008 xuống mức 40 – 50 USD/ thùng vào cuối năm 2008, dự báo năm 2009 cũng sẽ chỉ dao động ở mức tương tự là điểm rất thuận lợi cho NHK Việt Nam. Bên cạnh đó, những chính sách của nhà nước cũng từng bước tạo thuận lợi cho NHK, trong đó có việc mới đây nhà nước đã xóa bỏ giá trần trên các đường bay nội địa, cho phép áp dụng phụ thu nhiên liệu khi giá dầu tăng quá mức và bắt đầu áp dụng chính sách chống độc quyền đối với các dịch vụ phục vụ ở các CHK, SB, cung ứng nhiên liệu…

Một trong những động thái đầu tiên để ngành hàng không Việt Nam bước vào hội nhập là điều chỉnh các loại giá theo hướng bằng mức trung bình của khu vực ASEAN, xóa bỏ phân biệt về mức thu giữa các hãng hàng không trong và ngoài nước. Hiện nay với NHK Việt Nam, nhà nước chỉ quản lý 6 loại giá, bao gồm giá dịch vụ điều hành bay đi/đến; hạ – cất cánh; soi chiếu an ninh; cung cấp bổ sung dịch vụ điều hành bay quá cảnh; giá dịch vụ phục vụ hành khách tại cảng hàng không và giá đường bay chuẩn Hà Nội – TP HCM.

Theo Quyết định số 13/2006 của Bộ Tài chính ban hành ngày 13/3/2006, hai loại giá gồm giá soi chiếu an ninh (thu từ các hãng hàng không) và phục vụ hành khách sẽ tăng. Giá soi chiếu an ninh được điều chỉnh từ mức thu 30 – 70 USD/chuyến; bay quốc tế lên mức 30 – 170 USD/chuyến (tương đương 0,51 USD/hành khách với hệ số sử dụng ghế 70%); giá ở các đường bay nội địa vẫn giữ nguyên bằng 50% mức giá bay quốc tế.

Hai loại giá được giữ nguyên là hạ - cất cánh và bổ sung dịch vụ điều hành bay quá cảnh. Riêng giá điều hành bay đi – đến giảm theo hướng có lợi cho cả hãng hàng không trong và ngoài nước. Ở đường bay quốc tế, hãng hàng không nước ngoài được giảm 25% giá hiên hành để bằng mức áp dụng cho hãng hàng không Việt Nam bay quốc tế.

Theo Ban Tài chính Cục hàng không Việt Nam, mức thu một số dịch vụ tại cảng hàng không điều hành bay tại Việt Nam cao hơn mức bình quân ASEAN đã làm giảm bớt năng lực cạnh tranh của các hãng hàng không Việt Nam so với một số cảng lớn trong khu vực.

Hiện nay, các hãng hàng không đang nỗ lực duy trì “dải giá” rộng tới các mức thấp để người dân có thể tiếp cận dễ dàng hơn với vận tải hàng không, nhưng vé máy bay nội địa mới có khoảng hơn 10 loại giá với mức chênh lệch giữa khung giá cao và khung giá thấp không quá 2 lần. Các loại vế bay trong ngày, bay theo giờ đều đã được tính toán nhưng chưa thể thực hiện vì bị khống chế giá trần.

Каталог: nonghocbucket -> UploadDocument server07 id190496 229274
UploadDocument server07 id190496 229274 -> Báo cáo thực tập tốt nghiệp LỜi mở ĐẦU
UploadDocument server07 id190496 229274 -> I. objectives
UploadDocument server07 id190496 229274 -> Kieåm tra hoïc kì I moân: hoùa hoïc khoái 11 (2011-2012) Thôøi gian 45’ ÑEÀ 1 Caâu 1
UploadDocument server07 id190496 229274 -> Chuyên đề: VI sinh vậT Ứng dụng trong xử LÝ phế thải I. Nguồn gốC phế thảI 1/ Phế thải là gì ?
UploadDocument server07 id190496 229274 -> Ngaøy soaïn : Ngaøy daïy : I
UploadDocument server07 id190496 229274 -> Noäi dung cô baûn cuûa cuoäc Duy taân Minh Trò Về chính trị
UploadDocument server07 id190496 229274 -> Giáo án sử 8 Tuần: 12 Ngày soạn: 06/11/2011
UploadDocument server07 id190496 229274 -> 200 câu hỏi về môi trường (Phần 4) (03-07-2096 15: 37)
UploadDocument server07 id190496 229274 -> 1. Cn b ng c¸c ph­¬ng tr×nh ph¶n øng sau
UploadDocument server07 id190496 229274 -> TỔ HÓa trưỜng thpt lê quý ĐÔn tam kỳ CÂu hỏI Ôn tập hoá chưƠng đIỆn ly. LỚP 11

tải về 259.49 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương