ĐỨc tin ngưỜi công giáo the Catholic Vision Mark Link, sj. Lm. Trần Đình Nhi



tải về 1.67 Mb.
trang1/10
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích1.67 Mb.
#37886
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

HỌC HỎI

ĐỨC TIN

NGƯỜI CÔNG GIÁO
The Catholic Vision

Mark Link, SJ.
Lm. Trần Đình Nhi chuyển ngữ

HỌC HỎI


ĐỨC TIN

NGƯỜI CÔNG GIÁO
The Catholic Vision

Mark Link, SJ.
Lm. Trần Đình Nhi, chuyển ngữ

(Tài liệu Giáo Lý dự tòng dành cho người lớn và Công giáo muốn tìm hiểu thêm về giáo lý Công giáo)



TÌM HIỂU ÐỨC TIN CÔNG GIÁO


Lời Giới Thiệu Của Dịch Giả

Lm. Trần đình Nhi
Từ mùa hè năm 1989, chúng tôi bắt đầu sinh hoạt với nhóm Linh Thao Hy Vọng tại Virginia, Hoa-kỳ. Qua những buổi chia sẻ Lời Chúa và cảm nghiệm sống đức tin, mọi người đều nhận thấy một nhu cầu cấp bách là cần phải cập nhật hóa kiến thức giáo lý. Anh chị em trong nhóm nhờ chúng tôi tìm kiếm một tài liệu giáo lý thích hợp cho họ và muốn chúng tôi chuyển sang Việt ngữ cho dễ hiểu hơn. Ðáp lời và với chút kinh nghiệm sinh hoạt trong Ban Giáo lý Việt Nam tại Hoa-kỳ, chúng tôi chọn bộ The Catholic Vision của cha Mark Link, S.J., một linh mục dòng Tên và chuyên môn về tu đức và giáo lý.
Khi chuyển ngữ, về các trích dẫn Kinh Thánh, đầu tiên chúng tôi đã sử dụng bản dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn, DCCT. Nhưng sau đó, chúng tôi đã cố gắng thay thế những trích dẫn trước đây bằng bản dịch mới của Nhóm Phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ. Có thể còn những sơ sót, chúng tôi sẽ cố gắng điều chỉnh lại sau này.
Về nội dung của tập Giáo lý, tất cả có 31 bài, chia làm 4 phần chính.
PHẦN THỨ I : Khái quát
Bài 1: Cuộc hành trình đức tin

Bài 2: Thánh Truyền và Kinh Thánh

Bài 3: Ðấng Tạo Dựng - Chúa Cha

Bài 4: Ðấng Cứu Chuộc - Chúa Con

Bài 5: Ðấng Thánh Hóa - Chúa Thánh Thần

Bài 6: Những mô thức về Hội Thánh

Bài 7: Phụng vụ và Năm Phụng vụ

Bài 8: Sự chết và Ngày tận thế
PHẦN THỨ II : Mặc khải
Bài 9: Câu truyện Tạo dựng

Bài 10: Câu truyện Hủy tạo

Bài 11: Câu truyện Tái tạo dựng

Bài 12: Ðức Giê-su giáng sinh

Bài 13: Ðức Giê-su chuẩn bị sứ vụ

Bài 14: Ðức Giê-su thi hành sứ vụ

Bài 15: Ðức Giê-su chết và phục sinh

Bài 16: Công Vụ Tông Ðồ

Bài 17: Các Thư và sách Khải Huyền
PHẦN THỨ III : Phụng tự
Bài 18: Bí tích

Bài 19: Bí tích Rửa tội

Bài 20: Bí tích Thêm sức

Bài 21: Phụng vụ Lời Chúa

Bài 22: Phụng vụ Thánh Thể

Bài 23: Bí tích Hòa giải

Bài 24: Bí tích Xức dầu Bệnh nhân

Bài 25: Bí tích Hôn phối

Bài 26: Bí tích Truyền chức thánh
PHẦN THỨ IV : Sống đức tin
Bài 27: Cầu nguyện cá nhân

Bài 28: Luân lý Ki-tô giáo

Bài 29: Quyết định luân lý

Bài 30: Gương mẫu:Ðức Ma-ri-a và Các Thánh

Bài 31: Tiếp tục cuộc hành trình.

Sau đây, chúng tôi xin ghi lại những lời giới thiệu của cha Mark Link về tập sách của ngài:


Cuốn phim The Heart Is a Lonely Hunter có một cảnh rất cảm động.Một cô bé đang nghe dĩa nhạc, với một người bạn bị điếc bên cạnh. Ðược một lúc, cô bé cố gắng diễn tả cho người bạn hiểu âm nhạc như thế nào.
Cô đứng trước mặt anh bạn để anh có thể đọc được những cử động của đôi môi cô. Cô làm cả những cử động thân thể và đôi tay nữa.
Nhưng sau một hồi, hai người bạn cùng bật cười và chịu thua không hiểu nhau được. Họ biết rằng cố gắng diễn tả âm nhạc cho một người điếc chẳng khác gì diễn tả mầu sắc cho một người mù. Gần như không thể được.
Cái nhìn đức tin Ki-tô giáo cũng giống như vậy. Cố gắng biểu lộ cái nhìn ấy bằng ngôn ngữ cũng tựa như diễn tả âm thanh hoặc mầu sắc. Lấy một ví dụ khác cho dễ hiểu, làm như vậy cũng tựa như cố nắm bắt ánh trăng vào lòng bàn tay hay như cố thu lấy tiếng chim hót đem tặng một người thân vậy.
Cái nhìn đức tin Ki-tô giáo không phải là một mớ những quy luật phải theo, nhưng là tinh thần người ta phải nắm giữ. Không phải là một bộ tín điều phải thuộc lòng, nhưng là một cuộc sống phải thể hiện. Không phải là một cuốn sách để đọc và nắm vững nội dung, nhưng là một con người để gặp gỡ và để yêu mến.
Sau ba mươi năm trong môi trường giáo lý, chúng tôi xác tín rằng một trong những hồng ân lớn lao nhất do Chúa Thánh Thần ban cho cộng đồng Ki-tô, đó là tái lập Nghi thức Dẫn nhập Ki-tô giáo dành cho người lớn (The Rite of Christian Initiation of Adults, hoặc gọi tắt là RCIA). Chúng tôi nhận thấy Chúa Thánh Thần hoạt động trong Nghi thức này đến nỗi không có một phương thức nào khác hơn có thể sánh được để truyền đạt đức tin.
Tập giáo lý ngắn gọn này, gồm những chương tách rời nhau, chính là do kinh nghiệm từ Nghi thức ấy mà thành hình. Các bài được chủ ý trình bày ngắn gọn, bởi chương trình giáo lý dự tòng là dành cho những người xuất thân từ những cộng đồng đức tin khác nhau và có những cảm nhận đức tin khác nhau. Cho nên ngắn gọn sẽ giúp người ta dễ chú tâm vào hình ảnh quan trọng nhất, chứ không làm cho hình ảnh ấy nhòe nhạt vì đi quá sâu vào những chi tiết và sắc thái tỉ mỉ.
Các chương (bài) được để rời giúp cho việc hướng dẫn và học hỏi được uyển chuyển tối đa, và đó là một yếu tố quan trọng của chương trình giáo lý dự tòng. Mỗi chương (bài) đứng riêng biệt. Do đó, nếu muốn người ta có thể phát cho học viên mỗi lần một bài. Quan trọng hơn nữa, các bài có thể đảo lộn thứ tự, làm sao cho hợp với tinh thần phụng vụ của các bài đọc Chúa Nhật. Ðồng thời thứ tự các bài vẫn có thể giúp các học viên tìm lại dễ dàng bài nào mình cần đến trong một tập bìa lưu trữ.
Vậy mục đích của tập giáo lý tân tòng The Catholic Vision (Nhìn theo đức tin Công Giáo) là để thông đạt "những điều cơ bản thuộc đức tin" qua một cái nhìn nhất quán về đức tin được nảy sinh từng bước một trong suốt chương trình của Nghi thức Dẫn nhập Ki-tô giáo dành cho người lớn.
Chúng tôi chủ trương để rời từng bài là để học viên có thể đọc theo tinh thần cầu nguyện, đánh dấu những chỗ quan trọng, trước khi họ đến mỗi lớp học của chương trình giáo lý dự tòng.

Tại lớp học, chúng tôi nhắm hai điều: (1) giúp học viên nắm vững những điểm chính, và (2) chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin.
Ðể giúp giáo lý viên hướng dẫn học viên nắm được những điểm chính, một tập Hướng dẫn trình bày cái nhìn theo đức tin Công Giáo đã được soạn sẵn. Vai trò của giáo lý viên là làm "chứng nhân" hơn là "người dạy". Vai trò ấy đã được nói đến trong tập Hướng dẫn.
Ðể giúp cho việc "chia sẻ đức tin" hữu hiệu, có những câu hỏi gợi ý ớ đầu bài và cuối bài.
Riêng tôi, xin hết lòng cám ơn và nhìn nhận những đóng góp của nhiều anh chị em cho tập giáo lý Nhìn theo đức tin Công Giáo, từ những thần học gia nổi tiếng cho đến những giáo lý viên khiêm tốn, tất cả đều có những đóng góp to lớn. Những vị này đều biết họ là ai. Chúa biết tất cả chúng ta đang phục vụ, và đó mới là điều đáng kể.
Phục Sinh 1989

Mark Link, S.J.

Phần I

Bài 1
CUỘC HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN

Trước khi đọc bài này, bạn hãy suy nghĩ và trả lời hai câu hỏi sau:


1. Trong đời tôi, lúc nào đó tôi đã cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa một cách đặc biệt, đó là khi...
2. Một số lý do tại sao tôi muốn học hỏi thêm về đức tin Công giáo, đó là...
CUỘC HÀNH TRÌNH ĐẾN VỚI THIÊN CHÚA

Vào thập niên 1960, Paul Stookey nổi tiếng với nhóm tam ca "Peter, Paul, and Mary." Ít có thính giả hâm mộ biết được Stookey đã trải qua một cuộc đổi đời trong những năm này. Dù thành công, nhưng anh đã cảm nghiệm một cơn đói thiêng liêng.


Rồi một ngày cơn đói đã trở nên trầm trọng đến nỗi anh phải đến cầu cứu ca sĩ Bob Dylan. Sau này Stookey phát biểu người thực sự biết được thiêng liêng nghĩa là gì thì đó phải là Dylan. Stookey và Dylan đã nói chuyện với nhau thật lâu. Dylan đưa ra hai đề nghị.
Đề nghị thứ nhất, anh bảo Stookey hãy trở về thăm ngôi trường trung học cũ của mình, hãy đi hết các dãy hành lang của trường và hãy tìm lại nguồn gốc của mình. Thứ hai, anh xin Stookey hãy bắt đầu đọc Kinh Thánh, nhất là Tân Ước.

Stookey làm theo lời khuyên của Dylan. Anh bắt đầu mang theo bên mình cuốn Kinh Thánh. Sau này anh bảo cuốn Kinh Thánh tựa như người anh em của anh. Rồi dần dần một điều gì đó bắt đầu xảy đến. Trong một cuộc phỏng vấn, Stookey đã giải thích rằng anh bắt đầu khám phá thấy mọi chân lý anh đi tìm đều tiềm tàng trong cuộc đời Đức Giê-su. Stookey hứng khởi với khám phá của mình. Anh đã biết Đức Giê-su là gương mẫu, nhưng anh vẫn chưa nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa.


Thế rồi một buổi tối kia anh trình diễn tại Austin, Texas. Có một thanh niên đã vào hậu trường và bắt đầu nói với anh về Đức Giê-su. Hết sức giản dị, chàng thanh niên đã chia sẻ với Stookey những gì anh hiểu về Đức Giê-su. Rồi điều gì xảy ra sau đó thật khó diễn tả được. Stookey kể rằng anh bắt đầu cùng với chàng thanh niên cầu nguyện, xin phó thác đời anh cho Đức Giê-su. Rồi cả hai cùng nức nở khóc.
Tối hôm đó ơn sủng Chúa đã đánh động Paul Stookey. Anh còn cả một con đường dài để đi, và anh cũng có thể vấp ngã trên cuộc hành trình ấy. Nhưng ơn sủng đã biến đổi anh một cách kỳ diệu. Sau này anh nói dù chúng ta có xin Chúa nắm lấy mạng sống chúng ta thì chúng ta vẫn có thể vuột trở lại với trần gian và với lối sống của nó.
Câu truyện đức tin của Paul Stookey vừa hứng thú lại vừa dạy chúng ta một bài học. Hứng thú vì nó thúc giục chúng ta hãy theo gương anh. Dạy một bài học vì nó cho chúng ta một cái nhìn về những gì diễn tiến trong một cuộc hành trình đức tin như vậy. Chúng ta biết cuộc hành trình đức tin có nghĩa là:
* mở lòng đón nhận ơn sủng Chúa,

* đến với người khác để xin họ giúp đỡ mình,

* lắng nghe lời Chúa,

* cầu nguyện với Chúa,

* cảm nghiệm những thăng trầm.
Giờ đây chúng ta hãy xét từng điểm một.
MỞ LÒNG ĐÓN NHẬN ƠN SỦNG CHÚA

Mỗi hành trình đức tin là một công cuộc của ơn sủng. Hành trình bắt đầu với lời gọi của Chúa. Lời gọi này có thể mang nhiều hình thức. Nó có thể là một cơn đói thiêng liêng sâu đậm, giống như trường hợp của Stookey. Hoặc có thể do một người bạn hay người vợ hoặc chồng. Dù mang hình thức nào thì lời gọi của Thiên Chúa cũng không phải là những gì chúng ta hoàn toàn xứng đáng lãnh nhận. Chúng ta không thể làm gì để bắt buộc Chúa phải gọi chúng ta, mà chúng ta chỉ cần biết mở lòng đón nhận lời gọi ấy. Lời gọi ấy là một quà tặng. Đó là hoàn toàn do ơn sủng.


Một khi đã bắt đầu, cuộc hành trình đức tin sẽ tiếp diễn như một tiến trình lần hồi, một tiến trình trở về. Thiên Chúa dẫn chúng ta đi từng bước một, từ nơi Ngài gặp chúng ta tiến tới nơi Ngài muốn chúng ta đến. Thiên Chúa đồng hành với chúng ta trong từng chặng đường. Ngài soi sáng nẻo đường chúng ta đi khi đường tối. Ngài làm tinh thần chúng ta phấn khởi khi tâm hồn chúng ta mệt lả. Ngài đỡ chúng ta dậy khi chúng ta vấp ngã. Ơn sủng của Chúa bao bọc chúng ta từng gang tấc trên cuộc hành trình đó.

Thiên Chúa để chúng ta được tự do
Nhưng Chúa không ép buộc chúng ta. Ngài tôn trọng sự tự do của chúng ta. Có nghĩa là nếu muốn để cho ơn sủng đến và biến đổi chúng ta, chúng ta phải mở lòng cho ơn sủng. Chúng ta phải chuẩn bị tâm hồn để đón nhận ơn sủng. Nói cách khác, chúng ta phải làm phần dành cho chúng ta. Chúng ta phải hành động như là mọi sự tùy thuộc chúng ta, nhưng phải tin tưởng như là mọi sự tùy thuộc Thiên Chúa.
Điều này đưa chúng ta sang điểm thứ hai nói về cuộc hành trình.
ĐẾN VỚI NGƯỜI KHÁC ĐỂ XIN HỌ GIÚP ĐỠ

Cách Thiên Chúa ban ơn sủng cho chúng ta, đó là qua người khác, nhất là qua cộng đồng Ki-tô. Chúng ta hãy nhớ lại vai trò của Bob Dylan và chàng thanh niên Texas trong cuộc hành trình đức tin của Stookey. Chúng ta cũng có thể nhớ lại một số thí dụ khác trong Kinh Thánh. Gio-an Tẩy giả đã giới thiệu An-rê với Đức Giê-su (Ga 1:35-40). An-rê đem Si-mon Phê-rô đến với Đức Giê-su (Ga 1:40-42). Phi-líp-phê dẫn Na-ta-na-en tới Đức Giê-su (Ga 1:45-51).


Mỗi cuộc hành trình đức tin đều có bàn tay giúp đỡ của cộng đồng tín hữu.
Đức Giê-su là gương mẫu về sự giúp đỡ của cộng đồng

Một thí dụ về người khác giúp đỡ chúng ta trong cuộc hành trình đức tin, đó là phương thức Đức Giê-su đã giúp hai môn đệ vào sáng Chúa Nhật Phục Sinh. Hai ông trở về nhà tại Em-mau, chán nản vì những biến cố xảy ra ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Kinh Thánh nói rằng:


"Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. Người hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?... Họ thưa lại Người: “Chuyện ông Giê-su Na-da-rét... Các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá." Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: “Ôi những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?" (Lc 24:15-17,19-20,25-26)
Đức Giê-su đã tiến tới và nâng đỡ các môn đệ, hướng dẫn và khích lệ họ khi cần. Đó chính là phương thức cộng đồng Ki-tô có thể giúp đỡ chúng ta trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta.
Bước sang điểm thứ ba.
LẮNG NGHE LỜI CHÚA

Một vở kịch lâu đời của Broadway có tựa đề The Royal Hunt of the Sun kể lại việc Tây-ban-nha chinh phục thổ dân tại Pê-ru vào thế kỷ 16. Có một cảnh người Tây-ban-nha đưa cho người tù trưởng Da Đỏ một cuốn Kinh Thánh và nói với ông ta đây là lời Chúa. Vị tù trưởng giơ cao cuốn Kinh Thánh, cung kính áp vào tai ông và lắng nghe một phút. Ông ta chẳng nghe thấy gì hết nên liệng cuốn Kinh Thánh xuống sàn nhà.


Cảnh này nêu lên một câu hỏi quan trọng: Làm sao chúng ta nghe được lời Chúa, nhất là khi chúng ta nghe đọc và cắt nghĩa trong những cuộc hội họp Ki-tô hữu?
Chúng ta lắng nghe lời Chúa giống như hai môn đệ lắng nghe Đức Giê-su. Chúng ta lắng nghe lời Chúa tựa như Paul Stookey lắng nghe chàng thanh niên Texas. Chúng ta lắng nghe với tất cả con người của mình: thể xác, trí khôn, con tim và linh hồn.
Trước hết, chúng ta nghe bằng thể xác

Lắng nghe bằng thể xác có nghĩa là chúng ta lắng nghe với thái độ cung kính và chú ý. Lối lắng nghe này không phải là dễ. Nó đòi chúng ta phải rất cố gắng. O-ri-gien, một nhà giảng thuyết thời xưa, thường nói với cộng đoàn của ngài:


"Anh chị em lãnh nhận Mình Thánh Chúa với sự thận trọng và cung kính, đến độ ngay cả mụn bánh thánh nhỏ cũng không để rơi xuống sàn nhà. Anh chị em cũng phải lãnh nhận Lời Chúa với lòng thận trọng và cung kính như vậy, đừng để một lời nào lọt mất đi."
Thứ hai, chúng ta lắng nghe bằng trí khôn
Các nhà tâm lý học thường nói câu này: "Bạn hãy đặt tên cho nó, hãy nhận lấy nó và hãy biến nó thành cái gì của riêng bạn." Ý nghĩa câu nói này thật sâu sắc nếu áp dụng vào Kinh Thánh. Trong Kinh Thánh, việc đặt tên có nghĩa là làm chủ được. Thí dụ khi A-đam đặt tên cho các sinh vật có nghĩa là ông làm chủ được các sinh vật.
Áp dụng ý nghĩa ấy vào việc lắng nghe lời Chúa: nếu chỉ lắng nghe với sự chú ý thôi thì chưa đủ, mà còn phải đặt tên cho các biến cố Kinh Thánh, nhận lấy chúng và biến chúng thành những biến cố của chính chúng ta.
Thí dụ, khi nghe câu truyện Đức Giê-su giải thích Kinh Thánh cho hai môn đệ, chúng ta phải làm công việc khác hơn cả lắng nghe nữa. Đó là chính chúng ta phải trở thành những môn đệ ấy. Chúng ta phải cố gắng cảm nghiệm qua óc tưởng tượng những gì họ đã cảm nghiệm. Chúng ta phải cố gắng cảm thấy được lòng hứng khởi mà chính các môn đệ đã cảm thấy khi họ lắng nghe Đức Giê-ssu giải thích Kinh Thánh cho họ.
Thứ ba, chúng ta lắng nghe bằng con tim
Lắng nghe bằng con tim nghĩa là chúng ta đem lời Chúa "ấp ủ trong tâm hồn" chúng ta. Nghĩa là chúng ta lắng nghe với con tim đầy yêu mến.
Hai môn đệ Em-mau là một thí dụ điển hình về việc lắng nghe lời Chúa bằng con tim. Sau khi gặp Chúa, họ nói với nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?" (Lc 24:32). Một thí dụ khác trong Thánh Vịnh về việc lắng nghe bằng con tim. Tác giả Thánh Vịnh nói:
"Luật pháp Ngài, lạy Chúa, con yêu chuộng dường bao,

Suốt ngày cứ suy đi gẫm lại!...

Thánh ý Chúa, trọn bề tuân giữ,

Hồn mến yêu hâm mộ chẳng rời." (Tv 119:97,167)
Nói cách khác, lắng nghe lời Chúa cách yêu mến cũng giống như một người tình lắng nghe người mình yêu. Quả đúng như vậy, lắng nghe lời Chúa bằng con tim vì Kinh Thánh thực là bức thư tình của Chúa gửi cho chúng ta.
Sau hết, chúng ta lắng nghe bằng linh hồn

Lắng nghe bằng linh hồn nghĩa là chúng ta lắng nghe với lòng tin, tin rằng lời Chúa có uy lực đánh động và biến đổi chúng ta. Phận vụ chúng ta là mở lòng đón nhận lời Chúa. Ngoài ra chúng ta không làm được gì hơn. Chính Chúa, Ngài sẽ cho lời Ngài có sức mạnh để thấm nhập vào tâm can chúng ta và tái tạo chúng ta.


Như vậy, chúng ta lắng nghe lời Chúa bằng tất cả con người chúng ta: thể xác, trí khôn, con tim và linh hồn. Giờ đây chúng ta hãy xét vai trò của việc cầu nguyện trong hành trình đức tin của chúng ta.
CẦU NGUYỆN VỚI CHÚA

Trong Bài giảng trên núi, Đức Giê-su nói: "Khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo" (Mt 6:6).


Một số người đặt câu hỏi: "Nếu chúng tôi quá bận rộn công việc nên không thể cầu nguyện riêng được thì sao?" Cách tốt nhất để trả lời câu hỏi này là dùng một thí dụ.
Bà Dorothy Day đã nhiều năm làm việc giữa những người nghèo. Năm 1980 bà qua đời, nhật báo New York Times gọi bà là "người có nhiều ảnh hưởng nhất trong lịch sử Giáo Hội Công giáo Hoa Kỳ." Dorothy Day thường cầu nguyện riêng hằng ngày. Khi công việc quá bận rộn nên không cầu nguyện riêng được, bà đã cầu nguyện bất cứ lúc nào bà thấy có thì giờ và tại bất cứ đâu - trên xe buýt, đi trong phố, đợi một cái hẹn...
Cũng như Dorothy Day, tất cả chúng ta đều có những lúc đợi chờ. Những lúc này chính là cơ hội để chúng ta lắng nghe tiếng Chúa nói trong chúng ta. Đang khi lắng nghe ấy, chúng ta khám phá ra được sự hiện diện và quyền năng của Chúa ngay trong chính con người mình như là chưa bao giờ từng thấy.
Đức Giê-su là gương mẫu cầu nguyện
Khi Paul Stookey và chàng thanh niên Texas cầu nguyện sau sân khấu, họ chỉ noi gương Đức Giê-su đã từng cầu nguyện trong đời Ngài. Học hỏi về cách Đức Giê-su cầu nguyện, người ta thấy Ngài sử dụng những lời cầu nguyện cố định và những lời cầu nguyện tự do.
Những lời cầu nguyện cố định là những gì Ngài lấy từ những kinh nguyện cổ truyền để bày tỏ cảm nghiệm của Ngài với Thiên Chúa. Thí dụ, trên thập giá, Đức Giê-su cầu nguyện: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" (Mc 15:34). Đây là câu thứ nhất của Thánh Vịnh 22. Nói cách khác, Đức Giê-su đã cầu nguyện bằng lời nguyện cố định trong giây phút đen tối của đời Ngài.
Những lời cầu nguyện tự do là những lời Đức Giê-su đã cầu nguyện bộc phát tự tâm hồn Ngài, bằng những lời lẽ của riêng Ngài, thí dụ khi Ngài cầu nguyện trong bữa Tiệc ly (Ga 17:1-26).
Cầu nguyện, dù cố định hay tự do, đều đưa chúng ta đến tiếp xúc với Thiên Chúa. Nó mở lòng chúng ta, để Chúa đi vào và ban ơn sủng Ngài cho tâm hồn chúng ta tùy theo sự khôn ngoan của Ngài.
Bây giờ chúng ta sang điểm cuối cùng về hành trình đức tin.
CẢM NGHIỆM NHỮNG THĂNG TRẦM

Khi nói về cảm nghiệm trở lại của mình, Paul Stookey nói rằng một khi chúng ta đã nhận ra ánh sáng Chúa Ki-tô thì chúng ta sẽ tiếp tục trở lại với ánh sáng ấy.


Đây là một khám phá quan trọng. Cuộc hành trình đức tin đầy những lúc thăng trầm. Con đường đến với Chúa không phải là xa lộ sáu hàng xe đi. Rất nhiều khi đó là con đường nhỏ cô liêu đầy sỏi đá lởm chởm.
Cuộc hành trình đức tin chẳng khác gì cuộc đời lữ hành này. Có ngày thật là đẹp. Nhưng sau đó cuộc sống lại gian truân trăm đường! Vào những ngày tẻ lạnh và đau khổ, chúng ta mới thấy cuộc sống này có dễ dàng gì đâu.
Nói cách khác, cuộc hành trình đức tin của chúng ta tùy thuộc vào nhịp độ ánh sáng và bóng tối. Nó thường đối chiếu giữa những lúc vui vẻ hạnh phúc và những khi chán nản thất vọng.
Nếu cuộc hành trình đức tin chúng ta gặp lúc đen tối khiến chúng ta do dự không biết có nên tiếp tục nữa không, thì chúng ta hãy nhớ lại một bài thơ ngày xưa. Bài thơ ấy ví mối liên hệ giữa chúng ta với Đức Giê-su giống như là hai người trên chiếc xe đạp đôi. Tựa như thế này:
"Thoạt tiên, tôi ngồi trước, Chúa đằng sau.

Biết Ngài ở đó, dù chẳng thấy Ngài đâu.

Rồi những khi gặp đoạn đường lên dốc,

Tôi mới thấy đôi chân Chúa nhiệm mầu.
Một ngày kia, Chúa đổi chỗ cho tôi

Là mọi sự bỗng đảo ngược hết rồi.

Xưa tôi lái, chiếc xe đi chính xác

Cứ từ từ lăn, ôi chán quá đi thôi.

Nhưng Chúa lái xe, sao loạn vô cùng!

Tôi không biết mình có chịu nổi hay không,

Vội kêu lên: “Kìa, Chúa điên rồi hả?"

Chúa chỉ cười bảo: “Đạp nữa đi cưng!"
Thế là tôi chợt hiểu, lặng yên và đạp,

Vững lòng tôi tín thác người Bạn cùng đi.

Đời con người còn nhiều lúc lắm khi

Vì hoảng sợ nên sẵn sàng bỏ cuộc.

Nhưng lúc đó Chúa quay lại nhìn tôi,

Nắm lấy tay tôi, Chúa mỉm cười,

Và Ngài nói: “Đạp tiếp đi, con ơi!"
Bài thơ này đưa chúng ta trở lại lúc bắt đầu thảo luận về cuộc hành trình đức tin. Sau hết, mỗi cuộc hành trình đức tin là một công cuộc độc đáo của ơn sủng. Mà ơn sủng có nghĩa là Thiên Chúa sẽ làm cho chúng ta những gì chúng ta không thể làm được một mình (Lc 1:37). Do đó những gì phần chúng ta phải làm đó là cộng tác và "đạp."
ĐỌC VÀ SUY NIỆM KINH THÁNH

1. Gio-an 1:38-51: Mở lòng cho ơn sủng Chúa

2. Lu-ca 8:40-48 : Đến với kẻ khác để xin họ giúp đỡ

3. Lu-ca 8:4-15: Lắng nghe lời Chúa

4. Mát-thêu 6:5-13: Cầu nguyện với Chúa

5. Lu-ca 24:13-35: Cảm nghiệm những thăng trầm


THẢO LUẬN

1. Theo nghĩa nào bạn đã nghĩ cuộc hành trình đến với Chúa là "công cuộc của ơn sủng"?


2. Bạn hãy giải thích vai trò của cộng đồng Ki-tô đối với hành trình đức tin, dựa trên kinh nghiệm riêng của bạn hoặc kinh nghiệm trong Kinh Thánh.
3. Khi gặp những thăng trầm, bạn nhận định cuộc hành trình đức tin giống như cuộc đời như thế nào?
CHIA SẺ

Chia sẻ việc Chúa gọi bạn học hỏi thêm về đức tin Công giáo và Ngài đã gọi bạn dưới hình thức nào.


--------------------------------------------------------


Bài 2
THÁNH TRUYỀN VÀ KINH THÁNH

Trước hết bạn hãy suy nghĩ và trả lời hai câu hỏi này:


1. Điều làm tôi nghĩ Kinh Thánh là do Thiên Chúa linh hứng, đó là...
2. Một vấn đề về Kinh Thánh đôi khi khiến tôi thắc mắc, là...
MẠC KHẢI

Hồi đệ nhị thế chiến, một thủy thủ được phái đến đơn vị hải pháo. Người ta phát cho anh một đôi găng tay chống nhiệt. Nhiệm vụ của anh là phải nhặt vỏ đạn rớt ra từ nòng đại bác sau mỗi lần tác xạ. Lý do để tránh việc vỏ đạn nằm ngổn ngang trên sàn tàu gây nguy hiểm cho các thủy thủ khác thuộc pháo đội. Anh phải sử dụng đôi găng đặc biệt ấy là vì vỏ đạn rất nóng khi vừa rơi ra khỏi nòng súng.


Giả như thấy một thủy thủ mang găng tay chống nhiệt cầm một vỏ đạn đại bác thì có cách nào để chúng ta có thể khẳng định được là vỏ đạn ấy thật nóng? Có ba cách:
Trước hết, chúng ta có thể tự mình sờ vào vỏ đạn ấy để cảm thấy được độ nóng của nó. Thứ nhì, chúng ta có thể nhổ chút nước miếng lên nó, nếu nghe tiếng xèo xèo thì chúng ta lý luận là nó đang nóng. Cách cuối cùng là chúng ta cứ hỏi thẳng người cầm vỏ đạn ấy, một khi chúng ta đã cho là họ biết và sẽ nói thật.
Như vậy là có ba cách để biết vỏ đạn có nóng hay không: do kinh nghiệm của chính mình, do suy luận, và do tin tưởng vào một người đã biết.
Tuy nhiên chúng ta tự hỏi có thể áp dụng ba cách ấy để cảm nghiệm Thiên Chúa không? Thí dụ, chúng ta có thể dùng những cách ấy để khẳng định Thiên Chúa hiện hữu và một vài nét về bản chất của Ngài không? Nhiều người bảo rằng được lắm chứ. Vậy chúng ta hãy xét cách biết đầu tiên.
Kinh nghiệm dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa

Trong cuốn tự thuật về đời sống tu đức của mình, Bede Griffiths người Anh đã kể lại một câu truyện thời niên thiếu. Vào một buổi hoàng hôn mùa hè, đang khi đi dạo chơi một mình, ông đã chợt nhận ra được vẻ đẹp của muôn vật chung quanh. Ông tự hỏi mình tại sao cũng vẫn vẻ đẹp này, thế mà từ bao lâu nay ông đã không nhận ra được. Rồi ông tiến thêm một bước nữa:


"Mọi sự trở nên yên tịnh khi ánh nắng vàng buổi hoàng hôn nhạt dần... Tới bây giờ tôi vẫn còn nhớ cảm giác sợ hãi ập lên tôi. Chân tôi bủn rủn muốn quỵ xuống... Lúc ấy tôi đã bất ngờ nhận thức được một thế giới tuyệt vời với vẻ huyền bí tôi chưa bao giờ thấy có." - The Golden String
Sau này Griffiths thuật lại là dường như Thiên Chúa đã đến và chạm tới ông ngay chính lúc ấy. Đó là một kinh nghiệm ông không bao giờ quên được. Ông nói: "Bây giờ nhìn lại, tôi thấy đó quả là một trong những biến cố đổi đời của cuộc sống tôi."
Nhiều người khác cũng thuật lại những kinh nghiệm tương tự. Hơn thế nữa, họ còn xác tín chắc chắn mình đã cảm nghiệm được Thiên Chúa.
Lý trí dẫn đến Thiên Chúa

Từ lâu, Whittaker Chambers là một đảng viên tiếng tăm của đảng Cộng Sản Hoa Kỳ. Trong cuốn tự thuật, ông kể lại một câu truyện đã hoàn toàn làm thay đổi chiều hướng tư tưởng của ông.


"Tôi đang ngồi nhìn con gái tôi ăn. Nó ngồi ngất ngưởng trên chiếc ghế con nít. Nó là một cái gì huyền diệu nhất đã đến trong đời tôi. Tôi thích ngồi ngắm nó trát cháo lên mặt hoặc bình thản đổ cháo xuống sàn nhà. Mắt tôi dừng lại trên đôi tai của nó và tôi quan sát kỹ những vòng cong của vành tai - đôi tai phức tạp và tuyệt hảo." - The Witness
Bất chợt, một ý nghĩ đến với Chambers: Đôi tai này không thể nào được hình thành tình cờ do sự hội tụ của các nguyên tử được. Nó phải là tác phẩm của một công trình sáng tạo. Ý tưởng này đến với Chambers một cách "tự nhiên chứ không gượng ép." Ông đã ráng xua đuổi ý tưởng đó khỏi đầu óc mình. Vì nếu cứ tiếp tục suy luận thì ông sẽ phải đi đến kết luận rằng tác phẩm này cho thấy là phải có một Đấng phác họa ra nó. Chambers nói: "Lúc ấy tôi không nhận thấy, nhưng quả thực ngón tay Thiên Chúa đã chạm trên trán tôi."
Một lần nữa, có thể kể ra nhiều trường hợp tương tự về suy luận. Những trường hợp ấy làm cho nhiều người xác tín rằng lý trí không những dẫn đến Thiên Chúa mà còn cho thấy một điều nào đó về bản chất của Ngài. Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô viết: "Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người" (Rm 1:20).
Đức tin biểu lộ Thiên Chúa

Có nhiều người chưa bao giờ cảm nghiệm Thiên Chúa một cách hoàn toàn không chút nghi ngờ. Nhiều người khác lại ngần ngại không muốn nói là lý trí có thể dẫn đến Thiên Chúa. Họ lý luận: Có thể ngày nào đó khoa học sẽ tiến triển thêm và sẽ tìm ra một giải thích khác chứ không phải giải thích là do Thiên Chúa, để cắt nghĩa sự phức tạp và trật tự trong vũ trụ. Đối với những người này, chỉ có cách duy nhất để tìm biết Thiên Chúa, đó là đức tin vào sự mạc khải của Thiên Chúa dành cho con người.

Mạc khải nghĩa là "mở tấm màn che khuất ra." Sự mạc khải của Thiên Chúa là việc Ngài tỏ mình ra cho chúng ta. Qua sự tỏ lộ này, Thiên Chúa không những cho chúng ta thấy bản chất của Ngài, mà còn cho thấy tình yêu và kế hoạch của Ngài dành cho chúng ta nữa.
Mạc khải của Thiên Chúa có thể được nhận biết qua hai giai đoạn:
* Sự mạc khải nguyên thủy của Thiên Chúa cho các ngôn sứ và các tông đồ trong thời Cựu và Tân Ước.
* Sự chuyển tiếp của mạc khải đó sang các thế hệ sau.
Sự mạc khải nguyên thủy của Thiên Chúa cho các ngôn sứ và các tông đồ thường được gọi là mạc khải trực thụ. Có nghĩa là các ngôn sứ đã tiếp nhận lời Thiên Chúa trực tiếp qua những giấc mơ, thị kiến, hoặc qua những soi sáng của Chúa về một vài biến cố lịch sử Do-thái. Cũng thế, các tông đồ đã tiếp nhận lời Chúa tức khắc và trực tiếp từ Đức Giê-su.
Nhưng Thiên Chúa tỏ mình ra với các ngôn sứ và các tông đồ không phải cho chính họ mà thôi, mà là cho tất cả chúng ta, kể cả những người chưa sinh ra đời. Do đó cần phải có sự mạc khải gián thụ, tức là truyền lại lời Thiên Chúa cho các người khác. Việc mạc khải gián thụ này dần dần trở thành Thánh Truyền, tức là truyền lại lời Chúa cho người khác.



tải về 1.67 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương