BÁo cáO ĐÁnh giá TÁC ĐỘng của dự Án luật nhập cảNH, xuất cảNH, CƯ trú CỦa ngưỜi nưỚc ngoài tại việt nam



tải về 82.86 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích82.86 Kb.
#30183


BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG

CỦA DỰ ÁN LUẬT NHẬP CẢNH, XUẤT CẢNH, CƯ TRÚ

CỦA NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

Căn cứ Nghị quyết số 20/2011/QH13 của Quốc hội khoá XIII về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, Chính phủ đã giao Bộ Công an chủ trì phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng dự án Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam và báo cáo đánh giá tác động của dự án Luật này với các nội dung sau:

- Đánh giá về công tác quản lý người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú tại Việt Nam trong thời gian qua; đánh giá sự cần thiết phải xây dựng, ban hành Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam;

- Xác định mục tiêu, yêu cầu xây dựng và ban hành Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam;

- Xác định phương án giải quyết các vấn đề cơ bản của dự án Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam;

- Phân tích những tác động chính của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam đối với chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội khi Luật được ban hành;

- Kiến nghị.

I. ĐÁNH GIÁ VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHẬP CẢNH, XUẤT CẢNH, CƯ TRÚ CỦA NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

Qua thực tiễn công tác quản lý xuất nhập cảnh thấy Pháp lệnh số 24/1999/PL-UBTVQH10 ngày 28/4/2000 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh năm 2000) và các văn bản hướng dẫn đã đáp ứng yêu cầu của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, thu hút đầu tư, thương mại và du lịch từ nước ngoài vào Việt Nam, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế toàn diện nhằm xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của đất nước; đồng thời góp phần quan trọng vào kết quả đấu tranh phòng, chống nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú bất hợp pháp, phòng chống khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

Theo quy định của Pháp lệnh năm 2000, hoạt động quản lý nhà nước về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua thể hiện cụ thể sau:

1. Thi hành các quy định đối với hoạt động nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài

a) Xét duyệt nhân sự, cấp thị thực, gia hạn tạm trú, cấp thẻ tạm trú

Đây là khâu quan trọng liên quan đến việc bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Qua công tác xét duyệt nhân sự đã phát hiện và ngăn chặn các trường hợp thuộc diện đối tượng chưa được nhập cảnh Việt Nam; dừng xuất cảnh đối với những người nước ngoài thuộc diện tạm hoãn xuất cảnh. Tính đến tháng 06/2013, đã có 44.080.492 lượt người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam, trong đó có 27.050.364 lượt người nước ngoài vào Việt Nam tham quan du lịch, thăm thân, tăng trung bình là 18,57% và đa dạng về quốc tịch; thu hút người nước ngoài vào 14.489 dự án của 98 quốc gia và vùng lãnh thổ (nhiều nhất là Nhật Bản, Đài Loan, Hàn quốc và Singapore) đầu tư tại Việt Nam (ở cả 63 tỉnh, thành trong cả nước) với tổng số vốn đăng ký lên tới 213,6 tỷ USD. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, có 11.519 dự án 100% vốn nước ngoài.

b) Công tác quản lý cư trú

- Việc khai báo tạm trú thực hiện theo đúng trình tự quy định của Pháp lệnh năm 2000 và các văn bản hướng dẫn. Thông tin khai báo của người nước ngoài được tiếp nhận từ công an phường, xã và các cơ sở lưu trú (nơi người nước ngoài được phép lưu trú, gồm khách sạn, nhà nghỉ…) được chuyển về công an quận, huyện; sau đó, chuyển về Phòng quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh, thành phố để truyền dữ liệu về Cục Quản lý xuất nhập cảnh; những khách sạn đã nối mạng máy tính truyền dữ liệu khai báo tạm trú của người nước ngoài về Phòng Quản lý xuất nhập cảnh để truyền về Cục Quản lý xuất nhập cảnh. Nhìn chung, việc tiếp nhận, xử lý thông tin khai báo, đăng ký tạm trú để phục vụ công tác nắm tình hình về người nước ngoài đã đáp ứng được yêu cầu công tác, đặc biệt khi có các sự kiện chính trị, quốc tế lớn được tổ chức tại Việt Nam.

- Quản lý người nước ngoài thường trú, theo quy định của Pháp lệnh năm 2000, người nước ngoài thuộc diện được xét cho thường trú là người có vợ, chồng, con, cha, mẹ là công dân Việt Nam hoặc vì lý do chính trị. Trong quá trình thực hiện Pháp lệnh năm 2000, đã giải quyết cho 620 người nước ngoài được được thường trú để sinh sống, làm ăn lâu dài tại Việt Nam với vợ, chồng, con, cha đẻ, mẹ đẻ là công dân Việt Nam; chưa có trường hợp người nước ngoài nào xin thường trú vì lý do chính trị.

c) Công tác xử lý vi phạm

- Tình hình: đã xuất hiện tình trạng người nước ngoài vi phạm pháp luật, gây phức tạp về trật tự xã hội, phương hại an ninh quốc gia như hoạt động trái mục đích nhập cảnh (thu mua nông lâm hải sản, nuôi cá bè, kết hôn..); cư trú trái phép, cướp giật, buôn bán ma túy, tìm đường đi nước thứ 3; xuất hiện nhiều loại tội phạm mới, hoạt động có tổ chức, có sự liên kết chặt chẽ giữa các đối tượng trong và ngoài nước, thủ đoạn tinh vi, nguy hiểm như tội phạm ma túy, rửa tiền, đầu cơ cổ phiếu, trộm cước viễn thông, sử dụng thẻ tín dụng, giấy tờ giả để rút tiền ngân hàng, môi giới kết hôn có yếu tố nước ngoài trái pháp luật, đưa phụ nữ Việt Nam ra nước ngoài lấy chồng, bán dâm, sử dụng công nghệ thông tin để hoạt động lừa đảo…

- Từ năm 2000 đến nay, lực lượng quản lý xuất nhập cảnh đã phát hiện xử lý 74.441 trường hợp người nước ngoài vi phạm trong lĩnh vực xuất nhập cảnh (Công an địa phương: 51.851; A72: 22.590); địa phương xử lý nhiều: Tp.Hồ Chí Minh (16.844); Quảng Ninh (4.500); Bình Dương (4.610); Hà Nội (4.277).

2. Nhận xét, đánh giá

Nhìn chung công tác quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú đối với người nước ngoài tại Việt Nam bảo đảm thông thoáng, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật; góp phần thu hút người nước ngoài vào đầu tư, kinh doanh, du lịch...; đáp ứng được yêu cầu của quản lý nhà nước về xuất nhập cảnh và góp phần đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, tổng kết thực tiễn cho thấy công tác quản lý nhà nước về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam bộc lộ một số hạn chế sau đây:

- Các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến lĩnh vực nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú, đi lại, hoạt động của người nước ngoài còn chưa thống nhất như: Pháp lệnh năm 2000 quy định thị thực có thời hạn không quá 12 tháng nhưng Luật Đầu tư năm 2005 quy định thời hạn của thị thực tối đa là 05 năm.

- Pháp lệnh năm 2000 cho phép người nước ngoài được chuyển đổi mục đích nhập cảnh. Đây là kẽ hở dẫn đến tình trạng người nước ngoài lợi dụng danh nghĩa vào Việt Nam tham quan, du lịch, vào theo diện miễn thị thực để thực hiện các mục đích khác, đặc biệt tìm kiếm việc làm, xin chuyển đổi ở lại lao động trong đó có nhiều lao động đang làm việc tại các dự án do Trung Quốc trúng thầu (là vấn đề phức tạp mà các bộ, ngành đang phải phối hợp giải quyết).

- Chưa quy định cụ thể và đầy đủ các ký hiệu thị thực (như thị thực lao động), nên chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý, thống kê nhà nước về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài.

- Về việc khai báo tạm trú: chưa quy định trách nhiệm khai báo tạm trú của các cơ sở lưu trú nói chúng và trách nhiệm nối mạng máy tính với cơ quan quản lý xuất nhập cảnh để truyền thông tin khai báo tạm trú của người nước ngoài đối với các khách sạn nói riêng.

- Về việc giải quyết thường trú: chưa quy định người không có giấy tờ chứng minh quốc tịch thuộc diện được xét cho thường trú, trong khi thực tiễn có một số lượng lớn người thuộc diện trên đã tạm trú tại Việt Nam trước năm 2000; Quốc hội, Chính phủ đang chỉ đạo giải quyết nhập quốc tịch đối với người đã tạm trú tại Việt Nam trên 20 năm; số chưa đủ điều kiện nhập quốc tịch Việt Nam thì giải quyết cho thường trú để quản lý.

- Trách nhiệm quản lý người nước ngoài của các Bộ, ngành, chính quyền địa phương, doanh nghiệp chưa được coi trọng thường xuyên nên chỉ đến khi phát sinh vấn đề phức tạp (chủ yếu liên quan đến kinh tế) mới quan tâm, xem xét, đánh giá.

- Chưa quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc mời, bảo lãnh người nước ngoài dẫn đến tình trạng làm thủ tục cho khách nhập cảnh nhưng không quản lý.

II. MỤC TIÊU CỦA VIỆC BAN HÀNH LUẬT NHẬP CẢNH, XUẤT CẢNH, CƯ TRÚ CỦA NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

Việc ban hành Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam cần bảo đảm các mục tiêu cụ thể sau:

1. Thể chế hoá đầy đủ, kịp thời chủ trương, chính sách của Đảng về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam; hoàn thiện một bước pháp luật về xuất nhập cảnh, tạo nhận thức thống nhất và đầy đủ về công tác quản lý nhà nước về xuất nhập cảnh trong thời gian tới, bảo đảm tính hợp hiến và tương thích với Luật Quốc tịch Việt Nam, Luật Đầu tư nước ngoài và với các đạo luật khác có liên quan.

2. Khắc phục những khó khăn, hạn chế, bất cập trong công tác quản lý nhà nước về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú đối với người nước ngoài tại Việt Nam; tạo điều kiện phân tích, đánh giá tổng thể tình hình nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua; từ đó, đưa ra những giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.

3. Bảo đảm hiệu lực pháp luật về xuất nhập cảnh, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh được các cơ quan, tổ chức, công dân tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh.

4. Bảo đảm mục đích của quản lý nhà nước về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú đối với người nước ngoài tại Việt Nam là tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng để người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú để thực hiện các mục đích đầu tư, thương mại, du lịch, công tác, học tập, lao động, thăm thân, chữa bệnh tại Việt Nam; huy động sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, cá nhân công dân vào công tác quản lý nhà nước về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú đối với người nước ngoài tại Việt Nam.



III. PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA LUẬT

Để khắc phục kịp thời những hạn chế, bất cập của các văn bản hiện hành cũng như sự yếu kém trong công tác quản lý nhà nước về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, cần xây dựng Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam để quy định thống nhất, đầy đủ, cụ thể các vấn đề: nguyên tắc, trình tự, thủ tục nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam; quyền, nghĩa vụ của người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú tại Việt Nam; quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân mời, bảo lãnh; trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong công tác quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú đối với người nước ngoài tại Việt Nam.

Việc ban hành Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam là cần thiết, nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về xuất nhập cảnh.

Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam cần tập trung vào các vấn đề cơ bản sau:

1. Về phạm vi điều chỉnh

Cần quy định mở rộng và rõ ràng hơn về phạm điều chỉnh của Dự thảo Luật vì theo Pháp lệnh năm 2000 thì phạm vi điều chỉnh mới chỉ là những nguyên tắc, trình tự thủ tục nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú đối của người nước ngoài tại Việt Nam; điều kiện nhập cảnh chưa được quy định cụ thể; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân ở Việt Nam trong việc mời, bảo lãnh, làm việc với người nước ngoài đã quy định nhưng chưa cụ thể, chặt chẽ; chưa quy định cụ thể, chi tiết quyền, nghĩa vụ của cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam, của tổ chức, cá nhân trong hoạt động nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.

2. Về nguyên tắc nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú

Dự thảo Luật quy định người nước ngoài phải tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam; người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú tại Việt Nam chỉ được sử dụng một hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay hộ chiếu; trình tự, thủ tục giải quyết nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú cho người nước ngoài tại Việt Nam phải bảo đảm chặt chẽ, công khai, minh bạch, đơn giản, thuận tiện. Đặc biệt, dự thảo Luật cần quy định người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú tại Việt Nam phải có cơ quan, tổ chức, cá nhân mời, bảo lãnh. Đây là nguyên tắc xuyên suốt nhằm bảo đảm chặt chẽ, công khai, minh bạch, thuận tiện; đồng thời ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân mời, bảo lãnh, tránh tình trạng đơn thuần làm dịch vụ cho người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam nhưng không quản lý được.

3. Về thị thực và giấy tờ có giá trị thay thị thực của Việt Nam

- Dự thảo Luật quy định cụ thể giá trị thị thực (Điều 7): (1) thị thực có giá trị một lần và nhiều lần; thị thực được cấp vào hộ chiếu hoặc cấp rời; (2) thị thực có các ký hiệu khác nhau, phù hợp với mục đích nhập cảnh; (3) thị thực không được chuyển đổi mục đích trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định. Quy định này vửa thể hiện tính nguyên tắc, vừa thể hiện tính mềm dẻo, linh hoạt đảm bảo tính khả thi của dự thảo Luật.

- Cần quy định chi tiết về ký hiệu thị thực (Điều 8) và thời hạn của thị thực (Điều 9); thực gắn với từng mục đích nhập cảnh nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quản quản lý nhà nước về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước tại Việt Nam.

4. Về việc miễn thị thực

Quy định các trường hợp được miễn thị thực (Điều 15): (1) theo điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc là thành viên; (2) theo Nghị quyết của Quốc hội; (3) sử dụng giấy tờ có giá trị miễn thị thực theo quy định của Luật này.

5. Về cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về xuất nhập cảnh

Dự thảo Luật quy định rõ về hệ thống cơ quan quản lý xuất nhập cảnh gồm Cục Quản lý xuất nhập cảnh Bộ Công an và cơ quan quản lý xuất nhập cảnh Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài (Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng).

6. Về tạm trú

- Quy định cụ thể hơn về chứng nhận tạm trú và khai báo tạm trú (Điều 23), cụ thể: (1) người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam được cơ quan quản lý xuất nhập cảnh hoặc cơ quan kiểm soát xuất nhập cảnh Bộ Quốc phòng cấp chứng nhận tạm trú tại cửa khẩu phù hợp với mục đích nhập cảnh và thời hạn thị thực; (2) người nước ngoài được tạm trú tại Việt Nam trong thời hạn chứng nhận tạm trú được cấp; (3) trường hợp người nước ngoài cần kéo dài thời hạn tạm trú phù hợp với mục đích nhập cảnh và cơ quan, tổ chức, các nhân mời, bảo lãnh đề nghị thì được gia hạn tạm trú; (4) chứng nhận tạm trú đã cấp có thể bị huỷ bỏ hoặc bị rút ngắn thời hạn trong trường hợp người được cấp vi phạm pháp luật Việt Nam hoặc tạm trú không phù hợp với mục đích nhập cảnh đã đăng ký; (5) người nước ngoài được tạm trú tại cơ sở lưu trú; (6) người nước ngoài phải khai báo tạm trú với cơ quan quản lý xuất nhập cảnh. Việc khai báo tạm trú được thực hiện trực tiếp hoặc thông qua cơ sở lưu trú; người nước ngoài tạm trú liên tục tại một cơ sở lưu trú, chỉ khai báo tạm trú một lần khi đến; trường hợp được gia hạn tạm trú thì phải khai báo tạm trú bổ sung.

- Quy định cụ thể hơn về thẻ tạm trú (Điều 24); các trường hợp được xét cấp thẻ tạm trú (Điều 25); ký hiệu thẻ tạm trú (Điều 26); thời hạn của thẻ tạm trú (Điều 27); điều kiện cấp thẻ tạm trú (Điều 28); cấp thẻ tạm trú (Điều 29); thẩm quyền cấp thẻ tạm trú (Điều 30).

7. Về việc giải quyết thường trú

- Dự thảo Luật quy định cụ thể về đối tượng, thủ tục giải quyết cho thường trú tại Việt Nam; quy định Bộ trưởng Bộ Công an có thẩm quyền xét giải quyết cho thường trú.

- Dự thảo Luật cần quy định người nước ngoài xin thường trú phải đáp ứng điều kiện có chỗ ở hợp pháp, thu nhập ổn định bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam; đã tạm trú liên tục tại Việt Nam từ 03 năm trở lên đối với trường hợp người xin thường trú với vợ, chồng, con, cha đẻ, mẹ đẻ của công dân Việt Nam; đã tạm trú tại Việt Nam trước năm 2000 đối với những trường hợp không có giấy tờ chứng minh quốc tịch.

8. Dự thảo Luật cần quy định trách nhiệm cụ thể của Bộ, ngành, chính quyền địa phương các cấp theo hướng xác định rõ ràng, cụ thể trong công tác quản lý nhà nước về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.

9. Về một số vấn đề cần cân nhắc, lựa chọn

a) Việc xét duyệt nhân sự trước khi cấp thị thực:



Phương án 1: cần xét duyệt nhân sự nhằm giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

Phương án 2: giao cho cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cấp thị thực cho người nước ngoài trên cơ sở đối chiếu với danh sách chưa cho nhập cảnh Việt Nam.

Dự thảo Luật nên chọn phương án 1, vì:

- Qua trao đổi của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh các nước thì hiện nay hầu hết cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự các nước đều phải hỏi ý kiến trong nước trước khi cấp thị thực cho người nước ngoài. Đây là cơ chế vận hành nội bộ, tùy vào tình hình thực tế của từng nước, nên trong Luật của các nước không quy định cụ thể.

- Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đang là mục tiêu mà các thế lực thù địch đang tập trung chống phá nhằm thay đổi chế độ chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu pháp luật của các nước phải có chọn lọc, không nên áp dụng rập khuôn.

- Xuất phát từ đặc điểm của nước ta hiện nay, Chính phủ đã quyết định giữ nguyên tắc người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam phải có cơ quan, tổ chức, cá nhân mời, bảo lãnh, chưa giải quyết cho người nước ngoài vào Việt Nam tự do, nhất là vào du lịch. Quy định việc cấp thị thực phải qua xét duyệt nhân sự chính là để đảm bảo nguyên tắc trên.

- Về đề nghị chuyển “danh sách đen” (danh sách các đối tượng chưa được Việt Nam cho nhập cảnh) ra nước ngoài để cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đối chiếu, cấp thị thực:

+ Đây là danh sách “Tuyệt mật” vì ngoài các đối tượng vi phạm pháp luật, danh sách còn có những nhân vật “nhạy cảm”, nếu lộ lọt sẽ ảnh hướng xấu đến chính trị, ngoại giao. Mặt khác, danh sách này không phải là danh sách “tĩnh”, Bộ Công an thường xuyên phải cập nhật, bổ sung, thanh loại đối tượng.

+ Việc xét duyệt nhân sự cho người nước ngoài nhập cảnh hiện nay, Bộ Công an không chỉ căn cứ vào “danh sách đen” mà còn phải đối chiếu với danh sách các đối tượng mà Bộ Công an cần biết trước khi nhập cảnh. Đây là những đối tượng không thuộc “danh sách đen” nhưng là đối tượng có liên quan hoặc nguy hiểm đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, chưa thể công khai trả lời chưa cho nhập cảnh.

b) Việc cấp thị thực tại cửa khẩu:

Phương án 1: đề nghị nên thu hẹp diện đối tượng được cấp thị thực tại cửa khẩu.

Phương án 2: đề nghị nên mở rộng diện đối tượng được cấp thị thực tại cửa khẩu.

Dự thảo Luật nên chọn phương án 2 vì: việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú tại Việt Nam là cần thiết và phù hợp với nhu cầu thực tế nhập cảnh của người nước ngoài vào Việt Nam. Bên cạnh đó, để tránh tình trạng chỉ đơn thuần làm dịch vụ thị thực, không quản lý người nước ngoài khi đã được nhập cảnh Việt Nam, dự thảo Luật cần quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức mời, bảo lãnh người nước ngoài nhằm ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi mời, bảo lãnh.

c) Việc chuyển đổi mục đích thị thực:

Phương án 1: đề nghị quy định thị thực không được chuyển đổi mục đích.

Phương án 2: đề nghị không nên quy định “cứng” mà cần quy định có tính linh hoạt và giao Chính phủ hướng dẫn cụ thể.

Dự thảo Luật nên chọn phương án 2 vì theo quy định của pháp luật hiện hành thì người nước ngoài được chuyển đổi mục đích nhập cảnh, nhưng trong thực tế nhiều trường hợp đã lợi dụng quy định này để tiến hành các hoạt động vi phạm pháp luật, trái với mục đích xin nhập cảnh, gây khó khăn cho công tác quản lý người nước ngoài của các cơ quan chức năng, làm phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, để đảm bảo tính linh hoạt, mềm dẻo và tính khả thi của Luật, trong dự thảo Luật nên quy định người nước ngoài không được chuyển đổi mục đích nhập cảnh, trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định.

d) Về thời hạn của thị thực:

Phương án 1: cần quy định thời hạn của thị thực đến 05 năm.

Phương án 2: giữ nguyên quy định về thời hạn thị thực như hiện nay có thời hạn không quá 12 tháng.

Dự thảo Luật nên chọn phương án 2 vì:

- Hiện nay, có một số nước quy định thời hạn thị thực tới 5 năm nhưng quy định thủ tục xin cấp thị thực rất chặt chẽ và khó khăn, coi thủ tục xin cấp thị thực là “hàng rào” nhằm ngăn chặn từ xa dòng di cư bất hợp pháp như phải qua phỏng vấn, lấy dấu vân tay, các loại giấy tờ chứng minh về nhà ở, tài chính, hôn nhân; thời gian giải quyết dài, có nước áp dụng hạn ngạch cấp thị thực từng năm đối với từng loại thị thực. Mặc dù vậy, các nước cấp thị thực theo dạng này đang gặp phải khó khăn trong việc giải quyết đối với số người cư trú trái phép…và phải chi ngân sách để đàm phán, đưa những người này trở về nước gốc, hiện nay đã có 16 nước ký với Việt Nam về Hiệp định nhận trở lại công dân Việt Nam cư trú trái phép, trong số này hầu hết là các nước đang áp dụng thị thực có thời hạn dài như Mỹ, Anh, Pháp, Úc, Canada, Đức, Nga, Nhật Bản…

- Dự thảo Luật quy định thị thực có thời hạn không quá 12 tháng là kế thừa Pháp lệnh năm 2000 và thực tiễn áp dụng những năm qua cho thấy quy định này là phù hợp. Tuy nhiên, dự thảo Luật nên nâng thời hạn thẻ tạm trú đến 05 năm. Như vậy, về bản chất, thị thực đã được kéo dài thời hạn đến 05 năm.



IV. DỰ BÁO TÁC ĐỘNG CỦA DỰ ÁN LUẬT

Là một đạo luật lớn, phạm vi điều chỉnh rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội; việc xây dựng, ban hành Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam sẽ có tác động trên các mặt sau:

1. Về chính trị, đối ngoại, pháp luật

Nhằm tăng cường quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện, tại Đại hội đại biểu toàn quốc từ lần thứ VI đến lần thứ X Đảng ta đã vạch ra đường lối đối ngoại: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng làm bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực trong cộng đồng quốc tế, phấn đầu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Luật nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam đã thể chế hoá các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm ổn định chính trị, phát triển bền vững về kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng và an ninh.

Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam được ban hành sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về xuất nhập cảnh theo chủ trương cải cách hành chính của Đảng và Nhà nước ta, thực hiện cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; phù hợp với Hiến pháp, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với những chế định khác của pháp luật hành chính, các đạo luật khác có liên quan như Bộ Luật hình sự, Bộ Luật tố tụng hình sự, Bộ Luật dân sự, Luật Quốc tịch Việt Nam, Luật Đầu tư...

Luật này được ban hành sẽ thay thế những văn bản quy phạm pháp luật về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú đối với người nước ngoài tại Việt Nam và những quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác không còn phù hợp.

Với các quy định mới, thể hiện rõ hơn chính sách mở cửa, tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng nhằm thu hút người nước ngoài vào đầu tư, thương mại, du lịch... đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế đất nước phục vụ công cuộc hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện của Đảng và Nhà nước. Luật đã kế thừa và phát triển những quy định còn phù hợp của pháp luật hiện hành về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam đã được thực tế kiểm nghiệm, đồng thời tiếp thu có chọn lọc pháp luật của một số nước trên thế giới. Luật được nghiên cứu xây dựng phù hợp với các pháp luật liên quan khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Các quy định của Luật đã thể hiện sự công khai, minh bạch, đơn giản về trình tự, thủ tục giải quyết nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.

2. Về kinh tế - xã hội

Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam được ban hành có tác động đến hoạt động của các ngành, địa phương có liên quan đến người nước ngoài. Vì vậy, đây sẽ là môi trường pháp lý ổn định để phát triển du lịch, kinh doanh, thương mại và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, góp phần đầy mạnh phát triển kinh tế - xã hội.

3. Về công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội

Luật này được ban hành sẽ có tác động tích cực trong việc bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật của người nước ngoài trong lĩnh vực xuất nhập cảnh.

4. Về công tác quản lý nhà nước về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam

Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam được ban hành sẽ tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về xuất nhập cảnh; nâng cao trách nhiệm của các bộ, ngành trong quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú đối với người nước ngoài; tạo cơ sở pháp lý cho cán bộ làm công tác quản lý xuất nhập cảnh, tránh tình trạng tùy tiện trong việc giải quyết thủ tục gây khó khăn cho cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc mời, bảo lãnh người nước ngoài.

5. Một số tác động khác cho việc tổ chức thực thi Luật

a) Về nhận thức:

Các quy định của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam giúp cho cá nhân, tổ chức, đặc biệt là những chủ thể làm công tác thi hành pháp luật về xuất nhập cảnh nhận thức đúng về vị trí, vai trò của mình trong lĩnh vực này. Luật được đăng tải công khai trên các trang thông tin điện tử của Chính phủ, của Bộ Công an và Cục Quản lý xuất nhập cảnh là một kênh tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về xuất nhập cảnh, góp phần tăng cường pháp chế trong lĩnh vực xuất nhập cảnh.

b) Tổ chức triển khai thực hiện Luật:

Sau khi Luật được thông qua, Nhà nước cần đầu tư kinh phí cho việc tổ chức thực hiện, cụ thể là:

- Tuyên truyền, phổ biến nội dung của Luật, tổ chức các đợt tập huấn, tập huấn chuyên sâu cho những người làm công tác quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú đối với người nước ngoài tại Việt Nam.

- Chi phí cho việc tổ chức thi hành pháp luật về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú đối với người nước ngoài tại Việt Nam bao gồm: các hoạt động của Chính phủ trong việc phân công trách nhiệm cho các cơ quan chức năng thuộc các Bộ, ngành thực hiện các quy định của Luật từ việc xây dựng cơ sở vật chất (trụ sở, nơi tiếp nhận, giải quyết các thủ tục cho người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú tại Việt Nam); trang bị phương tiện, trang thiết bị, ứng dụng khoa học kỹ thuật - công nghệ (xây dựng các hệ thống: cơ sở dữ liệu xuất nhập cảnh; hệ thống tiếp nhận, khai thác, xử lý, sử dụng thông tin về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài...); kiện toàn, củng cố, xây dựng lực lượng cán bộ làm công tác thi hành Luật của lực lượng quản lý xuất nhập cảnh từ Trung ương đến địa phương, của lực lượng kiểm soát xuất nhập cảnh tại các cửa khẩu.

- Ban hành, in ấn, cấp phát sổ sách, biểu mẫu, giấy tờ và các tài liệu phục vụ công tác thi hành Luật này.

- Chi phí phục vụ việc theo dõi, tổng kết, đánh giá tình hình thực thi luật hàng năm.



V. KIẾN NGHỊ

Dự án Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam sẽ có tác động nhiều mặt về chính trị, đối ngoại, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng. Việc ban hành Luật này sẽ khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong công tác quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, Bộ Công an kiến nghị Chính phủ, Quốc hội xem xét thông qua dự án Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam theo đúng Chương trình, kế hoạch xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khoá XIII (2011-2016).



Trên đây là nội dung Báo cáo đánh giá tác động của dự án Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam./.









Каталог: DuThao -> Lists -> DT TAILIEU COBAN -> Attachments
Attachments -> BỘ TƯ pháp số: 151 /bc-btp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Phần thứ nhất ĐÁnh giá TÌnh hình tổ chức thực hiện luật hợp tác xã NĂM 2003
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Danh mỤc LuẬt/NghỊ đỊnh thư cỦa các quỐc gia/khu vỰc đưỢc tham khẢo trong quá trình xây dỰng DỰ thẢo luật tài nguyên, môi trưỜng biỂn và hẢi đẢo
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> BỘ giao thông vận tải cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 1- tình hình gia nhập công ước quốc tế về an toàn – vệ sinh lao động
Attachments -> BÁo cáo tổng hợp kinh nghiệm nưỚc ngoài a. Nhận xét chung

tải về 82.86 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương