Chủ ĐỀ alkaloid lịch sử phát hiện



tải về 218.79 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu14.03.2023
Kích218.79 Kb.
#54366
ALKALOID


CHỦ ĐỀ ALKALOID

  1. Lịch sử phát hiện.


Hình 1. Papaver Somniferum
Alkaloid có mặt tự nhiên trong sinh vật bao gồm cả thực vật, động vật,, nấm và vi khuẩn. Ở phía đông Địa Trung Hải, người ta đã sử dụng mủ của cây thuốc phiện ( Papaver somniferum ) từ 1400-1200 trước công nguyên. Morphine, đặt tên cho Morpheus, thần của những giấc mơ trong thần thoại Hy Lạp. Việc tách chiếc Morphine vào năm 1806 đã được một dược sĩ tên là Friedrich Wihelm Sertürner tiến hành đã mở đầu cho các nghiên cứu alkaloid. Ông đã phân lập được một chất từ nhựa thuốc phiện có tinh kiềm và gây ngủ mạnh đã đặt tên là Morphine.

Vào năm 1810, Gomes đã chiết được chất kết tinh từ vỏ của cây canhkina và đặt tên là “Cinchonino”. Sau đó vào năm 1817, P.J. Pelletier và J.B.Caventou lại chiết được hai chất có tính kiềm từ hạt một loài Strychnos đặt tên là strychnin và brucin.



Hình 2. Hoa của Cinchona pubescens
Canhkina (danh pháp khoa học: Cinchona) là một chi của khoảng 25 loài trong họ Thiến thảo (Rubiaceae) có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới Nam Mỹ. Chúng là các loại cây bụi lớn hay cây thân gỗ nhỏ cao từ 5–15 mét với lá xanh quanh năm. Các loài cây trong chi này là nguồn của nhiều loại alkaloid khác nhau, trong đó quan trọng nhất là quinin (ký ninh), một chất dùng làm thuốc hạ sốt đặc biệt hữu ích trong phòng chống bệnh sốt rét. Phần quan trọng về mặt y học của loại cây này là vỏ cây, được người ta róc ra từ thân cây, sấy khô và tán thành bột.

Hình 3. Quả của Cinchona pubescens
Đến năm 1819, một dược sĩ tên là Wihelm Meissner đề nghị xếp các chất có tinh kiềm lấy từ thực vật ra thanh một nhôm riêng và ông đề nghị gọi tên alkaloid, do đó người ta ghi nhận Meissner là người đầu tiên đưa ra khái niệm về alkaloid.
Các chất trong rễ cây của Rauwolfia serpentine đã được sử dụng ở Ấn Độ khoảng 1000 trước công nguyên. Rễ của cây được nghiền thanh bột hoặc bán dưới dạng viên hoặc viên nang. Nó là một hợp chất thường được sử dụng trong y học châu Á, bao gồm cả thuốc Ayurvedic truyền thống có nguồn gốc từ Ấn Độ. Reserpine được sử dụng để điều trị huyết áp cao, nó cũng được sử dụng để điều trị kích động nghiêm trọng ở những bệnh nhân bị rối loạn tâm thần. Reserpine nằm trong nhóm thuốc gọi là Rauwolfia alkaloids, nó hoạt động bằng cách làm chậm hoạt động của hệ thống thần kinh, khiến nhịp tim chậm lại và các mạch máu giãn ra.

Hình 4. Rauwolfia serpentine
Người cổ đại sử dụng chất chiết xuất purgative, antitussive để làm thuốc an thần và điều trị nhiều bệnh khác như sốt, động kinh… . Nữ hoang Cleopatra đã sử dụng chiết xuất của cây phỉ ốc (Hyoscyamus), có chứa atropine để làm gian đồng tử của mình và xuất hiện quyến rũ hơn trước các đối thủ chính trị nam của cô.

Hình 5. Hyosciamus niger Hình 6. Atropine
Một trong những alkaloid nổi tiếng nhất là chống ho và giảm đau là codeine từ cây thuốc phiện. Heroin (một hợp chất bán tổng hợp ở dạng acetyl hóa của morphine và cocain) có mặt ở cây coca. Sau gần 200 năm nghiên cứu người ta thấy alkaloid không phải duy nhất có mặt ở thực vật mà còn có ở nhiều nhôm sinh vật khác, chẳng hạn động vật.
Ngày nay, một lượng lớn các chất chuyển hóa thứ cấp có chứa nitơ được biết đến với khả năng chống lại động vật ăn cỏ như các alkaloid và cyanogenic glycoside. Đây cũng là nhôm gồm nhiều nhiều chất gây độc cho con người và đồng thời cũng là các thuốc chữa bệnh




tải về 218.79 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương