Phẩm hai mươi lăm : Quán về Niết Bàn
Nếu các pháp đều không; không sanh cũng không mất
Đoạn gì và mất gì; nên gọi là Niết Bàn
Nếu các pháp không không; tức không sanh không diệt
Dứt gì và mất gì; nên gọi là Niết Bàn
Không được cũng chẳng đến; không mất cũng chẳng còn
Không sanh cũng chẳng mất; nên tên gọi Niết Bàn
Niết Bàn không tên gọi; tức có tướng già chết
Cuối cùng không pháp có; lìa cả tướng già chết
Nếu Niết Bàn có thật; tức Niết Bàn hữu vi
Cuối cùng có một pháp; nên phải có vô vi
Nếu Niết Bàn có thật; sao có tên không thọ
Không có chẳng từ thọ; nên có tên là pháp
Trên không có Niết Bàn; làm sao có nơi chốn
Niết Bàn chẳng có không; nơi nào nói có không
Nếu không là Niết Bàn; sao gọi tên chẳng thọ
Sau đó không có thọ; nên có tên không pháp
Thọ các nhơn duyên rồi; luân chuyển trong sanh tử
Không thọ các nhơn duyên; có tên là Niết Bàn
Như trong kinh Phật nói; đoạn có đoạn không có
Có thể hiểu Niết Bàn; không có cũng chẳng không
Nếu nghĩa về có không; tạo nên Niết Bàn vậy
Có không tức giải thoát; việc nầy không phải vậy
Nếu nghĩa là có không; tạo thành Niết Bàn vậy
Niết Bàn chẳng không thọ; cả hai từ thọ sanh
Có không chung hợp thành; sao gọi tên Niết Bàn
Niết Bàn tên vô vi; có không là hữu vi
Có không chung hai việc; sao gọi là Niết Bàn
Cả hai không cùng nơi; như sáng tối không đủ
Nếu không có chẳng không; tên gọi là Niết Bàn
Này chẳng có chẳng không; cho nên sinh phân biệt
Phân biệt chẳng có không; như vậy tên Niết Bàn
Nếu do có không thành; chẳng có chẳng không thành
Sau khi Như Lai diệt; không gọi có hoặc không
Lại chẳng nói có không; không có và chẳng không
Như Lai bây giờ đây; không nói có hay không
Lại chẳng nói có không; không có và chẳng không
Niết Bàn và thế gian; không có ít phân biệt
Thế gian và Niết Bàn; lại không ít phân biệt
Niết Bàn là thật tế; và cùng với thế gian
Như vậy cả hai là; không thể phân biệt được
Tịch rồi có không nầy; hữu biên và thường hằng
Các thấy nương Niết Bàn; tương lai và quá khứ
Tất cả các pháp không; sao có biên vô biên
Lại biên lại vô biên; chẳng có chẳng không biên
Làm sao có sai khác; sao có thường không thường
Lại có lại chẳng có; không thường chẳng vô thường
Các pháp không thể được; lìa tất cả hí luận
Không người lại chẳng nơi; Phật lại không nói gì.
Khi Đức Phật còn tại thế thật ra Ngài nói rất ít về Niết Bàn và Ngài cũng rất hiếm khi trả lời cho các đệ tử về Niết Bàn. Ngài luôn nói rằng: Trạng thái ấy như củi hết lửa tắt vậy thôi. Có nơi nói là không sanh diệt; nhưng nếu đã dùng đến ngôn ngữ, tức có đối đãi. Do vậy mà Đức Phật rất ít nói.
Niết Bàn chẳng hữu vi mà cũng chẳng vô vi. Niết Bàn cũng chẳng phải chẳng có, mà cũng chẳng phải chẳng không. Tất cả đều như như bất động. Không nên phân biệt có hoặc không nơi trạng thái của Niết Bàn. Vì Niết Bàn lìa ngôn ngữ và sự đối đãi nầy. Nhiều người đi tìm Niết Bàn; nhưng Niết Bàn không phải là một nơi chốn nên không thể tìm được. Nếu cứ nhìn từ sự đối đãi để đánh giá một trạng thái không còn sanh diệt nữa thì mãi mãi vẫn còn xa xôi lắm đối với Niết Bàn vậy.
Tóm lại chúng ta có thể hiểu rằng: Niết Bàn là một trạng thái chứng đạo, lìa nói năng và sự đối đãi thường tình của thế gian.
---o0o---
Phẩm hai mươi sáu : Quán về nhân duyên
Chúng sanh si chấp chặt; sau đó sinh ra ba
Từ điểm nầy mà đi; trôi vào trong sáu nẻo
Các hành làm nhơn duyên; thân tâm trong lục đạo
Từ thức mà sinh ra; danh sắc tăng trưởng mãi
Danh sắc tăng trưởng tồi; làm nhơn sinh lục nhập
Tình trần thức hòa hợp; sanh ra sự va chạm
Nhơn từ sự chạm nầy; tức sanh ra ba thọ
Từ đây ba thọ nầy; sẽ sinh ra ái dục
Từ ái có bốn thủ; nhơn thủ sinh ra hữu
Nếu thủ mà không thủ; tức giải thoát không hữu
Từ hữu sinh ra sanh; từ sanh có già chết
Từ già chết lại có; ưu bi và khổ não
Như vậy các việc nầy; đều từ sanh đến hữu
Nên gọi là nhơn duyên; huân tập thành thân khổ
Nghĩa là phải sanh tử; các hành là căn bản
Vô minh từ đây ra; người trí không làm vậy
Việc nầy mất đi thôi; việc ấy không sanh nữa
Nên gọi các khổ ấm; sanh diệt không chỗ đứng.
Đây là 12 nhân duyên trong giáo lý căn bản của Đạo Phật. Đứng từ chỗ căn bản mà nhìn thì tất cả các hành đều do vô minh và ái dục xui khiến mà mới sanh ra những nhân duyên khác. Nhưng nếu là người trí thì không phải thế. Vì người trí biết kết quả trước khi gây ra nhân, do vậy mà nhân không có, tức quả không có nơi nào để mà nương tựa. Cho nên đối với bậc giác ngộ các nghiệp về thân, khẩu, ý không còn nữa. Khi những nghiệp căn bản nầy không còn nữa thì tâm thức trong suốt như hư không, không có gì dính mắc và ràng buộc nữa; nên gọi là giải thoát vậy.
Giải thoát tức cởi bỏ mọi sự ràng buộc của thế gian, của 6 loài chúng sanh phải trôi lăn trong 6 đường sanh tử. Khi vô minh mất thì hành mất, khi hành mất thì thức mất. Hoặc nói ngược lại khi lão tử không còn thì sự sanh cũng không thể hiện hữu mà sự sanh không có thì không thể nào có hữu nữa. Như vậy cái nầy mất thì cái kia không còn khả năng và điều kiện nữa để tồn tại. Theo tinh thần Trung Quán của Ngài Long Thọ chủ trương thì mọi vật mọi việc đều do nhân duyên hòa hợp và do hành điều khiển cũng như vô minh buộc ràng; nên từ đó mới sinh ra những nhân quả chồng chéo với nhau. Nếu dứt hẳn ái và vô minh thì nhân duyên sẽ không có cơ hội mà tồn tại nữa.
---o0o---
Phẩm hai mươi bảy : Quán sát về tà kiến
Cái ta từ quá khứ; có không hay không có
Thế gian thấy có thường; đều nương vào quá khứ
Vị lai nương ngã nầy; làm chẳng làm mà ra
Thấy biết có giới hạn; đều nương vào vị lai
Nếu quá khứ có ngã; việc nầy khó thể được
Cái ngã của quá khứ; không tạo ngã đời nầy
Nếu mà thật có ngã; tức thân có tướng khác
Nếu mà lìa khỏi thân; nơi nao ngã nương tựa
Lìa có không nơi thân; việc nầy ắt khó thành
Nếu thân tức là ngã; cả hai đều không phải
Thân nầy chẳng phải ngã; vì tướng thân sanh diệt
Làm sao giữ lại được; tạo thành sự cảm thọ
Nếu lìa thân có ngã; việc nầy cũng chẳng được
Không thọ mà có ngã; lại cũng chẳng cảm nhận
Không phải thọ chẳng thọ; điều nầy phải có nghi
Quá khứ ngã chẳng làm; việc nầy cũng không phải
Quá khứ ấy có ngã; khác nay cũng không phải
Nếu nghĩa là khác ngã; lìa xưa mà có nay
Ngã ở trong quá khứ; nay sanh ngã đời nầy
Như vậy tức đoạn diệt; không còn nghiệp quả báo
Kia tạo nay nầy thọ; như thế mà trôi qua
Trước không mà nay có; trong nầy lại cũng qua
Ngã là do tác pháp; lại cũng chẳng có nhơn
Nếu như trong quá khứ; thấy có không về ngã
Cùng với hay không cùng; việc nầy cũng chẳng phải
Ngã trong đời vị lai; làm hay lại chẳng làm
Như vậy đều có thấy; cũng giống đời quá khứ
Là trời cũng là người; tức rơi vào chấp thường
Trời tức là vô sanh; pháp thường không sanh ra
Nếu trời khác loài người; tức chính là không thường
Nếu trời lại khác người; như vậy không liên tục
Nếu nửa trời nửa người; tức rơi vào nhị biên
Thường và cả vô thường; việc nầy cũng chẳng được
Nếu thường và vô thường; cả hai đều cùng nên
Như vậy mà thành tựu; không thường chẳng vô thường
Pháp nếu định có trước; hoặc định có rồi đi
Sanh tử tức không đầu; điều nầy có không một
Nay nói không có thường; sao gọi có vô thường
Cả thường lẫn vô thường; không thường chẳng phải thường
Nếu thế gian hữu biên; sao gọi có đời sau
Nếu thế gian không cùng; sao lại có đời sau
Ngũ ấm hay liên tục; giống như ánh sáng đèn
Như vậy thế gian này; không có biên vô biên
Nếu ngũ ấm mất trước; không nhơn là ngũ ấm
Sao sanh ngũ ấm sau; thế gian tức có hạn
Nếu ấm trước không hoại; lại không nhơn là ấm
Mà sanh ngũ ấm sau; thế gian tức không cùng
Pháp đúng và người nói; người nghe khó hiểu được
Từ đây mà sanh tử; không có biên vô biên
Nếu chỉ nửa hữu biên; thế gian nửa vô biên
Điều nầy lại có hạn; lại vô biên chẳng phải
Người bị thân ngũ ấm; sao lại một phần mất
Một phần khó thể mất; việc nầy cũng chẳng được
Thọ cũng lại như vậy; làm sao một phá ra
Một phần khó phân ly; việc nầy cũng khó được
Nếu lại hữu vô biên; cả hai đều thành tựu
Không hữu không vô biên; việc nầy cũng thành tựu
Tất cả pháp đều không; thế gian thường thấy vậy
Nơi nào hoặc lúc nào; ai khởi ra tà kiến
Đức Đại Thánh đã nói; lân mẫn nói pháp nầy
Tức lìa những điều thấy; con nay cúi đầu lạy.
Đến phẩm thứ 27 nầy tức chấm dứt 446 câu kệ của Ngài Long Thọ chủ trương Trung Quán luận và chương chót nầy chúng ta cũng thấy được rằng Đức Cồ Đàm vì sự chấp trước của chúng sanh mà hiển bày ra các pháp để dạy dỗ cho chúng sanh nương theo đó mà tu học; cho nên chúng ta phải cung kính mà thọ trì. Tuy nhiên vì chúng sanh thấy nghe, chấp trước còn nặng nề về ngã, về vô thường, về có không, sanh diệt v.v... nên Phật và Tổ đã phá chấp để chúng sanh từ đó mà giác ngộ về bản thể của vũ trụ vạn hữu.
Ví dụ về cái ngã. Có người chấp nó ở trong thân, có người chấp ngã ở ngoài thân; có người chấp ngã nầy là sự liên tục của ngã trước và ngã nầy chính là cái nhân của vị lai v.v... Tất cả đều sai. Vì lẽ chúng sanh đứng từ bờ sanh tử bên nầy để nhìn sự giải thoát ở bờ bên kia là không thể được. Lấy cái giới hạn để kết luận cho cái vô hạn là không nên. Từ đó mới sinh ra tính ước đoán tỷ lệ của sự việc. Từ sự chấp trước nầy mà sinh ra những điên đảo vọng tưởng, tà kiến chấp chặt vào sự thấy nghe và quan niệm của mỗi cá nhân, để từ đó dẫn đi từ sự mê lầm nầy đến sự mê lầm khác.
Qua 27 phẩm trong Trung Quán luận nếu người nào thành tâm thiện ý và cố dốc hết tâm lực ngày đêm quán chiếu tự tâm của chính mình theo phép nầy thì chắc chắn hành giả sẽ nắm rõ được Phật lý Trung Đạo, để từ đó con đường đi vào tánh không của Phật Giáo lại thênh thang rộng mở. Nếu người nào vẫn còn chấp chặt về sự thấy nghe, còn mất, thường vô thường, biên vô biên v.v... tức chỉ mới đứng ở ngoài cửa ngõ của Đạo Phật, chưa bước vào thềm của cây thang Phật Pháp vốn cao vòi vọi như thế ấy.
Phật thị hiện ra đời nhằm soi rọi mọi khổ đau cho nhân thế tỏ tường. Chư Tổ tiếp nối những hành hoạt ấy mà phổ độ chúng sanh; nhưng những chúng sanh như chúng ta ngày nay, nếu cứ mãi ham vui nơi ngũ dục nầy thì chắc chắn rằng con đường Trung Đạo vẫn còn xa vời trong vô tận, khó nắm bắt được. Nhưng đường ấy cũng không xa, quay đầu tức thấy bến vậy.
---o0o---
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |