BÁo cáo kết quả thực hiện Kết luận số 80-kl/tw ngày 29/7/2010



tải về 76.2 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu11.08.2016
Kích76.2 Kb.
#17242


TỈNH ỦY QUẢNG NAM ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

*

Số 279-BC/TU Tam Kỳ, ngày 04 tháng 6 năm 2014



BÁO CÁO

Kết quả thực hiện Kết luận số 80-KL/TW ngày 29/7/2010

của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 07-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) trong tình hình mới

_____
Thực hiện Công văn số 6480-CV/BTCTW ngày 08/4/2014 của Ban Tổ chức Trung ương về báo cáo sơ kết thực hiện Kết luận số 80-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 07-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) trong tình hình mới, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam báo cáo kết quả triển khai thực hiện trên địa bàn tỉnh như sau:



A- TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN

I- Việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Kết luận số 80-KL/TW

Sau khi có Kết luận số 80-KL/TW của Ban Bí thư, Tỉnh ủy đã tổ chức hội nghị để triển khai cho cán bộ chủ chốt, đồng thời chỉ đạo các huyện, thành ủy và đảng ủy trực thuộc tổ chức quán triệt đến cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là cán bộ, đảng viên trong các doanh nghiệp triển khai thực hiện Kết luận số 80-KL/TW của Ban Bí thư (khóa X).

Để tăng cường hơn nữa công tác xây dựng Đảng trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước, Tỉnh ủy yêu cầu các huyện, thành ủy và Đảng ủy Khối các cơ quan, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp tập trung chỉ đạo, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các đảng bộ, chi bộ trong doanh nghiệp ngoài Nhà nước; tích cực xây dựng, phát triển tổ chức Đảng, làm tốt công tác phát triển đảng viên. Tiếp tục thực hiện việc chỉ đạo tăng cường kết nạp đảng viên trong doanh nghiệp và các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, dạy nghề để bổ sung cả về số lượng, chất lượng đảng viên cho các đơn vị ngoài khu vực Nhà nước.

Ngày 21/8/2013, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Đề án số 01-ĐA/TU về việc kiện toàn, sắp xếp lại tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhằm tạo sự chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng trong doanh nghiệp; tạo sự đồng bộ thống nhất với các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở, gắn kết với sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương nơi doanh nghiệp đang hoạt động, nhất là mối quan hệ phối hợp trong việc giải quyết và xử lý những vấn đề phức tạp phát sinh ở cơ sở, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên.

Bên cạnh đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Quyết định số 1501-QĐ/TU ngày 08/02/2014 về việc thành lập Ban Chỉ đạo phát triển Công đoàn khu vực ngoài Nhà nước. Theo đó, đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Dân vận Tỉnh ủy làm Trưởng ban, đồng chí Chủ tịch Liên đoàn lao động tỉnh làm phó ban trực, các đồng chí ở các ban đảng Tỉnh ủy làm thành viên. Đồng thời, chỉ đạo các huyện, thành ủy thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng tổ chức đảng và các đoàn thể trong các doanh nghiệp do đồng chí Phó Bí thư Thường trực làm Trưởng ban, đồng chí Trưởng ban Tổ chức và 01 đồng chí Phó Chủ tịch UBND huyện, thành phố làm phó ban, một số đồng chí lãnh đạo các cơ quan, ban, ngành có liên quan làm thành viên. Ban Chỉ đạo có trách nhiệm chỉ đạo việc xây dựng, củng cố và phát triển tổ chức đảng, các đoàn thể trong các loại hình doanh nghiệp; định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và nhân rộng các điển hình tiên tiến.

II- MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

1- Thực trạng các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước

Tính đến cuối năm 2013, toàn tỉnh có 4.076 doanh nghiệp ngoài Nhà nước đang hoạt động (bao gồm doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty cổ phần tư nhân - gọi tắt là doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), chiếm tỷ lệ 98,2% so với tổng số các doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn với tổng vốn đầu tư 79.396 tỷ đồng. Năm 2013, số lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp ngoài Nhà nước hơn 130 ngàn người. Mức nộp cho ngân sách Nhà nước đối với doanh nghiệp tư nhân là 0,60 tỷ đồng/DN và đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 6,65 tỷ đồng/DN. Thu nhập bình quân người lao động ở doanh nghiệp tư nhân đạt 2,86 triệu đồng/tháng; doanh nghiệp có vốn ĐTNN là 2,42 triệu đồng/tháng.

Nhìn chung, thời gian qua, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài Nhà nước có phần phát triển ổn định, theo đó đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho nguời lao động góp phần đáng kể vào việc phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế như các doanh nghiệp ngoài Nhà nước phát triển còn mang tính tự phát, chưa xây dựng được định hướng và kế hoạch hoạt động dài hạn; phần lớn có quy mô sản xuất, kinh doanh vừa và nhỏ; hiệu quả sản xuất, kinh doanh chưa cao.

2- Kết quả công tác xây dựng Đảng, các đoàn thể nhân dân trong doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước từ năm 2010 đến nay

2.1- Thực trạng công tác xây dựng Đảng:

a- Về tổ chức Đảng:

Trong những năm qua, theo tinh thần Chỉ thị số 07-CT/TW ngày 23/11/1996 của Bộ Chính trị (Khóa VIII) về tăng cường công tác xây dựng Đảng, các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Kết luận số 80-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 07-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) trong tình hình mới; Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã tập trung chỉ đạo các huyện, thành ủy và Đảng ủy Khối Doanh nghiệp tiếp tục củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp đã có tổ chức đảng. Đồng thời, tiến hành rà soát, nắm chắc số đảng viên đang làm việc ổn định trong các doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng tiến tới thành lập tổ chức đảng. Đối với những doanh nghiệp chưa có đảng viên, tiến hành phân công cấp ủy viên, đảng viên có kinh nghiệm, phối hợp với các đoàn thể trong doanh nghiệp phát hiện, bồi dưỡng, tạo nguồn kết nạp đảng viên, khi có đủ điều kiện thì thành lập tổ chức đảng. Tính đến ngày 30/4/2014, trên địa bàn tỉnh đã có 50 doanh nghiệp thành lập được tổ chức đảng với 771 đảng viên (tăng lên 19 tổ chức đảng và 172 đảng viên so với trước khi có Kết luận số 80-KL/TW). Trong đó, số tổ chức đảng trong Doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ có 31 đơn vị; doanh nghiệp vừa có 16 đơn vị và doanh nghiệp lớn có 03 đơn vị, cụ thể như sau:

- Doanh nghiệp tư nhân: 03 tổ chức đảng với 20 đảng viên.

- Công ty TNHH tư nhân có 06 tổ chức đảng với 36 đảng viên.

- Công ty cổ phần tư nhân có 29 tổ chức đảng với 454 đảng viên.

- Công ty cổ phần có vốn Nhà nước dưới 50%, gồm 12 tổ chức đảng với 261 đảng viên.



b- Về nâng cao chất lượng hoạt động của chi bộ, đảng bộ:

- Đối với tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp tư nhân:

Hiện nay trên toàn tỉnh có 38 tổ chức đảng trong các doanh nghiệp tư nhân (doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty hợp danh, công ty cổ phần tư nhân) với 510 đảng viên. Các tổ chức đảng trong doanh nghiệp tư nhân luôn duy trì tốt chế độ sinh hoạt định kỳ đảm bảo mục đích, yêu cầu, nội dung theo Chỉ thị số 10-CT/TW của Ban Bí thư và Hướng dẫn số 09-HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương.

Đa số đảng viên phát huy tốt tính tiền phong gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị. Qua kiểm tra đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng hằng năm cho thấy, nhiều tổ chức đảng trong các loại hình doanh nghiệp này phát huy được vai trò lãnh đạo, truyên truyền vận động làm cho cán bộ đảng viên và người lao động chấp hành đường lối, chủ trường của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Các cấp ủy đảng đều xây dựng quy chế làm việc về mối quan hệ công tác giữa cấp ủy với hội đồng quản trị và ban giám đốc doanh nghiệp.

Tuy nhiên, vai trò và chất lượng hoạt động của tổ chức đảng trong doanh nghiệp tư nhân vẫn còn những hạn chế nhất định, ở những nơi chủ doanh nghiệp là đảng viên (đã có từ trước) hoặc không phải là đảng viên nhưng có ý thức trách nhiệm xây dựng đảng thì hoạt động của tổ chức đảng, các đoàn thể quần chúng trong doanh nghiệp được thuận lợi, vai trò của tổ chức đảng được đề cao. Bên cạnh đó, những doanh nghiệp mà chủ doanh nghiệp và những người trong bộ máy quản lý của doanh nghiệp không phải là đảng viên thì nhìn chung tổ chức đảng ở đó hoạt động gặp khó khăn.

- Đối với tổ chức cơ sở đảng trong các công ty cổ phần có vốn Nhà nước dưới 50% cổ phần:

Hiện nay có 12 tổ chức cơ sở đảng với 261 đảng viên, đa số các tổ chức cơ sở đảng trong công ty cổ phần có vốn Nhà nước từ Doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang sau khi thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp. Khi mới chuyển đổi, tổ chức cơ sở đảng trong các công ty cổ phần có vốn Nhà nước còn lúng túng trong hoạt động, nhất là trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, sau một thời gian tiếp cận, các tổ chức Đảng đã cơ bản thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình (Quy định 100 và 140-QĐ/TW của Ban Bí thư), các cấp uỷ đều có quy chế làm việc và tập trung lãnh đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ như: Làm tốt công tác giáo dục tư tưởng, tích cực tuyên truyền, giáo dục đảng viên, người lao động tự giác chấp hành đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công việc thực hiện hiệu quả nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; lãnh đạo Ban Chấp hành công đoàn quan tâm, chăm lo tốt đời sống vật chất, tinh thần của người lao động, kịp thời trao đổi với chủ doanh nghiệp để giải quyết những vấn đề phát sinh giữa người lao động với chủ doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.

c- Công tác kết nạp đảng viên mới:

Công tác phát triển đảng được nhiều cấp ủy trong doanh nghiệp quan tâm và đạt một số kết quả tích cực. Năm 2013, số đảng viên mới kết nạp là công nhân lao động trong các thành phần kinh tế là 120 đảng viên, giảm 7,7% so với năm 2012 (do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế nên nhiều doanh nghiệp tạm dừng hoạt động hoặc giải thể, phá sản). Riêng đối với Đảng ủy Khối Doanh nghiệp trong năm 2013 và 04 tháng đầu năm 2014 đã kết nạp được 185 đảng viên mới, hầu hết đảng viên mới được kết nạp phát huy vai trò, vị trí và tính tiền phong gương mẫu, đi đầu các mặt công tác trong doanh nghiệp, một số đã tham gia vào công tác quản lý, điều hành doanh nghiệp. Tuy nhiên, công tác kết nạp đảng viên trong các doanh nghiệp và các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, dạy nghề để bổ sung về số lượng, chất lượng đảng viên cho các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu so với thực tế (năm 2013 có 82 đảng viên là sinh viên, học sinh so với năm 2012 giảm 26,1% ).



2- Thực trạng công tác xây dựng và phát triển tổ chức công đoàn

Thực hiện Kết luận số 80-KL/TW của Ban Bí thư, các cấp ủy đảng đã tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc thành lập và kịp thời củng cố, kiện toàn các tổ chức công đoàn nhằm phát huy tinh thần làm chủ tập thể của người lao động, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, chế độ chính sách đối với người lao động. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Thông tri số 09-TT/TU ngày 04/4/2002 về lãnh đạo xây dựng và phát triển tổ chức công đoàn ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, Quyết định số 1501-QĐ/TU ngày 08/02/2014 về việc kiện toàn Ban Chỉ đạo phát triển Công đoàn khu vực ngoài Nhà nước và chỉ đạo Liên đoàn Lao động thành lập Công đoàn các khu công nghiệp.

Tính đến 30/4/2014, toàn tỉnh đã vận động thành lập được 73 tổ chức công đoàn với 18.576 đoàn viên. Sau khi thành lập, được sự hướng dẫn của công đoàn cấp trên, tổ chức công đoàn tại các doanh nghiệp ngoài Nhà nước đã xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động đúng chức năng; đặc biệt là thực hiện 04 nội dung trong Thông tri số 02-TT-TLĐ của Tổng Liên đoàn Việt Nam về xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh. Nhiều công đoàn cơ sở đã thực hiện được chức năng đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; đồng thời thực hiện tốt các hoạt động xã hội từ thiện, chăm lo đời sống tinh thần, vật chất cho người lao động nhân các ngày lễ, tết trong năm…

Nhìn chung, trong các năm qua, chất lượng hoạt động của công đoàn cơ sở ở các doanh nghiệp ngoài Nhà nước đã có nhiều chuyển biến tính cực, công tác xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh đã được quan tâm; hằng năm có trên 40% công đoàn cơ sở ở các doanh nghiệp ngoài Nhà nước đạt vững mạnh. Tuy nhiên, việc xây dựng và thành lập tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp còn chậm và có nhiều khó khăn do cán bộ kiêm nhiệm, thiếu kỹ năng tuyên truyền, vận động; thời gian dành cho hoạt động công đoàn hạn hẹp, kinh phí hoạt động hạn chế; việc xây dựng, củng cố hoàn thiện mối quan hệ lao động hài hòa trong doanh nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra; một số chủ doanh nghiệp còn vi phạm các quy định về trả lương, nợ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế nhưng tổ chức công đoàn chưa phát huy vai trò là tổ chức đại điện bảo vệ những lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động; công tác thanh tra, xử lý vi phạm của ngành chức năng còn buông lỏng, chưa đủ mạnh…



3- Thực trạng công tác xây dựng và phát triển tổ chức Đoàn thanh niên

Tính đến nay, toàn tỉnh đã thành lập được 38 tổ chức cơ sở Đoàn tại các doanh nghiệp ngoài Nhà nước với tổng số 2.665 đoàn viên. Thời gian qua, tuy tổ chức Đoàn thanh niên hoạt động trong điều kiện không có kinh phí, nhưng được cấp uỷ và lãnh đạo doanh nghiệp quan tâm xây dựng, củng cố nên tổ chức Đoàn đạt được những kết quả bước đầu trên các mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức, tạo nên khí thế thi đua sôi nổi trong đoàn viên thanh niên; thể hiện được tính xung kích trong sản xuất kinh doanh và hoạt động tình nguyện. Tuy số lượng tổ chức đoàn còn ít nhưng hoạt động của Đoàn cũng đạt nhiều kết quả mang ý nghĩa rất lớn như: đi bộ quyên góp vì học sinh nghèo Quảng Nam; xây dựng nhà tình nghĩa; hỗ trợ trẻ em nghèo... các hoạt động trên phần nào đã phản ánh được tinh thần đoàn kết, sáng tạo, cộng đồng trách nhiệm của mỗi tổ chức Đoàn, mỗi cán bộ, đoàn viên trong các doanh nghiệp.

Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tế hiện nay việc xây dựng và phát triển tổ chức đoàn thanh niên trong các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn. Đa số các doanh nghiệp ngoài Nhà nước trên địa bàn tỉnh có quy mô nhỏ, lao động ít, làm việc theo ca, mùa vụ; các chủ doanh nghiệp không quan tâm đến việc thành lập tổ chức đoàn; nhiều doanh nghiệp chưa thành lập tổ chức đảng vì vậy việc xây dựng tổ chức Đoàn không được thuận lợi. Ngoài ra, các hoạt động của Đoàn trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước thường tổ chức ngoài giờ nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc vận động đoàn viên tham gia. Nhiều nơi tuy đã có tổ chức Đoàn nhưng lúng túng trong hoạt động, chất lượng hoạt động của cơ sở Đoàn chưa cao, chưa thật sự chủ động, còn trông chờ vào sự chỉ đạo của cấp trên; các phong trào hành động cách mạng của Đoàn tuy đạt được những kết quả đáng kể, nhưng thiếu thường xuyên, liên tục, chưa phát huy hết tiềm năng, trí tuệ của đoàn viên thanh niên; việc phát hiện mô hình, nhân tố mới còn nhiều hạn chế.

III- NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CHUNG

1- Về ưu điểm

- Sau khi có Chỉ thị số 07-CT/TW ngày 23/11/1996 của Bộ Chính trị (Khóa VIII) về tăng cường công tác xây dựng Đảng, các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Kết luận số 80-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 07-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) trong tình hình mới; các cấp ủy đảng, đảng ủy trực thuộc, các ngành liên quan đã chú trọng đẩy mạnh công tác xây dựng, phát triển và củng cố tổ chức đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước.

- Luật Doanh nghiệp ra đời cùng với các cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, thu hút đầu tư của Trung ương, của tỉnh nên đã góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài Nhà nước phát triển, thu hút được lực lượng lao động lớn vào làm việc tại khu vực này. Bên cạnh đó, thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục về mục đích và ý nghĩa của việc thành lập tổ chức đảng, đoàn thể, một số chủ doanh nghiệp đã ủng hộ chủ trương thành lập và tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức đảng, đoàn thể ở đơn vị hoạt động đạt hiệu quả.

2- Hạn chế, khuyết điểm

- Công tác vận động, thuyết phục các chủ doanh nghiệp trong việc hình thành tổ chức đảng, các tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp ngoài Nhà nước còn nhiều hạn chế, chưa được thực hiện thường xuyên và tích cực. Vẫn còn nhiều chủ doanh nghiệp chưa nhận thức rõ vai trò, vị trí của tổ chức đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp nên chưa ủng hộ, thậm chí gây khó khăn cho việc thành lập tổ chức đảng và các đoàn thể trong doanh nghiệp mình. Một bộ phận công nhân, người lao động chưa giác ngộ về chính trị hoặc chỉ nghĩ đến lợi ích trước mắt là làm việc để có lương, có thưởng; mặt khác, còn tư tưởng mình là người làm thuê, sợ mất việc nên không thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham gia các hoạt động đoàn thể.

- Số lượng tổ chức đảng, các đoàn thể và số lượng đảng viên, đoàn viên, hội viên trong các doanh nghiệp còn thấp; vai trò của tổ chức đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp còn mờ nhạt, nội dung, phương thức hoạt động còn lúng túng; thực hiện mối quan hệ giữa cấp uỷ với hội đồng quản trị, giữa bí thư với chủ tịch HĐQT; tham gia giám sát việc thực hiện chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, Điều lệ hoạt động của công ty, nguyên tắc sinh hoạt đảng còn hạn chế.
3- Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm nêu trên

- Công tác vận động, thuyết phục việc thành lập và phát triển tổ chức đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước là vấn đề khó. Các doanh nghiệp ngoài Nhà nước chủ yếu là những doanh nghiệp nhỏ, nhiều doanh nghiệp chưa đủ điều kiện thành lập tổ chức đảng, đoàn thể. Một số chủ doanh nghiệp không đủ tiêu chuẩn chính trị để được kết nạp Đảng nên thiếu quan tâm hoặc cản trở việc thành lập hoặc không tạo điều kiện cho tổ chức đảng, các đoàn thể hoạt động, chỉ chú trọng nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của đơn vị.



- Một số cấp ủy chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc yêu cầu, nội dung Chỉ thị số 07-CT/TW của Bộ Chính trị và Kết luận số 80-KL/TW của Ban Bí thư, các văn bản của Tỉnh ủy nên việc tuyên truyền, vận động chưa sâu rộng, thiếu tập trung chỉ đạo và chưa có những biện pháp cụ thể để thực hiện. Việc tổng kết rút kinh nghiệm kết quả thực hiện chưa được quan tâm đúng mức. Cấp ủy và cán bộ làm công tác đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp hầu hết kiêm nhiệm. Điều kiện, phương tiện làm việc phục vụ cho hoạt động của tổ chức đảng, đoàn thể còn nhiều khó khăn; nhiều nơi không có địa điểm, thời gian để sinh hoạt và kinh phí để hoạt động.

IV- MỘT SỐ KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ THỰC TIỄN

- Để làm tốt công tác xây dựng và phát triển tổ chức đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước, trước hết cần chú trọng việc tuyên truyền, tạo sự thống nhất nhận thức cho các cấp ủy về vai trò, sự cần thiết thành lập tổ chức đảng trong các doanh nghiệp này. Phải tăng cường công tác vận động, thuyết phục để chủ doanh nghiệp thấy được khi thành lập các tổ chức đảng, các đoàn thể trong doanh nghiệp sẽ góp phần thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh; phát triển doanh nghiệp vững chắc, đúng pháp luật.

- Các cấp ủy phải thường xuyên chỉ đạo việc kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của ban chỉ đạo xây dựng tổ chức đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Các tổ chức đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp phải bám sát hoạt động của đơn vị, chủ động đề ra nội dung, phương thức hoạt động thiết thực gắn với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để thu hút sự quan tâm, ủng hộ, tạo điều kiện của chủ doanh nghiệp.

- Muốn giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng ở các doanh nghiệp thì phải có văn bản pháp lý quy định để chủ doanh nghiệp thừa nhận, chấp nhận hoạt động của tổ chức đảng và các đoàn thể trong doanh nghiệp; do đó cần phải sửa đổi, bổ sung pháp luật về lao động cho phù hợp với thực tiễn như Luật Đầu tư, Bộ Luật Lao động, Luật Công đoàn, Luật Doanh nghiệp, Luật Thanh niên, các văn bản dưới luật có liên quan trực tiếp đến quyền lợi người lao động, việc thành lập tổ chức đảng và các đoàn thể tại doanh nghiệp.

- Tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên cấp trên phải hướng dẫn, tạo điều kiện cho tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên ở doanh nghiệp về nội dung, phương pháp hoạt động.
V- PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ THỜI GIAN ĐẾN

Để nâng cao hiệu quả công tác xây dựng tổ chức đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước, các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp và các ngành cần tập trung chỉ đạo thực hiện một số giải pháp sau:

- Tiếp tục quán triệt sâu sắc Chỉ thị số 07-CT/TW ngày 23/11/1996 của Bộ Chính trị (Khóa VIII) về tăng cường công tác xây dựng Đảng, các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Kết luận số 80-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 07-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) trong tình hình mới nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức của các cấp ủy, đảng viên và chủ doanh nghiệp về sự cần thiết khách quan, tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng và phát triển tổ chức Đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước.

- Đối với những doanh nghiệp đã có tổ chức đảng, đoàn thể cần tập trung kiện toàn củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động để từng bước làm cho các đảng bộ, chi bộ thực sự là hạt nhân chính trị trong doanh nghiệp. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra của cấp ủy cấp trên trong việc xây dựng quy chế làm việc của cấp ủy, quy chế phối hợp của cấp ủy với lãnh đạo doanh nghiệp, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp. Đổi mới nội dung và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ theo hướng thiết thực, phù hợp với điều kiện đặc thù của doanh nghiệp.

- Đối với những doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng, đoàn thể cần phải tăng cường công tác khảo sát, tiếp cận, thuyết phục, vận động để chủ doanh nghiệp đồng tình, ủng hộ thành lập tổ chức đảng, đoàn thể, trước hết là những doanh nghiệp nhiều lao động và sản xuất kinh doanh ổn định. Đồng thời, rà soát và có kế hoạch chuyển sinh hoạt đảng, công đoàn, đoàn thanh niên cho những đoàn viên làm việc ở doanh nghiệp nhưng sinh hoạt đảng, công đoàn, đoàn thanh niên ở nơi khác về tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên của doanh nghiệp ngay sau khi thành lập.

- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của tổ chức đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước; định kỳ hàng năm tổ chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và nhân rộng các điển hình tiên tiến trong hoạt động đảng, công đoàn, đoàn thanh niên trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước.

- Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước; nghiên cứu xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách cho đội ngũ cán bộ làm công tác đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp này.



- Tăng cường công tác kết nạp đảng viên ở các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, trường dạy nghề đóng trên địa bàn vì một bộ phận sinh viên này sau khi ra trường sẽ là nguồn cán bộ, công nhân làm việc trong các công ty tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
V- ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ

- Để mở rộng phát triển tổ chức đảng và đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước, đề nghị Trung ương sớm có quy định cụ thể về kết nạp chủ doanh nghiệp vào Đảng (Sau khi tiến hành sơ kết việc thí điểm Hướng dẫn số 17-HD/BTCTW về việc thực hiện thí điểm việc kết nạp những người là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng).

- Trung ương có quy định, hướng dẫn cụ thể về quy mô doanh nghiệp như thế nào (vốn, lao động) khi có tổ chức đảng thì tổ chức đảng đó thuộc cấp nào quản lý (thuộc xã, phường, thị trấn; thuộc huyện, thành ủy, Đảng ủy Khối doanh nghiệp tỉnh).

- Cần có quy định thống nhất trong việc xây dựng, củng cố bộ máy đồng bộ từ tổ chức đảng với các tổ chức đoàn thể nhân dân, không để tình trạng nhiều tổ chức đoàn thanh niên và công đoàn cơ sở trực thuộc tổng công ty, ngành, địa phương... nhưng tổ chức đảng lại trực thuộc Đảng ủy Khối Doanh nghiệp tỉnh, gây nhiều khó khăn, bất cập trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng. Đồng thời, nghiên cứu sắp xếp tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên trong các khu công nghiệp, khu kinh tế... đồng bộ với tổ chức đảng để bảo đảm sự thống nhất trong lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp.

- Có cơ chế khuyến khích, động viên các chủ doanh nghiệp tự nguyện đứng vào hàng ngũ của đảng, để từ đó phát huy trách nhiệm cùng với các cấp ủy, các tổ chức đoàn thể nhân dân thành lập các tổ chức đảng, đoàn thể tại doanh nghiệp mình (khi đủ điều kiện thành lập).

- Cần nghiên cứu lại mô hình tổ chức công đoàn để gắn với sự lãnh đạo trực tiếp của cấp uỷ đảng cùng cấp (kể cả các loại hình hành chính, sự nghiệp…). Hiện nay, mô hình tổ chức của công đoàn ở Quảng Nam có nhiều bất hợp lý, không gắn với sự lãnh đạo trực tiếp của cấp uỷ cùng cấp. Chẳng hạn: Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp có Đoàn Khối doanh nghiệp, nhưng không có Công đoàn Khối doanh nghiệp, ngược lại LĐLĐ tỉnh có Công đoàn ngoài quốc doanh, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của LĐLĐ. Do đó, đề nghị Ban Tổ chức Trung ương, Tổng LĐLĐVN cần nghiên cứu lại mô hình tổ chức của công đoàn các cấp để gắn liền với sự lãnh đạo trực tiếp của cấp uỷ cùng cấp.

- Trung ương cần phải đưa ra khuôn khổ pháp lý để hình thành các tổ chức chính trị - xã hội tại doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các nghị định hướng dẫn thi hành Bộ Luật Lao động, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, trong đó cần quy định rõ về việc thành lập và hoạt động của tổ chức đảng, các đoàn thể trong doanh nghiệp; việc doanh nghiệp tạo điều kiện (thời gian, kinh phí, cơ sở vật chất) cho tổ chức đảng và các đoàn thể hoạt động.

- Đề nghị Trung ương bổ sung biên chế cho các huyện, thành uỷ để có cán bộ chuyên trách theo dõi công tác đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp; chế độ đào tạo, bồi dưỡng đối với cấp uỷ và người lãnh đạo doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước.

- Hướng dẫn việc chuyển giao tổ chức cơ sở đảng theo đúng quy định Điều lệ Đảng và Hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương. Tổ chức hội thảo, tham quan những doanh nghiệp ngoài Nhà nước điển hình trong phát triển tốt tổ chức đảng, đoàn thể để học tập, rút kinh nghiệm nhân rộng mô hình.

Nơi nhận: T/M BAN THƯỜNG VỤ

- Văn phòng Trung ương Đảng (ĐN, HN), ỦY VIÊN BAN THƯỜNG VỤ

- Ban Tổ chức Trung ương,

- Các huyện, thành ủy, đảng ủy trực thuộc,

- LĐLĐ tỉnh, Tỉnh đoàn, (đã ký)

- Lưu Văn phòng Tỉnh ủy.



Trần Xuân Thọ



tải về 76.2 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương