(Nguồn: Sở nông nghiệp và PTNT tỉnh Bắc Giang)
- Tiêu thụ: Thị trường tiêu thụ vải hiện nay, ngoài thị trường trong nước còn lại chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc. Hàng năm, lượng vải xuất bán sang Trung Quốc chiếm > 80% tổng lượng vải sấy khô và > 30% lượng vải tiêu thụ tươi của tỉnh. Như vậy, Trung Quốc hiện nay vẫn là thị trường chính tiêu thụ vải của tỉnh. Tuy nhiên, quan hệ xuất khẩu vải sang Trung Quốc hiện nay vẫn chủ yếu là quan hệ biên mậu và xuất khẩu theo con đường tiểu ngạch, nên giá cả không ổn định, tác động lớn đến sản xuất của nông dân và các nhà thu mua chế biến.
Nghiên cứu trên địa bàn cho thấy, việc tiêu thụ vải từ người sản xuất đến người tiêu dùng được diễn ra như sau.
+ Kênh thị trường1 :
Người sản xuất - Người bán lẻ - Người tiêu dùng: kênh tiêu thụ này diễn ra tại địa phương gần vùng sản xuất.
+ Kênh thị trường 2:
Người sản xuất - người thu gom/thương lái – chợ – bán lẻ/ xuất khẩu – tiêu thụ trong nước hay xuất khẩu. Đây là kênh phân phối truyền thống trong việc tiêu thụ vải đặc điểm sản xuất nhỏ lẻ, phân tán
+ Kênh thị trường 3.
Người sản xuất - Người thu gom/thương lái – chợ - Chế biến – Tiêu thụ trong nước hay xuất khẩu. Đây là kênh tiêu thụ phục vụ lĩnh vực chế biến vải.
Qua phân tích kênh thị trường cho thấy thương lái là người chi phối rất lớn đến việc phân phối và giá cả của vải. Chính vì vậy người sản xuất trong những năm vừa qua thường hay bị ép giá.
3.3.2. Mức độ an toàn trong khâu sơ chế biến, kinh doanh sản phẩm quả vải.
Công tác thu hoạch, sơ chế và bảo quản vải trên địa bàn được thực hiện tùy theo từng đối tượng và kênh phối khác nhau thì có hình thức khác nhau. Cụ thể như sau:
- Đối với người nông dân trực tiếp sản xuất vải thì công tác thu gom, sơ chế được tiến hành ngay tại gia đình, ngoài vườn bằng các biện pháp thủ công như nhúng rửa, đóng sọt và được đem đi tiêu thụ hoặc sấy khô bằng các lò sấy thủ công. Do các biện pháp chủ yếu đơn giản và thủ công nên chất lượng sản phẩm chưa cao, việc hao hụt và hư hỏng sản phẩm sau thu hoạch còn cao, nhiều sản phẩm khi không thu hoạch kịp hoặc tiêu thụ không kịp thời thường bị hư hỏng gây tổn thất rất lớn cho người sản xuất.
- Đối với các thương lái và người thu gom tại các vùng vải tập trung: công tác sơ chế biến và bảo quản sản phẩm được đối tượng này quan tâm chú trọng hơn, do đối tượng này có điều kiện kinh tế cao hơn so với người nông dân trực tiếp sản xuất, do vậy nhiều thương lái đã đầu tư xây dựng hệ thống kho lạnh để bảo quản, thu gom vải vào các thời vụ chính, để thu được lợi nhuận cao. Tuy nhiên đối hình thức sơ chế, bảo quản này hiện nay trên địa bàn tỉnh Bắc Giang vẫn chưa nhiều và còn hạn chế do vốn đầu tư kho lạnh và cơ sở sơ chế sản phẩm là rất lớn, không phải đối tượng nào cũng có điều kiện xây dựng được.
4. Hiệu quả kinh tế của sản xuất vải
Việc hạch toán hiệu quả sản xuất cây vải trong vùng gặp những hạn chế khi xác định các chỉ tiêu đầu tư: hầu hết các chủ vườn không tính toán chi tiết về công lao động, chi phí xây dựng vườn cây (khai hoang, cải tạo vườn), giá giống cũng biến động tuỳ thuộc nguồn giống (mua, tự nhân, nguồn mua, số lượng tuỳ thuộc mật độ trồng của từng hộ trên một đơn vị diện tích). Mức độ thâm canh cũng rất khác nhau, sản lượng sản phẩm trong vườn cũng biến động theo năng suất của nhiều lứa tuổi cây. Ngay cả giá bán sản phẩm cũng dao động theo thời điểm trong vụ thu hoạch (đầu vụ, giữa vụ, cuối vụ).
Để có thể rút ra những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế của cây vải và các sản phẩm cây ăn quả khác, quá trình điều tra khảo sát đã tập trung điều tra với một số sản phẩm chính: hồng, cam, na, dứa, bưởi... ở những vườn toàn bộ diện tích đã cho sản phẩm từ 2 năm trở lên, tiến hành thống kê các chỉ tiêu chi phí đầu tư, thu nhập tối thiểu với các chỉ tiêu: đầu tư trồng mới (khai hoang, giống, vật tư ...), lượng phân bón, thuốc sâu, vật tư khác, công chăm sóc, thu hái, bảo vệ, sản lượng toàn vườn và tổng thu bằng tiền cả vụ. Chỉ tiêu hạch toán được tính quy về 1 ha (theo tổng số cây cho sản phẩm trong vườn). Các kết quả được phân tích xử lý và lấy trung bình các chỉ tiêu về sản lượng, chi phí sản xuất, tổng thu, để hạch toán lãi thuần trên đơn vị 1 ha với mỗi loại sản phẩm. Các chi phí quy giá trị theo giá hiện hành ở địa phương vào thời điểm điều tra. Các kết quả thu được, được tổng hợp trong bảng sau.
Bảng 13: Tổng hợp các chỉ tiêu hạch toán sản xuất đối với một số loại cây ăn quả chính trên 1 ha
ĐVT:1000 đồng
Chỉ tiêu
|
Vải sx bình thường
|
Vải sx theo VietGap
|
Nhãn
|
Na
|
1. Chi phí hàng năm
|
15.800
|
21.350
|
10.900
|
10.400
|
- Công
|
4.000
|
4.500
|
2.700
|
3.100
|
- Vật tư
|
2000
|
3550
|
2.000
|
1.940
|
- Khấu hao vườn (10% KTCB)
|
6000
|
7500
|
5500
|
3800
|
- Chi phí khác
|
3800
|
5800
|
2700
|
3500
|
2. Sản lượng (tấn/ha)
|
7,0
|
8,0
|
4,0
|
2,0
|
3. Giá trị sản lượng trên 1 ha
|
42000
|
112000
|
36000
|
32000
|
4. Lãi thuần mang lại
|
|
|
|
|
- Trên 1 ha
|
26.200
|
90.650
|
25.100
|
21.600
|
- Trên 1 tấn sản phẩm
|
3743
|
11331
|
6275
|
10800
|
(Kết quả xử lý phiếu điều tra năm 2011)
Na có ưu thế nhất về lợi nhuận, nhãn cũng cho mức lợi nhuận trung bình, sản xuất vải theo VietGap mang lãi trên 1 tấn sản phẩm gấp 3 lần so với sản xuất thông thường.
Để thấy rõ hiệu quả mang lại về kinh tế trong cơ cấu cây trồng trên địa bàn, đã tiến hành điều tra và xử lý thông tin, đưa ra một số kết quả so sánh giữa một số loại sản phẩm cây ăn quả chính và các cây trồng phổ biến khác trong vùng.
Bảng 14: So sánh về hiệu quả kinh tế giữa cây vải và một số cây trồng khác (Tính trên 1 ha)
S¶n phÈm
|
Tæng GTSL (1000®)
|
Tæng chi (1000®)
|
L·i thuÇn
|
L·i/trªn mét ®ång vèn
|
(1000®)
|
Vải sản xuất thường
|
42000
|
15.800
|
26.200
|
1,66
|
Vải sản xuất theo VietGap
|
112000
|
21.350
|
90.650
|
4,25
|
- Nhãn
|
36000
|
10.900
|
25.100
|
2,30
|
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |