Bán nguyệt san – Số 208 – Chúa nhật 27. 10. 2013



tải về 499.54 Kb.
trang1/4
Chuyển đổi dữ liệu13.08.2016
Kích499.54 Kb.
#17748
  1   2   3   4



Bán nguyệt san – Số 208 – Chúa nhật 27.10.2013


Giáo sĩ: ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI VÀ CHO LOÀI NGƯỜI (x. Dt, 5.1)

www.conggiaovietnam.net giaosivietnam@gmail.com




MỤC LỤC
Hoạt Ðộng Của Nhân Loại Trong Vũ Trụ ………………………………………………… Vatican 2

CUỐI CÙNG, PHÁN QUYẾT VẪN LÀ CHÚA ………………….. Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD.

NHẬN ĐỊNH THIÊNG LIÊNG VÀ QUẢN TRỊ TRONG HỘI THÁNH …………………………………………………………………….. Lm. Giuse Nguyễn Công Đoan, SJ

ĐỌC CUỐN SÁCH : FAIRE BOUGER L’EGLISE CATHOLIQUE CỦA CHA JOSEPH MOINGT (DÒNG TÊN) ................................................................................................. Gs. Trần Văn Toàn 

YÊU THẬT – MẤY AI? ............................................................................................. Mẩu Bút Chì

SỐNG SỰ THẬT NÂNG CAO PHẨM GIÁ ...................................................................... Cát Minh

ĐƯỢC SAI ĐI ............................................................................................ Lm. Vĩnh Sang, DCCT

ĐỐI THOẠI NĂM ĐỨC TIN - THIÊN CHÚA CÔNG BẰNG NHÂN TỪ VÀ HÌNH PHẠT HỎA NGỤC - VẤN ĐỀ 14  ................................................................................. Lm. Đan Vinh, HHTM

Tôi là nhà trí thức sao? ....................................................................... Lm. Minh Anh chuyển ngữ

TÔNG HIỆU ......................................................................................... Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ

DỊ ỨNG THỰC PHẨM ...................................................................... Bác sĩ Nguyễn Ý Đức, MD.

LOAN TIN MỪNG CHO DÒNG HỌ - Chia sẻ 01 đến 06 Lm TRĂNG THẬP TỰ VÕ TÁ KHÁNH

Hoạt Ðộng Của Nhân Loại Trong Vũ Trụ

 Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II

 

Hiến Chế Mục Vụ

Về Giáo Hội

Trong Thế Giới Ngày Nay

Gaudium Et Spes

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia



Phần Thứ Nhất

Giáo Hội Và Thiên Chức Con Người

Chương III

Hoạt Ðộng Của Nhân Loại Trong Vũ Trụ 36*

 

33. Ðặt vấn đề. Con người đã luôn cố gắng phát triển thêm mãi đời sống của mình bằng việc làm và tài năng. Ngày nay, nhất là với sự trợ giúp của khoa học và kỹ thuật con người đã và còn đang không ngừng nới rộng sự thống trị của mình gần như trên tất cả thiên nhiên, và đặc biệt nhờ sự gia tăng đủ loại phương tiện trao đổi giữa các quốc gia, gia đình nhân loại dần dần ý thức về mình và hợp thành gần như một cộng đoàn duy nhất trong vũ trụ. Do đó, ngày nay con người đã dùng sức cần lao tự cung ứng nhiều phẩm vật mà xưa kia họ mong đợi trước nhất nơi các quyền lực thần linh.

Trước nỗ lực lớn lao đang lan rộng tới tất cả nhân loại này, nhiều câu hỏi đang được con người nêu lên. Ðâu là ý nghĩa và giá trị của hoạt động cần lao ấy? Phải xử dụng tất cả các sự ấy ra sao? Ðâu là mục đích của những cố gắng cá nhân cũng như tập thể? Dầu Giáo Hội là quản thủ kho tàng lời Chúa để từ đó rút ra những nguyên tắc luân lý và tôn giáo, nhưng không phải lúc nào Giáo Hội cũng có ngay câu trả lời cho mỗi một vấn đề. Tuy nhiên bao giờ Giáo Hội cũng ao ước nối kết ánh sáng mạc khải với sự khôn khéo của mọi người để soi dẫn con đường mà nhân loại vừa bước chân vào 37*.

34. Giá trị của hoạt động nhân loại. Ðối với các tín hữu, chắc chắn hoạt động cá nhân cũng như tập thể của nhân loại, hoặc nỗ lực vĩ đại của con người vất vả qua các thế kỷ nhằm cải thiện hoàn cảnh sinh sống, tự nó vốn phù hợp với ý định của Thiên Chúa. Thực vậy, được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, con người đã nhận mệnh lệnh chinh phục trái đất cùng tất cả những gì chứa đựng trong đó, cai quản vũ trụ trong công bình và thánh thiện 1 và khi nhìn nhận Thiên Chúa là Ðấng tạo dựng mọi loài, họ qui hướng về Người chính bản thân mình cũng như muôn vật: như thế, khi con người chinh phục tất cả thì danh Chúa được tôn vinh khắp địa cầu 2. 38*

Những điều nhận định trên đây cũng ứng dụng được nơi những công việc hoàn toàn thường nhật. Thực vậy trong khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, tất cả những người nam cũng như nữ hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu đều có lý để tin rằng nhờ lao công của mình, họ tiếp nối công trình của Ðấng Tạo Hóa, phụng sự anh em, đóng góp công lao mình vào việc hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử 3.

Người Kitô hữu không những không coi các công trình do con người dùng tài năng và sức lực riêng để thực hiện là chống đối quyền năng của Thiên Chúa, không coi thụ tạo có lý trí như một địch thủ của Tạo Hóa, mà lại xác tín rằng các thắng lợi của nhân loại là dấu hiệu biểu dương Thiên Chúa cao cả và là kết quả của ý định khôn lường của Ngài. Tuy nhiên, quyền lực con người càng gia tăng, trách nhiệm cá nhân hay tập thể lại càng nới rộng. Do đó, chúng ta thấy sứ điệp Kitô giáo không làm cho con người tránh né khỏi công cuộc xây dựng thế giới hoặc khiến họ không còn thiết tha đến lợi ích của đồng loại, nhưng trái lại bổn phận thực hiện những điều ấy còn thúc bách họ hơn nữa 4.

35. Trật tự hoạt động con người. Hoạt động của con người phát xuất từ con người nên qui hướng về con người. Thật vậy, khi làm việc con người không những biến đổi sự vật và xã hội mà còn cải thiện chính mình. Bởi vì khi làm việc con người học biết được nhiều điều, phát triển tài năng cũng như thoát ra và vượt khỏi chính mình. Nếu được hiểu cho đúng thì sự tăng triển này đáng giá hơn mọi của cải có thể thu tích được. Giá trị con người hệ tại ở "cái mình là" hơn hệ tại ở "cái mình có" 5. Cũng vậy, tất cả cái gì con người làm để đạt tới một mức độ công bình cao hơn, một tình huynh đệ rộng lớn hơn và một trật tự nhân đạo hơn trong các tương quan xã hội, đều quí trọng hơn các tiến bộ kỹ thuật, bởi vì, các tiến bộ ấy tuy có thể cung cấp chất liệu cho việc thăng tiến con người, nhưng tự chúng mà thôi không thể thực hiện được công cuộc thăng tiến ấy.

Vậy nên, đây là tiêu chuẩn hoạt động của con người: mọi hoạt động của con người phải phù hợp với lợi ích đích thực của nhân loại theo như ý định và ý muốn của Thiên Chúa, lại phải giúp con người, cá nhân cũng như tập thể, trau dồi và thực hiện ơn gọi toàn diện của mình.



36. Sự độc lập đúng mức của các thực tại trần thế. Tuy nhiên, nhiều người đương thời dường như e ngại rằng sự liên kết khá chặt chẽ giữa hoạt động của con người và tôn giáo sẽ làm ngăn trở sự độc lập của con người, của xã hội hoặc của khoa học 39*.

Nếu sự độc lập của các thực tại trần thế có nghĩa là các tạo vật và các xã hội đều có những định luật và những giá trị riêng mà con người phải khám phá dần dần, xử dụng và điều hòa, thì đòi hỏi một sự độc lập như thế là một việc hoàn toàn chính đáng: đó là điều không những người đương thời đòi hỏi mà còn phù hợp với ý muốn của Tạo Hóa. Thực vậy, chính vì được tạo dựng mà mọi vật đều có sự vững chãi, chân thực và tốt lành cùng những định luật và trật tự riêng. Con người phải tôn trọng tất cả những điều ấy, phải nhìn nhận các phương pháp cá biệt của mỗi khoa học và kỹ thuật. Bởi vậy, việc khảo sát có phương pháp trong mọi ngành, nếu tiến hành một cách khoa học thực sự và theo các tiêu chuẩn luân lý, sẽ không bao giờ thực sự trái nghịch với đức tin, vì các thực tại trần thế và các thực tại đức tin đều bởi một Thiên Chúa mà ra 6. Hơn nữa, những ai kiên nhẫn và khiêm tốn cố gắng nghiên cứu sâu xa những bí ẩn của sự vật, mặc dù không ý thức, nhưng vẫn được bàn tay Chúa hướng dẫn, vì Ngài là Ðấng bảo trì muôn loài và khiến chúng hiện hữu theo bản tính riêng của mỗi loài. Do đó đôi khi chúng ta có thể phàn nàn một số tâm trạng cả nơi các Kitô hữu, không hiểu rõ sự độc lập hợp lý của khoa học. Những tâm trạng này gây nên nhiều cuộc tranh luận và bất đồng khiến nhiều người nghĩ rằng đức tin và khoa học đối nghịch nhau 7. 40*

Nhưng, nếu "sự độc lập của thực tại trần thế" có nghĩa là: các tạo vật không lệ thuộc Thiên Chúa và con người có thể xử dụng chúng mà không cần quy hướng về Ðấng Tạo Hóa thì không một ai nhìn nhận Thiên Chúa lại không thấy rằng lập trường đó hết sức sai lầm. Thực vậy, không có Tạo Hóa, tạo vật đều tiêu tan. Ngoài ra mọi tín hữu, dù thuộc tôn giáo nào đi nữa, cũng luôn nghe tiếng Thiên Chúa và thấy Ngài hiển hiện qua tiếng nói của tạo vật. Lại nữa, quên mất Thiên Chúa, mọi tạo vật đều trở nên mờ tối.

37. Tội lỗi làm hư hỏng hoạt động của nhân loại. Thánh Kinh cũng như kinh nghiệm nhiều thời đại dạy cho gia đình nhân loại biết rằng: tiến bộ tuy là một lợi ích lớn lao của con người, nhưng cũng đem theo một cám dỗ mãnh liệt. Thực vậy, khi bậc thang giá trị bị đảo lộn, khi ác và thiện lẫn lộn, thì cá nhân cũng như tập thể chỉ xét quyền lợi của mình chứ không để ý đến quyền lợi kẻ khác. Do đó, thế giới chưa phải là nơi có tình huynh đệ thật, và sự gia tăng quyền lực của con người lại đe dọa hủy diệt chính nhân loại.

Một cuộc chiến cam go chống lại quyền lực bóng tối tiếp diễn trong suốt lịch sử nhân loại, khởi đầu từ khi thế giới khai nguyên và sẽ kéo dài đến ngày cuối cùng như lời Chúa phán 8. Dấn thân vào cuộc chiến này, con người phải luôn luôn chiến đấu để gắn bó với sự thiện và chỉ tìm được sự thống nhất trong chính mình 41* sau khi hết sức cố gắng với sự trợ giúp của ơn Chúa.

Bởi vậy, Giáo Hội Chúa Kitô, tin tưởng vào ý định của Tạo Hóa, vẫn nhìn nhận rằng tiến bộ của nhân loại có thể phục vụ hạnh phúc chân chính của con người. Nhưng Giáo Hội không thể không lặp lại lời sau đây của Thánh Phaolô: "Ðừng theo thói thế trần này" (Rm 12,2) nghĩa là đừng buông mình ham chuộng hư danh và gian xảo khiến hoạt động con người vốn qui hướng về phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người, lại biến thành phương tiện phạm tội.

Vậy, nếu có ai hỏi phải làm gì để vượt qua tình trạng khốn khổ ấy 42*, người Kitô hữu sẽ tuyên xưng rằng: mọi hoạt động của con người hàng ngày đang lâm nguy vì kiêu ngạo và lòng vị kỷ thái quá, cần được thanh tẩy và hoàn thiện nhờ thập giá và sự sống lại của Chúa Kitô. Bởi vì đã được Chúa Kitô cứu chuộc và được biến đổi thành tạo vật mới trong Chúa Thánh Thần, nên con người có thể và phải yêu mến chính các tạo vật do Thiên Chúa dựng nên. Vì nhận được tạo vật do Chúa ban, nên con người coi chúng như xuất phát từ tay Chúa và kính trọng chúng. Ðang khi cảm tạ Thiên Chúa là Ðấng Ban Ơn vì các tạo vật ấy cũng như đang khi xử dụng và thụ hưởng chúng trong tinh thần khó nghèo và tự do, con người thực sự thi hành quyền làm chủ thế giới, như một kẻ không có gì hết nhưng lại sở hữu tất cả 9. "Vì mọi sự đều thuộc về anh em còn anh em thuộc về Chúa Kitô và Chúa Kitô thuộc về Thiên Chúa" (1Cor 3,22-23).



38. Kiện toàn hoạt động nhân loại trong mầu nhiệm phục sinh. Ngôi Lời Thiên Chúa, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, đã làm người và đến sống ở trên trái đất con người 10. Là con người hoàn hảo, Người đã đi vào lịch sử thế giới, đảm nhậm và thâu kết lịch sử ấy nơi Người 11. Chính Người mạc khải cho chúng ta "Thiên Chúa là tình thương" (1Gio 4,8) và dạy cho chúng ta biết rằng: luật căn bản để kiện toàn con người, và do đó để cải biến thế giới, là điều răn mới về tình yêu. Vậy, đối với những ai tin vào tình yêu Thiên Chúa, Người cho họ xác tín rằng con đường tình yêu mở rộng cho tất cả mọi người, và nỗ lực thiết lập tình huynh đệ đại đồng không bao giờ luống công. Người cũng nhắc nhở cho biết đức bác ái ấy không phải chỉ được thực hiện trong những việc vĩ đại, nhưng trước hết trong những hoàn cảnh thông thường của cuộc sống. Chịu chết cho tất cả chúng ta là những người tội lỗi 12, Người lấy gương sáng dạy chúng ta vác thập giá mà xác thịt và thế gian đặt nặng trên vai những kẻ mưu tìm hòa bình và công lý. Ðức Kitô được tôn làm Chúa khi sống lại và được lãnh nhận toàn quyền thống trị trên trời dưới đất 13; từ nay Người hoạt động trong lòng con người nhờ quyền năng Thánh Thần của Người không những bằng cách khơi dậy những khát vọng đời sau, nhưng còn từ những khát vọng đó cổ võ, tinh luyện và củng cố những ước vọng quảng đại thúc đẩy gia đình nhân loại biến cải cuộc sống của mình trở nên nhân đạo hơn và qui phục trái đất về cùng mục đích ấy. Quả thật ơn Chúa Thánh Thần tác động mỗi người một khác: có những người được gọi làm chứng nhân tỏ tường cho sự mong đợi quê trời bảo tồn chứng tá sống động trong gia đình nhân loại, một số khác được gọi để hiến thân phục vụ con người trong phạm vi thế trần, dùng sự phục vụ ấy chuẩn bị chất liệu cho nước trời. Người giải thoát tất cả, để sau khi từ bỏ lòng vị kỷ và tập trung mọi năng lực trần thế cho cuộc sống con người, tất cả hướng về ngày mai, ngày mà nhân loại trở nên của lễ đẹp lòng Thiên Chúa 14.

Chúa đã để lại cho những kẻ thuộc về Người bảo chứng cậy trông và lương thực đi đường trong bí tích đức tin; trong bí tích ấy, những yếu tố thế trần, kết quả của lao công con người, được biến thành Mình và Máu vinh hiển, nên bữa ăn hiệp thông huynh đệ và nếm hưởng trước bữa tiệc trên trời.



39. Trời mới và đất mới 43*. Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại 15, chúng ta cũng chẳng biết cách thức biến đổi vũ trụ. Chắc chắn hình ảnh của một thế gian lệch lạc vì tội lỗi sẽ qua đi 16, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới, nơi công bằng ngự trị 17. Hạnh phúc nơi ấy sẽ thỏa mãn và đắp đầy mọi ước vọng hòa bình trào dâng trong lòng con người 18. Khi ấy, sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Chúa Kitô và những gì được gieo vãi trong yếu hèn, mục nát, sẽ mặc lấy sự không hư nát 19; tình yêu và các hoạt động bác ái sẽ tồn tại 20 và toàn thể tạo vật mà Thiên Chúa đã dựng nên cho con người sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ phù vân 21.

Chúng ta đã được cảnh giác là lời lãi cả thế gian mà chính mình hư mất nào ích lợi gì 22. Nhưng sự trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà Thân Thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một vài hình ảnh của thời đại mới. Bởi vậy, tuy phải phân biệt rõ rệt những tiến bộ trần thế với sự bành trướng Vương Quyền Chúa Kitô, nhưng những tiến bộ này trở thành quan trọng đối với Nước Thiên Chúa tùy theo mức độ chúng có thể góp phần vào việc tổ chức xã hội loài người cho tốt đẹp hơn 23.

Thực vậy, sau khi đã theo mệnh lệnh Chúa và nhờ Chúa Thánh Thần phổ biến trên trái đất các giá trị về nhân phẩm, về hiệp thông huynh đệ và tự do, nghĩa là mọi thành quả tốt đẹp do bản tính và hoạt động con người đem lại, chúng ta sẽ gặp lại chúng, nhưng là gặp lại sau khi chúng được thanh tẩy khỏi mọi tì ố, được chiếu sáng và biến đổi, nghĩa là khi Chúa Kitô giao hoàn lại Chúa Cha vương quốc vĩnh cửu và đại đồng: "Vương quốc của chân lý và sự sống, vương quốc thánh thiện và diễm phúc, vương quốc công bình, yêu thương và bình an" 24. Vương quốc ấy đã hiện diện cách mầu nhiệm ở trần gian này và sẽ được kiện toàn khi Chúa đến.

 



Chú Thích:

36* Khi chưa để ý đến sinh hoạt của con người, ta chưa hiểu biết con người và phẩm giá của họ. Qua lịch sử, con người đã nỗ lực để chế ngự thiên nhiên và vũ trụ, hiện nay con người đã đạt tới một mức độ lớn lao trong công việc ấy. Trước sự kiện này, Công Ðồng nêu ra ba thắc mắc:

1) Sinh hoạt có giá trị nào? Và Công Ðồng trả lời: a) nó là phương tiện để phát triển và tiến tới việc thích hợp với ý muốn của Ðấng Tạo Hóa. Ðức tin không trái ngược với ý muốn tiến bộ đó (số 34); b) hơn thế nữa, sinh hoạt làm cho con người lớn lên về nhân cách, do đó chính con người trở nên tiêu chuẩn luân lý của sinh hoạt (số 35).

2) Sinh hoạt như thế nào? a) Làm theo những đòi hỏi riêng và chính thức của thực tại trần tục là không bao giờ đi ngược với đức tin (số 36); b) đồng thời, tội lỗi, lòng kiêu ngạo và ích kỷ có thể làm cho sinh hoạt ấy đổi ý nghĩa (số 37); c) nhưng ơn Chúa Cứu Thế thanh luyện nó. Chính Chúa Giêsu, Thiên Chúa Nhập Thể, dạy con người sinh hoạt: nhờ đức ái con người có thể xây dựng và đổi mới thế giới (số 38).

3) Sinh hoạt với mục đích gì? Thế giới cuối cùng sẽ đổi mới, chứ không hoàn toàn hư mất. (số 39).



37* Ba câu hỏi trên của Công Ðồng có lẽ chưa đủ để biểu lộ các vấn đề bao gồm trong chương này. Hơn bao giờ hết, thần học hiện đại đang tìm hiểu thực tại trần thế. Trong chương này ta sẽ tìm thấy một số nguyên tắc căn bản để giải quyết nhiều vấn đề có thể đặt ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau:

1) Khía cạnh tín lý thần học: a) Ta phải có quan niệm gì về vũ trụ, về lịch sử, về sinh hoạt? b) Một thuyết thần học về thực tại trần thế phải dựa trên nền tảng nào? c) Có một nhân bản chủ nghĩa Kitô giáo không? d) Cần phải nhở thuyết "trần tục hóa" tân thời để có một học thuyết thần học về thực tại trần thế không?

2) Khía cạnh luân lý thần học: a) Giữa đòi hỏi của Nước Thiên Chúa và của thực tại trần thế, con người phải có thái độ nào? Phải sống thế mạt (chỉ hướng về đời sau) hay nhập thể? Hay là, đúng hơn: ta phải làm thế nào để điều hòa hai cực đoan ấy một cách thực tế? b) Các tín hữu có chỗ đứng ở giữa cộng đoàn nhân loại đang lo việc xây dựng thế giới không? Hay là các tín hữu phải quay lưng lại thế giới và tiến bước trên con đường khác biệt? c) Các tín hữu có chung một thứ ngôn ngữ với người ngoại giáo và người vô thần để mở cuộc đối thoại với họ được không?

3) Khía cạnh tu đức: Căn cứ vào thực tại trần thế ta có thể lập ra một thuyết nào về đời sống thiêng liêng không? Ðặc biệt về đời sống giáo dân?

4) Khía cạnh tranh luận: Ta phải trả lời như thế nào? a) trước những lời tố cáo cho rằng đức tin làm cho các tín hữu tách biệt với thực tại trần thế và với các vấn đề cụ thể của cuộc sống? b) Cũng như khi người ta đồng hóa tôn giáo với những việc dị đoan phải bị khoa học loại trừ?

1 Xem Stk 1,26-27; 9,2-3; Kn 9,2-3.

2 Xem Tv 8,7 và 10.

38* Việc làm không phải là sự trừng phạt vì tội lỗi, chỉ tính cách khó nhọc của việc làm mới là kết quả của tội phạm. Do việc làm: 1) con người khắc phục thiên nhiên, 2) kiện toàn vạn vật, 3) thể hiện nhân cách: đào tạo quyền tự do, trí tuệ và ý chí cũng như sự khéo léo tinh thần và thể xác, 4) nên chính con người hoàn thiện hóa bản thân, 5) xây dựng xã hội, 6) cỗ võ sự hiệp nhất giữa nhân loại, 7) giúp kiến tạo hòa bình (vì việc làm đòi hỏi sự cộng tác của nhiều người). Do đó việc làm mưu ích riêng cho con người cũng như ích chung cho xã hội và còn có thể nói là mưu ích cho cả vũ trụ nữa.

Ðức tin còn cho ta biết những khía cạnh mới: 8) là nhờ việc làm ta thực hiện ý muốn của Chúa Tạo Hóa, 9) và ta góp phần để làm sáng Danh Chúa, 10) khi làm việc, con người càng giống như hình ảnh của Thiên Chúa Tạo Hóa, 11) và cộng tác với Ngài, 12) cũng như bắt chước Ðấng Cứu Thế (x. GH 41e). 13) Ðồng thời, nhờ ơn Chúa, chính việc làm của con người được một giá trị siêu nhiên, giống như công việc của Ðấng Cứu Chuộc, để đền tội, để cầu xin, để giúp tha nhân về cùng Chúa và thánh hóa bản thân cũng như người khác: như vậy việc làm trở nên một phương tiện để thực hiện đức thương yêu.



3 Xem Gioan XXIII, Tđ. Pacem in terris: A AS 55 (1963), trg 297.

4 Xem Sứ điệp các Nghị Phụ gởi toàn thể nhân loại vào dịp khai mạc Công Ðồng Vaticanô II, tháng 10, 1962: AAS 54 (1962), trg 822-823.

5 Xem Phaolô VI, Alloc. Ad Corpus diplomaticum, 7-1-1965; AAS 57 (1965), trg 232.

39* Ðây là thành kiến của những hình thức nhân bản chủ nghĩa (xem trên, số 7c). Ðàng khác, nó cũng có thể là kết quả do kinh nghiệm lịch sử không tốt đẹp gây nên (xem cuối đoạn b trong số này).

6 Xem CÐ Vat. I, Hiến chế tín lý về đức tin Công Giáo Dei Filius, ch. III: Dz 1785-1786 (3004-3005).

7 Xem Piô Paschini, Vita e opere di Galileo Galilei, 2 quyển, Pont. Accademia delle Scienze, Città del Vatic., 1964.

40* Các ngành nghệ thuật, văn chương, khoa học, kinh tế, chính trị, xã hội học, v.v... đều có đối tượng riêng biệt, phương pháp riêng biệt, kỹ thuật riêng biệt. Xét đoán một tài liệu văn chương chẳng hạn, theo những tiêu chuẩn kinh tế mà thôi, hay là theo kỹ thuật của khoa học chính xác, dĩ nhiên là vô nghĩa! Cũng thế, xét các vấn đề tôn giáo với đầu óc mỹ thuật, văn chương, khoa học..., khi chưa được đào tạo theo nguyên tắc tôn giáo cũng không kém nguy hiểm. Bởi vậy, Công Ðồng nhấn mạnh rằng thật là hết sức khôi hài, nếu chúng ta dựa trên những nguyên tắc tôn giáo để quyết định phải áp dụng kỹ thuật nào cho các thực tại trần thế. Các nhà sinh vật học, toán học, kinh tế học, chính trị..., đều phải khám phá và áp dụng những nguyên tắc và kỹ thuật riêng biệt của từng ngành. Ðức tin sẽ không giúp họ giải quyết các vấn đề chuyên môn của họ.

Ðàng khác, chân lý không thể mâu thuẫn với chân lý. Bởi thế những kết luận đúng sự thật của khoa học không thể mâu thuẫn với đức tin được (về các thực tại trần thế khác cũng phải lý luận một cách tương tự). Thiên Chúa, Ðấng đã mạc khải các tín điều cũng là Ðấng đã tạo nên thực tại trần thế. Thiên Chúa không thể mâu thuẫn với chính Ngài. Do đó, khi nào người ta đạt tới kết luận khoa học có vẻ trái ngược với đức tin thì phải xét lại: hoặc những kết luận đó chưa vững chắc (có thể chỉ là những giả thuyết nhất thời), hoặc cách hiểu biết tín điều còn ở trên bình diện thiếu sót, hoặc là cả hai.

Trong ghi chú, Công Ðồng nhắc lại vụ án Galileô để chấp nhận phần trách nhiệm của Giáo Hội khi vội vã quyết đoán rằng giữa kết luận khoa học (quả đất xoay chung quanh mặt trời) và lời Thánh Kinh ("mặt trời dừng lại", chẳng hạn) có mâu thuẫn. Hôm nay ai cũng hiểu câu nói như vậy không khác gì những câu nói thông thường của chúng ta: "mặt trời mọc lên, lặn xuống". Về phần trách nhiệm của chính ông Galileô khi ông vượt quá biên giới khoa học để cắt nghĩa lời Thánh Kinh, thì ở đây Công Ðồng không muốn nhắc đến làm gì.

8 Xem Mt 24,13; 13,24-30 và 36-43.

41* Công Ðồng nói về cuộc chiến đấu giữa sự lành và sự dữ, trước hết diễn ra tại nội tâm của con người. Con người ước ao sự lành nhưng bị sự dữ lôi cuốn, nên con người bị chia rẽ, như Công Ðồng đã nhắc ở phần trước (số 10a).

42* Trong đoạn này Công Ðồng phác họa chương trình sinh hoạt về thực tại trần thế:

1) Ðể tránh mối nguy cơ do lòng kiêu ngạo và tánh ích kỷ gây nên, ta phải ý thức mà chấp nhận thập giá, "nghĩa là hàng ngàn hình thức thất bại" và ngăn trở có thể xảy đến mặc dù ta đầy thiện chí và hết sức cố gắng. Thập giá đưa chúng ta đến sự phục sinh, sự thắng trận cuối cùng trên phạm vi cao hơn.

2) Ta phải yêu mến tạo vật với một lòng mến mới mẻ là kết quả của công cuộc chuộc tội. Mến tạo vật vì tạo vật là những quà tặng của Thiên Chúa.

3) Ta phải xử dụng và thụ hưởng tạo vật: nó là những phương tiện giúp ta đến cùng Thiên Chúa, đồng thời làm tròn sứ mệnh thống trị cũng như phát triển vũ trụ noí chung và bản thân nói riêng. Ta phải xử dụng và hưởng thụ tạo vật với tinh thần biết ơn, tinh thần khó nghèo (nghĩa là tinh thần siêu thoát) tạo nên sự tự do thiêng liêng, không để tạo vật buộc ta làm nô lệ nó, bất chấp những khía cạnh quyến rũ của tạo vật.

4) Thực tại trần thế có giá trị mới sau khi Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể; đức bác ái là điều răn mới của Chúa Kitô phải điều khiển các sinh hoạt thuộc về thực tại trần thế dưới ơn thúc đẩy của Chúa Thánh Thần (số 38a).

5) Trong thực tế, thái độ của tín hữu đối với thực tại trần thế sẽ khác nhau tùy theo ơn Chúa Thánh Thần đó: tuy rằng không hề khinh dể tạo vật nhưng một số người thoát tục và do đó làm chứng cho đời sau, trong khi người khác dấn thân để nhờ tạo vật phục vụ đồng loại (số 38a).



9 Xem 2Cor 6,10.

10 Xem Gio 1,3 và 14.

11 Xem Eph 1,10.

12 Xem Gio 3, 14-16; Rm 5,8-10.

13 Xem CvTđ 2,36; Mt 28,18.

14 Xem Rm 15,16.

43* Trong số này Công Ðồng giải quyết thắc mắc sau đây: nếu thế giới, sau khi được xây dựng với biết bao nỗ lực, việc làm, vất vả, sẽ phải bị tiêu tan trong ngày tận thế, thì sinh hoạt về thực tại trần thế có phải thành vô nghĩa không? Công Ðồng dạy: a) Theo như Thánh Kinh cho biết, thế giới sẽ đổi mới, chứ không tan nát. b) Tuy chưa biết rõ như thế nào, nhưng việc làm của ta sẽ đem lại kết quả đời đời. Ðặc biệt những công việc bác ái, cũng như chính đức ái, sẽ tồn tại vĩnh viễn. c) Tuy rằng ta không thể đồng hóa sự tiến bộ trần thế của nhân loại với sự mở rộng nước Thiên Chúa, nhưng khi chúng ta phục vụ nhân loại và làm cho phẩm giá con người hay tình anh em và sự tự do, v.v... phát triển, tức là chúng ta đóng góp vào nước Thiên Chúa những điều sẽ tồn tại mãi mãi sau khi thế giới này được tẩy luyện và biến hình.

15 Xem CvTđ 1,7.

16 Xem 1Cor 7,31; T. Ireneô, Adv. Haereses, V, 36, 1: PG 7,1222.

17 Xem 2Cor 5,2; 2P 3,13.

18 Xem 1Cor 2,9; Kh 21,4-5.

19 Xem 1Cor 15,42 và 53.

20 Xem 1Cor 13,8; 3,14.

21 Xem Rm 8,19-21.

22 Xem Lc 9,25.

23 Piô XI, Tđ. Quadragesimo anno: AAS 23 (1931), trg 207.

24 Missale Romanum, Kinh Tiền Tụng Lễ Chúa Kitô Vua.

VỀ MỤC LỤC

CUỐI CÙNG, PHÁN QUYẾT VẪN LÀ CHÚA

Chúa Nhật XXX Thường Niên C

(Sirach 35: 12-14, 16-18; Tv 34; 2Tm 4:6-8, 16-18; Lc 18: 9-14)

Bác Sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD  

 

Bài Phúc Âm hôm nay bàn về cầu nguyện qua 2 dụ ngôn (18:9-15), một dụ ngôn nói về thái độ tự cao tự đại của một người biệt phái, coi mình là đạo đức tốt lành hơn người, một dụ ngôn khuyên chúng ta phải biết tự nhận mình là kẻ tội lỗi, và hoàn toàn phụ thuộc vào lòng thương xót của Chúa. 



Bài Phúc Âm đã gợi chúng ta nhớ lại chuyện Chúa Giesu tha thứ cho người đàn bà tội lỗi (Lc 7: 36-50), trong đó cũng có cảnh trái ngược giữa thái độ của người biệt phái tên Simon và người đàn bà phạm tội nhưng yêu Chúa nên được Chúa tha thứ. 

Một trong những chủ đề mà Luca ưa thích là sự đảo ngược kết quả ngày Chúa đến, đã được Luca diễn tả rất tài tình trong bài Tin Mừng hôm nay. Câu chuyện nhắm vào một loại người đặc biệt thời bấy giờ: những người tự coi mình là giữ luật lệ khắt khe và coi những người khác là bê bối tội lỗi. Người biệt phái thuộc thành phần gọi là công chính, cầu nguyện với “chính mình”; toàn thể bài cầu nguyện của ông là nói về mình, về những cái hay đẹp của mình; ông cho ông là thần tượng, là gương sáng cho mọi người, khác hẳn với người thu thuế, một loại người bị xã hội khinh khi.

 

ĐỨNG THẬT XA MÀ CẦU NGUYỆN 

Nhưng trái lại, người thu thuế biết mình chẳng tốt lành gì. Ông không thể làm đảo ngược được những việc gian dối của ông. Nếu ông hối hận, cố gắng bồi hoàn lại những cái ông đã ăn gian thì cũng chẳng giúp gì được ông. Ông chẳng trông mong người ta bỏ qua và tha thứ cho ông. Điều duy nhất ông biết và có thể là ông đến trước mặt Chúa và nhận mình có tội, dù Chúa có tha thứ cho ông, ông cũng không dám hy vọng. Đây là cách duy nhất mà ông khả dĩ có thể cảm nghiệm được lời Chúa nói với ông: “Con tốt lành bởi vì cha đã chấp nhận lời con.”[1] 

Trong chuyện dụ ngôn ta thấy người thu thuế đứng thật xa mà cầu nguyện. Khoảng cách xa này không phải chỉ là khoảng cách địa dư mà còn có nghĩa khác biệt về tình trạng và thái độ của hai người  trong xã hội. Khi người thu thuế cầu nguyện, ông kêu cầu Chúa, van xin lòng Chúa thương xót! 

Câu chuyện đầy vẻ thách đố này cảnh cáo chúng ta phải coi chừng cung cách, lời ăn tiếng nói và việc làm khi cầu nguyện. Thoạt nghe, câu chuyện dụ ngôn này làm chúng ta khó chịu. Trong Do Thái giáo, nếu có ai về nhà mà không đi qua đền thánh để kiểm chứng, thì chỉ có thể là người thu thuế. Người nào làm việc cho chính phủ nước ngoài để thu thuế dân mình, kẻ cộng tác với chế độ hà khắc và tham nhũng, kẻ phản bội chính trị, kẻ có đạo  nhưng gian ác, một tên thu thuế đáng khinh bỉ, đều là những đặc trưng đáng ghét. Miệng hắn cầu nguyện thì leo lẻo “Xin Chúa Thương xót tôi / Miserere” (Tv.51), nhưng cuộc sống của hắn thì gian dối.

 

CUỐI CÙNG, PHÁN QUYẾT VẪN LÀ CHÚA 

Đúng thế, theo như câu chuyện thì người biệt phái đâu phải là người lưu manh, láu cá và người thu thuế cũng không phải là người quảng đại, tốt lành gì. Nếu vẽ dụ ngôn này thành bức tranh hoạt họa thì thiết nghĩ không được trung thực và thiếu công bằng. Nếu người biệt phái được vẽ thành một tên lưu manh và người thu thuế thành một anh hùng thì mỗi người đều có giá trị riêng của họ, chẳng có gì là ngạc nhiên vể ân sủng Chúa ban và câu chuyện dụ ngôn mất đi ý nghĩa đích thực của nó. Không phải tất cả mọi người biệt phái đều bất lương, gian xảo, kiêu căng, và không phải tất cả những người thu thuế đều thực sự nghèo khó, khiêm tốn và thành thật, có đời sống nội tâm sâu xa. Luca đã chẳng nói với chúng ta là tự đặt mình xa cách, khác biệt với “mọi người” là “đi về nhà cách bất chính, không được Chúa chấp nhận và ban ơn.” 

Theo như dụ ngôn của chúa Giesu, thì điều mà mỗi người nhận được đều là ơn Chúa ban nhưng không “mặc dù bất xứng” chứ không phải “bởi vì tôi tốt lành, tài giỏi.” Nếu hai nhân vật này được xem xét lại cẩn thận theo những đức tính của họ và sự mong đợi của xã hội một cách công bằng, không thiên kiến, thiên vị, thì câu chuyện vẫn gây xúc động chúng ta, vẫn tạo sức mạnh cho cả người tội lỗi lẫn người được chúc phúc, cả hai người đều có cái hay cái dở của họ. Chúng ta không thể diễn nghĩa chuyện này bằng cách miêu tả những đặc tính của các nhân vật theo nghĩa đen để khi ra khỏi cửa nhà thờ, người ta sẽ tự nhủ hay nói với người khác rằng: “Cám ơn Chúa, tôi không giống như người biệt phái.” Nên nhớ, điều đảo ngược này rất có thể bị đảo lộn lại! Cuối cùng, phán quyết vẫn là Chúa!

 

NGƯỜI KHIÊM TỐN CẦU NGUYỆN THÌ ĐƯỢC CHÚA LẮNG NGHE 

Tuy nhiên, người khiêm tốn cầu nguyện thì được Chúa lắng nghe. Bài đọc 1 hôm nay trong sách Sira (35:12-14, 16-18) rất phù hợp với ý nghĩa của dụ ngôn trong bài Tin Mừng Phúc Âm: “Những ai tự nguyện phụng sư Chúa thì được Chúa lắng nghe; lời khẩn cầu của họ đạt tới thiên cung. Lời cầu nguyện của những kẻ khiếm tốn vọng lên các tầng mây; nó không ngồi yên cho đến khi đạt được yêu cầu, cũng chẳng chịu thoái lui cho đến khi đấng Tối Cao đáp ứng, phán xét công minh và xác nhận người công chính và Chúa sẽ không trì hoãn.”

 

ĐỜI SỐNG THÁNH PHAOLO TRÀN ĐẦY NHƯ SUỐI NƯỚC THÁNH 

Bài đọc 2 thư thánh Phaolo gửi Timothy (2Tm 4:6-8, 16-18) cho chúng ta thấy công cuộc mục vụ của thánh Phaolo quả là quan trọng. Lúc ở trong tù tại Rome, Phaolo đã nhìn thấy cái chết của mình gần kề nên đã chấp nhận và hy vọng. Phaolo đã an bình trong Chúa và với chính mình, đối đầu với tử thần một cách bình thản vì biết rằng mình đã không ngại gian khổ, luôn luôn cố gắng cả cuộc đời để phục vụ Tin Mừng. Phaolo biết rằng cái chết của mình là tử vì đạo và cấp thiết. Ông coi đó là một cử chỉ hiến tế thờ phượng và ông sẽ hy sinh đổ máu đào (Xh 29: 38-40; Pl 2:17). Lúc kết thúc cuộc đời, Phaolo đã có thể chứng minh rằng mình đã hoàn thành điều mà chính chúa Kito đã nói trước về ông lúc ông ngã ngựa trở lại: “Ta sẽ chỉ cho người ấy thấy tất cả những đau khổ người ấy chịu vì danh ta”(Cv 9:16). 

Ngày nay, hình ảnh hai thánh Phero và Phao lo vẫn sừng sững tại Rome. Hai thánh Phero và Phao lo, với những đức tinh đặc thù riêng của mỗi người và những cảm nghiệm của cá nhân và giáo hội chứng minh rằng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi các ngài, ngay cả những lúc bị thử thách cam go nhất. Chúa đã ở với Phero để giải cứu ông khỏi tay những kẻ thù tại Jerusalem; Chúa đã ở với Phaolo liên tục trong mọi công tác tông đồ để truyền thông cho ông sức mạnh của ân sủng Chúa, để biến ông thành kẻ tuyên xưng Tin Mừng cho dân ngoại, cho mọi quốc gia không hề hoảng sợ (2Tm 4:17). 

Cuộc đời Phao lo đã rập khuôn với cuộc đời chúa Giesu. Trong bữa tiệc ly, chúa Giesu đã nói trước về biến cố trên đồi Calvary, Người chấp nhận cái chết trên thập giá, và với sự chấp nhận ấy, ngài biến bạo động thành ban ơn và tận hiến, “Ngay cả nếu tôi phải đổ máu ra như suối nước thánh để làm của lễ cho niềm tin của anh em dâng lên Chúa thì tôi cũng  vui mừng và chia sẻ niềm vui ấy với tất cả anh em”. Phao lo nói như vậy trong thư gửi cho tín hữu Philiphe 2:17 trong lúc việc tử đạo của chính ngài đã sát kề. Tại bữa tiệc ly, thánh giá đã hiện diện, chúa Giesu đã chấp nhận và hiến tế.

 

ĐÔI LỜI KẾT:  SỐNG LIÊN LỈ MẬT THIẾT VỚI THIÊN CHÚA 

Để kết luận, xin trích một đoạn trong thư Đức Biển Đức XVI gửi các chủng sinh, được công bố ngày 18-10-2010 để cùng suy niệm. Dù được viết vào dịp kết thúc năm linh mục, lá thư cũng có thể áp dụng cho tất cả chúng ta vì được viết dưới ánh sáng bài Tin Mừng Phúc Âm hôm nay. 

Bất cứ ai ước muốn trở thành linh mục thì trước tiên và trên hết phải là ‘người của Chúa’ như kiểu nói của thánh Phaolo (2Tm 4:16). Đối với chúng ta, Thiên Chúa không phải là một giả thiết trừu tượng, người cũng không phải là kẻ xa lạ đã để lại quang cảnh sau hiện tượng “big bang”. Thiên Chúa biểu lộ chính Người trong Đức Giesu Kito. Trước mặt Đức Giesu Kito, ta thấy mặt Thiên Chúa. Trong lời Người, chúng ta nghe chính lời Thiên Chúa nói với chúng ta. Nó cho thấy, điều quan trọng nhất trên bước đường đi tới thiên chức linh mục và trong suốt đời sống linh mục của chúng ta là tình liên đới của từng cá nhân chúng ta với Thiên Chúa trong Đức Giesu Kito. 

Linh mục không phải là người lãnh đạo một đoàn thể phải cố công bảo toàn và phát triển các hội viên. Linh mục là sứ giả của Thiên Chúa được sai đến với dân người. Chúa muốn ông hướng dẫn họ đến với Chúa, và theo phương cách đó, nuôi dưỡng sự hiệp thông thực sự giữa mọi người nam và nữ. Do đó, quả là quan trọng, anh em thân mến, anh em phải học cách sống mật thiết và liên lỉ với Thiên Chúa. Khi Chúa biểu chúng ta phải ‘cầu nguyện liên lỉ’, rõ ràng Người không đòi hỏi chúng ta phải đọc những kinh cầu dài vô tận, nhưng người khuyến cáo chúng ta đừng bao giờ để mất tình thân thiết nội tâm của chúng ta với Thiên Chúa. 

Cầu nguyện là làm triển nở tình thân thiết ấy. Vậy thì điều quan trọng là mỗi ngày của chúng ta đều phải bắt đầu và kết thúc bằng cầu nguyện; Chúng ta lắng nghe Chúa như là đọc Kinh Thánh vậy; Chúng ta chia sẻ với Người những ước nguyện và hy vọng của chúng ta, những vui mừng và sầu buồn của chúng ta, những thất bại và những tri ân của chúng ta đối với tất cả những ân phúc người ban, vậy thì chúng ta phải luôn luôn có Người hiện diện trước mặt chúng ta như điểm tham khảo hướng dẫn cho đời sống chúng ta. Với phương cách đó, chúng ta sẽ nhận ra những thất bại của chúng ta và cải tiến, nhưng cũng nhận thức ra được vẻ đẹp và tốt lành mà chúng ta có được nhưng không để mà tạ ơn. Với lòng biết ơn, chúng ta sẽ hứng khởi vì có Thiên Chúa ở gần chúng ta và chúng ta có thể phụng sự Người” 

Chớ gì Chúa biến chúng ta thành những người đầy tớ xứng đáng hơn để chúng ta làm những điều chúng ta phải làm, không bon chen, không chú ý đến chuyện tốt hơn người hay cao trọng hơn người, nhưng nhận thức ra mình là những đầy tớ thấp hèn hơn những đầy tớ khác, vì lẽ chúng ta đã được cho, được tha thứ và được chúc phúc quá nhiều

Chớ gì Thiên Chúa ban cho chúng ta trái tim quảng đại khi chúng ta phục vụ Chúa và yêu Chúa nơi tha nhân. Sáng danh Thiên Chúa bây giờ và đến muôn đời! 

Fleming Island, Florida

Oct. 23, 2013

NTC 



[1] Câu này nên hiểu là: Chúa chấp nhận lời con nên con mới trở nên tốt lành, không phải chỉ vì con tốt lành mà Chúa chấp nhận lời!



VỀ MỤC LỤC

NHẬN ĐỊNH THIÊNG LIÊNG VÀ QUẢN TRỊ TRONG HỘI THÁNH

LTS. "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi" (Mt 7,21), điều ấy dường như ai cũng đã biết; nhưng Ý Chúa dành cho mỗi người lại chẳng giống nhau, vì thế việc tìm hiểu Ý Chúa thế nào cho cả đời mình hay từng biến cố lớn nhỏ trong cuộc sống cá nhân cũng như cộng đoàn, sẽ trở thành công việc thật cấp bách và tối quan trọng. Chúa Kitô Giêsu đã từng gọi "thế hệ này là thế hệ gian ác" không phải vì chúng ta phạm những tội hình sự tày đình mà chỉ vì chúng ta đã không làm theo Ý Chúa muốn.

"Nhận Định Thiêng Liêng và Quản Trị Trong Hội Thánh" là một tài liệu quí giá và công phu với ngôn từ giản dị rất dễ hiểu, được Cha Giuse Nguyễn Công Đoan, SJ soạn thảo cho các hội dòng tại VN, tuy nhiên những điều tác giả trình bày lại rất thực tế đến nỗi có thể áp dụng trong hầu hết mọi hoàn cảnh, kể cả trong các gia đình, những cộng đoàn lớn nhỏ, giáo xứ, giáo phận. Xin đặc biệt ưu ái đến với những giáo dân, tu sĩ, giáo sĩ vùng sâu vùng xa, nơi mà giao thông và mọi phương tiện đều khó khăn, Quí vị có thể tự "Nhận Định Thiêng Liêng" như một cuộc Linh Thao thực sự hữu hiệu - một khí cụ tối ưu của truyền thống Dòng Tên.

BBT chúng con hân hạnh được chia ra làm nhiều phần đăng liên tiếp trên các số báo GSVN. Hoặc quí vị có thể tải về máy trọn bản văn đầy đủ tại địa chỉ:



http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=home&v=detail&ia=11781

 Hoặc cũng có thể gởi email cho BBT: giaosivietnam@gmail.com  

hoặc  conggiaovietnam@gmail.com để có thể nhận qua email trọn bản văn trên file word.

Chúng con cũng xin chân thành cám ơn Cha Giuse đã dành cho chúng con món quà giá trị và rất ý nghĩa này, đăc biệt là đúng vào thời điểm khởi đầu Sứ vụ Giáo hoàng của người con ưu tú của Dòng Tên: Đức Thánh Cha Phanxicô. Tài liệu này sẽ giúp hiểu thêm chính cung cách Quản Trị của Ngài.



BBT CGVN.

NB. Linh mục Giuse Nguyễn Công Đoan, Dòng Tên, ngoài các trách nhiệm trong nội bộ Dòng Tên tại Việt Nam, đã góp phần dưới nhiều hình thức trong việc phục vụ các Dòng Tu tại Tổng Giáo Phận Saigon từ năm 1975-2003. Sau đó ngài đã được Cha Bề Trên Tổng Quyền Peter-Hans Kolvenbach bổ nhiệm làm Phụ tá Bề Trên Tổng quyền đặc trách Vùng Đông Á - Úc. Từ năm 2008, ngài là Giám đốc Giáo Hoàng Học Viện Thánh Kinh tại Giêrusalem, và phụ trách các tu sĩ Dòng Tên phục vụ tại Thánh Địa.

*****************************

 

Quản trị hành chánh và quản trị Hội Thánh.

 

Trong lịch sử, từ sau khi thoát khỏi cuộc bách hại của đế quốc Roma, Giáo Hội vẫn đòi quyền được coi là một xã hội hoàn hảo, nghĩa là một xã hội với đầy đủ mọi yếu tố cấu tạo, do đó ngang hàng với bất cứ xã hội trần thế nào khác, có guồng máy quản trị riêng, luật lệ riêng. Rồi từ chỗ đòi quyền ngang hàng với mọi xã hội trần thế, Giáo Hội còn vươn lên đặt mình trên mọi xã hội trần thế, trở thành người ban phát quyền lực cho mọi bậc quân vương ở châu Âu. Hệ quả của quan niệm này là Giáo Hội trở thành một tổ chức quá giống với xã hội trần thế, đồng thời sự khẳng định tính cách thánh thiêng làm cho mọi cơ cấu tổ chức và luật lệ của Giáo Hội trở thành những cái tuyệt đối không gì lay chuyển được. Việc quản trị trong Giáo Hội thì có vẻ hoàn toàn hành chánh như xã hội trần thế: cứ theo cơ chế, cứ theo luật lệ mà thi hành, còn tính cách thánh thiêng trở thành cái áo giáp bảo vệ cho cơ chế và luật lệ.



 

Thực trạng này đòi chúng ta phải suy nghĩ và tự hỏi: Nếu Giáo Hội có tính thánh thiêng thì cái thánh thiêng ở đâu? Nó có ảnh hưởng gì đến vấn đề quản trị không? Việc quản trị trong Giáo Hội có thể hoàn toàn theo lối quản trị hành chánh không? Những câu hỏi này không chỉ đặt ra với Hội Thánh phổ quát, mà ở mọi cấp cộng đoàn Hội Thánh, trong đó có cộng đoàn giáo phận, giáo xứ và cả cộng đoàn tu sĩ, bởi vì ở cấp độ nào thì cộng đoàn cũng là một cách thể hiện hay tham dự bản chất của Hội Thánh.

 

Để trả lời những câu hỏi trên đây, tôi đề nghị chúng ta hãy trở về nguồn, nhìn lại giai đoạn hình thành của Hội Thánh như sách Công Vụ Tông Đồ và các thư của thánh Phaolô trình bày để xem tính thánh thiêng ở đâu và nó ảnh hưởng thế nào đến việc quản trị trong Hội Thánh.



 

Cộng Đoàn Hội Thánh tự ý thức về mình như thế nào?

 

Ngay trong bức thư thứ nhất gởi Hội Thánh Thê-xa-lo-ni-ca, được coi là văn bản sớm nhất của sách Tân Ước, thánh Phaolô Tông Đồ đã dùng một kiểu nói vừa mượn từ Cựu Ước vừa mang tính mới mẻ của Tân Ước để nói về Hội Thánh: (tạm dịch sát bản văn Hy Lạp) Hội (thánh) gồm (của) những người dân Thê-xa-lo-ni-ca ở trong Thiên Chúa Cha và ở trong Chúa Giêsu Kitô.



 

Cần xem xét từng từ một : Hội Thánh (ecclesia), Cựu Ước đã dùng kèm theo Danh Thiên Chúa để nói về cộng đoàn Dân Thiên Chúa, tức là dân It-ra-en, nay là Hội Thánh gồm những người dân Thê-xa-lo-ni-ca. Cái gì làm cho họ là Hội Thánh, dù họ không phải là dân It-ra-en? Ở trong Thiên Chúa Cha và ở trong Chúa Giêsu Kitô.

 

Nếu chúng ta hỏi tiếp : cái gì làm cho họ ở trong Thiên Chúa Cha và ở trong Chúa Giêsu Kitô?



 

Thánh Phaolô trả lời cho chúng ta trong thư gởi tín hữu Ga-lat ch.4 và thư gởi tín hữu Rôma, ch. 8 : Thần Khí của Thiên Chúa, Thần Khí của Đức Kitô ở trong chúng ta. Chính Thần Khí làm cho chúng ta kêu lên Abba, Cha ơi (Gl 4,4; Rm 8,15) và hướng dẫn chúng ta sống làm con Thiên Chúa. Cũng chính Thần Khí làm cho chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa (x.I Cr 12,3).

 

Như vậy chúng ta thấy rõ ý nghĩa và hệ quả của của Phép Rửa “Nhân Danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Chính sự thuộc về Thiên Chúa Ba Ngôi tới mức ở trong Chúa Cha, ở trong Chúa Con và ở trong Chúa Thánh Thần làm cho Cộng đồng tín hữu trở thành Hội Thánh của Thiên Chúa. Chính Thánh Thần là sự hợp nhất giữa Cha và Con làm cho chúng ta đuợc ở trong Thiên Chúa Cha và ở trong Chúa Giêsu Kitô. Chính Thánh Thần làm cho chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha bằng cách gọi thân mật nhất, Abba và dẫn dắt chúng ta sống làm con Thiên Chúa (x.Rm 8,14). Chính vì Thánh Thần nối kết mỗi người đã chịu Phép Rửa nhân danh Ba Ngôi với Chúa Cha và Chúa Con nên cũng chính Thánh Thần nối kết họ với nhau đề làm nên Hội Thánh của Thiên Chúa. Chúng ta hãy đọc lại một đoạn trong thư gởi tín hữu Ephesô sẽ thấy rõ điều này : Nhờ Người (Đức Kitô) cả đôi bên (Do Thái và Dân ngoại), chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha… Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí (Ep 3,18.22).



 

Từ những điều trên đây chúng ta đã có thể kết luận rằng Thánh Thần không chỉ hướng dẫn mỗi người sống làm Con Thiên Chúa mà còn hướng dẫn cả cộng đồng tín hữu sống làm Dân Thiên Chúa, Hội Thánh của Thiên Chúa.

 

Sách Tông Đồ Công Vụ và mô hình quản trị của Hội Thánh sơ khai

 

Sách Công Vụ cho chúng ta chiêm ngắm cộng đồng Hội Thánh trong bước hình thành và phát triển, từ đó chúng ta có thể nhận ra nhiều điều liên quan tới ý thức của cộng đồng về chính mình và mô hình quản trị hình thành từng bước dưới sự dẫn dắt của Thánh Thần.



 

Từ đầu đến cuối sách Công Vụ chúng ta thấy sự hiện diện và hoạt động của Thánh Thần bao trùm tất cả. Từng bước chân của các Tông Đồ trong sứ mạng đem Tin Mừng đến tận cùng thế giới đều như được Thánh Thần trực tiếp dẫn đưa. Từng cộng đoàn luôn được Thánh Thần điều khiển, dắt dìu.

 

Tác giả cho chúng ta thấy ngay từ đầu sự khác biệt trong cách điều hành trước và sau khi cộng đoàn nhận được quyền năng Thánh Thần. Trong thời gian chờ đợi, việc chọn người thay thế ông Giu-đa được tiến hành theo cách thức của Cựu Ước là cầu nguyện rồi rút thăm. Sau này không thấy có lần nào sách Công Vụ hay các sách khác trong Tân Ước nói đến việc rút thăm nữa. Từ khi Thánh Thần xuống trên cộng đoàn chúng ta thấy mọi hoạt động, di chuyển đều do Thánh Thần chỉ đạo và tiêu chuẩn chọn người phục vụ cộng đoàn bao giờ cũng phải là người đầy Thánh Thần.



 

Tác động đầu tiên của Thánh Thần là các tông đồ, (những người đã từng bỏ chạy và chối Chúa trong đêm Chúa bị bắt, rồi sau khi Chúa phục sinh, vẫn còn ở trong nhà đóng kín cửa vì sợ người Do Thái) có thể đứng lên làm chứng về Chúa Giêsu trước đám đông gồm những người thuộc mọi dân mọi nước tuôn về Giêrusalem, cũng như khi (hai tông đồ Phêrô và Gioan) bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng: “bấy giờ ông Phêrô được đầy Thánh Thần, liền nói với họ…” (Cv 4,8).

 

Sau khi hai ông được tha về và kể lại mọi chuyện cho cộng đoàn, “họ đồng tâm nhất trí cất tiếng lên cùng Thiên Chúa…” và khi “họ cầu nguyện xong thì nơi họ họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa” (Cv 4,24.31). Như vậy là Thánh Thần mở miệng cho họ nói lời Thiên Chúa và cũng Thánh Thần làm cho lời Thiên Chúa tiếp tục vang lên mà không quyền lực trần gian nào có thể dập tắt được. “Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (4,20).



 

Chương 5 của sách Công Vụ bắt đầu cho chúng ta thấy sự hiện diện của Thánh Thần trong việc điều hành cộng đoàn. Khi hai vợ chồng Kha-na-ni-a và Sa-phi-ra âm mưu lừa dối các tông đồ, thánh Phêrô nói với người chồng: “anh lừa dối Thánh Thần”, và nói với bà vợ : “Sao anh chị đồng lòng với nhau để  thử thách Thần Khí Chúa”. Thánh Thần hiện diện trong cộng đoàn Hội Thánh và bảo tồn sự thánh thiêng của cộng đoàn bằng cách loại trừ ngay những kẻ muốn “qua mặt Thánh Thần”. Cũng may là chuyện này chỉ xảy ra một lần và được ghi lại như một lời cảnh cáo, một lời nhắc nhở và mời gọi tôn trọng sự thánh thiêng của cộng đồng Hội Thánh vì là Đền Thờ sống động của Thiên Chúa (x.Ep 2,20-22).

 

Chương 6 của sách Công Vụ cho chúng ta thấy một cuộc khủng hoảng cơ cấu của cộng đồng Hội Thánh và cách giải quyết. Sự hiện diện của hai nhóm có văn hóa và quyền lợi khác nhau chưa được tôn trọng đúng mức dẫn tới cuộc khủng hoảng. Cách trình bày ở đây giản lược hóa vào chuyện các bà góa của nhóm tín hữu thuộc văn hóa Hy Lạp bị bỏ quên trong việc cấp phát nhu yếu phẩm hàng ngày. Nhưng đọc kỹ phần tiếp theo có thể nhận ra đây là một cuộc khủng hoảng về cơ cấu. Ở các chương 2,4,5 chúng ta thấy nhóm 12 bao thầu hết mọi việc, từ việc công bố Tin Mừng, làm Phép Rửa, dạy dỗ cộng đoàn hàng ngày đến việc quản lý và phân phát lương thực và các nhu cầu vật chất. Chính việc chọn nhóm 7 người phụ tá toàn là những người thuộc văn hóa Hy Lạp hé mở cho chúng ta thấy vấn đề cơ cấu quản trị chưa đáp ứng thành phần cấu tạo của cộng đoàn.

 

Khi vấn đề được đặt ra, chúng ta thấy các tông đồ đưa ra giải đáp rất nhanh, không thấy hội họp bàn bạc chi cả. Nhưng đọc kỹ cách giải đáp, có thể thấy rằng đã có một cuộc nhận định rất chi tiết và sáng suốt.



 

Trước hết là phân định lại xem trong những việc nhóm 12 vẫn bao thầu từ trước tới nay, việc gì có thể giao cho người khác, việc gì là của riêng nhiệm vụ tông đồ, không thể giao cho người khác.

 

Đọc câu đầu tiên trong lời phát biểu của nhóm 12, ta thấy hai loại công việc: rao giảng Lời Chúa và phục vụ bàn ăn. Bây giờ phải chọn một trong hai thì nhóm 12 chọn việc rao giảng Lời Chúa, đó là nhiệm vụ riêng của các ngài. Nếu thế thì việc còn lại là phục vụ bàn ăn có thể giao cho người khác.



 

Vấn đề tiếp theo : ai có thể đảm nhận công việc đó? 3 tiêu chuẩn vắn gọn được đề ra ngay : người được tiếng tốt trong cộng đoàn, đầy Thần Khí và khôn ngoan. Tiêu chuẩn thứ nhất dễ hiểu: muốn phục vụ cộng đoàn thì phải là người được cộng đoàn tín nhiệm. Tiêu chuẩn thứ hai va thứ ba đi với nhau, có vẻ khó hiểu : tại sao phục vụ bàn ăn mà cũng phải là người đầy Thánh Thần và khôn ngoan?

 

Nếu đọc tiếp cho đến chuơng 8, chúng ta có thể đặt vấn đề về chính cái gọi là “lo việc ăn uống”. Có vẻ như “nói vậy mà không phải vậy”, bởi vì ngay sau khi kể việc thiết lập nhóm 7 người thì chẳng thấy nói đến việc các ông này lo việc bếp núc, nhưng lại kể chuyện ông Tê-pha-nô giảng dạy, tranh luận và bị giết, rồi ông Phi-lip đi rao giảng cho dân Samari, thực hiện bước thứ ba trong chương trình Chúa Giêsu đã vạch ra cho hành trình làm chứng : Giêrusalem, Giuđê, Samari.



 

Như vậy tác giả để một khỏang trống cho người đọc tự đìền thêm! Nhưng tại sao tác giả không gỡ cho chúng ta cái khúc mắc này mà vẫn cứ nói công việc của nhóm 7 người là lo việc ăn uống, và tiêu chuẩn là phải đầy Thần Khí và khôn ngoan? Thiết nghĩ chỉ có thể hiểu là việc phục vụ cộng đoàn Hội Thánh, dù là lo việc ăn uống thì cũng phải “đầy Thần Khí và khôn ngoan”, bởi vì cộng đoàn này do Thánh Thần nối kết và làm cho sống động, phát triển. Chúng ta thấy một hiện tượng tương tự trong sách Xuất Hành : người đứng đầu công việc xây dựng nơi thánh là người đầy Thần Khí của Thiên Chúa, còn người phụ tá và những người thợ được tuyển chọn là những người đầy khôn ngoan (x. Xh 31,1-8 và 35,30tt). Việc xây dựng Hội Thánh là công việc của Thiên Chúa được thực hiện bởi quyền năng Thánh Thần (x. Ep 2,20-22; I Pr 2,4-8).

 

Trở lại phần đầu chương 6, các tông đồ dành cho mình công việc : “Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa” (Cv 6,4). Hai nhóm cùng lo việc xây dựng Hội Thánh: một bên lo phục vụ Lời Chúa và một bên lo phục vụ bàn ăn, bên nào cũng phải đầy Thánh Thần, vì là cộng tác viên của Thiên Chúa (x.I Tx 3,2; Mc 16,20; Cv 14,27).



 

Chúng ta có thể đặt thêm một câu hỏi nữa ở đây: tại sao việc phục vụ Lời Chúa lại gắn với cầu nguyện như một công việc duy nhât gồm hai thì, còn việc phục vụ bàn ăn thì không thấy gắn với cầu nguyện? Ngay ở chuơng 2, câu 42, chúng ta đã thấy các tín hữu cầu nguyện không ngừng, và hiệu quả của cầu nguyện là được Thánh Thần (x. Cv 4,31; Lc 11,13). Vậy thì có lẽ phải đặt vấn đề cách khác: tại sao việc phục vụ Lời Chúa lại gắn với cầu nguyện một cách đặc biệt đến mức làm thành một công việc duy nhất cho nhóm 12 ? Lời Chúa là phương thế đầu tiên để qui tụ và nuôi dưỡng cộng đoàn: nhờ nghe Lời Chúa người ta tin và chịu Phép Rửa để gia nhập cộng đoàn và toàn thể các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy (Cv 2,42). Việc phục vụ Lời Chúa có hai thì: nghe Lời Chúa và giảng Lời Chúa, cũng như việc đón nhận Lời Chúa có hai thì: nghe và giữ Lời Chúa. Người giảng phải nghe Chúa nói trong cầu nguyện, bởi vì Lời Chúa thì phải đến từ Chúa chứ đâu có thể rút từ trong bụng mình ra được.

 

Nhưng còn phải để ý tới một khía cạnh khác trong nhiệm vụ của nhóm 12: các ngài là những người lãnh đạo cộng đoàn thông qua việc giảng dạy Lời Chúa. Công việc của các ngài giống công việc của ông Môsê trong sách Xuất Hành : đứng ra thay mặt dân trước nhan Thiên Chúa: trình các việc lên Chúa, dạy cho dân các thánh chỉ, lề luật, đường lối phải đi và cách xử sự (x.Xh 18,19-20).



 

Khi đối chiếu công việc của các tông đồ với công việc của ông Môsê, chúng ta nhận ra nguyên tắc quản trị của người lãnh đạo Dân Chúa : dân là dân của Chúa, nên người thay mặt Chúa lãnh đạo dân phải đứng trước mặt Chúa thay cho dân, trình mọi việc lên Chúa và truyền đạt cho dân các mệnh lệnh của Chúa, ý muốn của Chúa. Dân là đàn chiên của Chúa và Chúa là mục tử, là Đấng chăn dắt It-ra-en. Môsê cũng như những người lãnh đạo chỉ như con chiên đầu đàn đi theo Chúa để cả đoàn chiên đi theo. Câu chuyện vua Đa-vit ra lệnh kiểm tra dân số cho thấy Chúa khẳng định quyền tuyệt đối của Ngài và vai trò của người lãnh đạo. Trong sách E-dê-khi-ên, chương 34, Thiên Chúa quở trách các mục tử Chúa đã đặt lên coi sóc It-ra-en vì họ chỉ lo ăn mà không lo cho sự sống và an toàn của bầy chiên, họ thống trị cách tàn bạo và hà khắc. Ở phần cuối chương này, ngôn sứ lại ví các mục tử tàn bạo như những con chiên mạnh, vừa ăn vừa đạp nát cỏ, khiến những con chiên yếu phải ăn cỏ giập, vừa uống vừa quậy đục nước khiến các con chiên yếu phải uống nước đục. Vây thì người lãnh đạo trong cộng đồng Dân Chúa cũng là chiên được Chúa dùng làm chiên đầu đàn để những chiên khác đi theo. Trách nhiệm của con chiên đầu đàn là phải đi theo đường của Chúa.

 

Đọc trong Cựu Uớc, chúng ta thấy những lúc bí, vua quan và dân chúng tìm đến các tư tế, các ngôn sứ để thỉnh ý Thiên Chúa. Câu chuyện vua Sa-un, lúc đi tìm con lừa cũng đến tìm ngôn sứ Sa-mu-ên để hỏi, rồi đến cuối đời, khi Sa-mu-ên đã chết còn nhờ bà đồng gọi hồn ông lên để hỏi ý Chúa. Câu chuyện vua A-kháp gọi các ngôn sứ để hỏi xem Chúa có cho đi đánh Ga-la-at hay không (x.I Vua, 22). Tình trạng bi đát lên đến tột cùng khi mà cả ngôn sứ cùng là tư tế, lang thang khắp xứ mà không hiểu biết gì (Gr 14,18).



 

Tất cả những minh họa trên đây giúp chúng ta thấy rõ hơn việc quản trị cộng đồng Dân Chúa không đơn thuần là quản trị theo kiểu hành chánh mà phải dựa vào việc tìm kiếm và thi hành ý muốn của Thiên Chúa, tức là theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, Đấng luôn hiện diện và hướng dẫn Dân Chúa.

 

Trở lại sách Công Vụ, đọc tiếp từ chương thứ 8, chúng ta sẽ thấy mỗi bước tiến quan trọng trong sự phát triển của Hội Thánh hay đúng hơn, của Lời Chúa, đều do Thánh Thần trực tiếp chỉ đạo như thế nào. Ông Philip (thuộc nhóm 7 người) được Thánh Thần thúc đẩy chạy theo xe của ông quan người E-ti-op, rồi sau khi rửa tội cho ông quan lớn này, Thần Khí lại đem ông đi và người ta gặp thấy ông ở At-đốt, và ông đi rao gỉang tại các thành phố ven biển cho tới Xê-da-rê. Tác giả cho chúng ta theo ông Phi-lip ngưng tại đây để chuẩn bị đón thánh Phêrô và theo ngài vào một bước thúc đẩy mới của Thánh Thần.



 

Trước khi kể câu chuyện tiếp theo xảy ra ở Xê-da-rê với thánh Phê-rô, tác giả giới thịêu cho chúng ta một nhân vật sẽ đi tiếp bước khai phá của thánh Phêrô, đem Tin Mừng đến tận cùng thế giới, đó là ông Saolô, người có mặt và ủng hộ việc giết ông Tê-pha-nô, nay lại được Chúa chọn để đem Tin Mừng đến tận cùng thế giới.

 

Kế hoạch Chúa Giêsu đích thân đề ra cho các tông đồ là phải làm chứng cho Chúa tại Giêrusalem, Giuđê, Samari và cho đến tận cùng thế giới. Nhưng sau khi đã làm cho Giêrusalem ngập đầy giáo lý của các ông như chính vị Thượng Tế nhìn nhận (x.Cv 5,28), các ông vẫn chưa ra khỏi Giêrusalem. Chính cuộc bách hại mở đầu với cái chết của ông Tê-pha-nô làm cho mọi người tản mác về các vùng quê miền Giu-đê và Sa-ma-ri cùng với nhóm 7 người mới được thành lập, đi đến đâu họ loan báo Tin Mừng đến đấy. Thế là Chúa dùng một biến cố bi đát để thực hiện bước tiếp theo. Khi Tin Mừng đã tới Xê-da-rê, thành phố cảng rất thuận lợi cho buớc đi đến tận cùng thế giới, chúng ta lại thấy các tông đồ vẫn dậm chân tại vùng đất quen thuộc và lui tới với đồng bào Do Thái thôi. Hồi ấy, trong khắp miền Giuđê, Galilê và Samari, Hội Thánh được bình an… Ông Phêrô rảo khắp nơi, xuống thăm cả dân thánh cư ngụ tại Lốt (Cv 9,31-32). Đọc những chương này chúng ta thấy thánh Phêrô và nhóm 12 chưa bao giờ chủ động đi một bước mới.



 

Bước ra khỏi Giêrusalem là do biến cố bách hại thúc đẩy và những người khác thực hiện. Chỉ khi Samari đã lãnh nhận Tin Mừng thì các tông đồ mới cử ông Phêrô và ông Gioan đến xác nhận bằng cách cầu nguyện và đặt tay trên họ để họ nhận được Thánh Thần. Sau khi Hội Thánh đã có mặt và đuợc bình an khắp miền Giuđê, Galilê và Samari, ông Phêrô đi khắp nơi thăm viếng dân thánh, như để xác nhận là bước thứ nhất và bước thứ hai đã hoàn thành, nhưng không hề có dấu hiệu cho thấy ông có ý định đi xa hơn. Câu chuyện ở Xêdarê cho thấy ông chưa bao giờ nghĩ tới chuyện đem Tin Mừng ra ngoài giới đồng bào Do Thái của ông. Nhưng Thánh Thần can thiệp cách quyết liệt bắt ông phải đi đến với người ngoài Do Thái. Thánh Thần đã gởi sẵn người tới đón và phải nói đến lần thứ ba ông mới chịu đi. Một chi tiết cần lưu ý là tại nhà ông Co-nê-li-ô thánh Phêrô giảng, rồi xác nhận rằng không ai có thể ngăn cản việc lấy nước làm phép Rửa cho những người này, bởi vì họ đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta. Thánh Phêrô cũng không tự tay làm phép rửa cho họ mà truyền làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Giêsu.

 

Nhưng sau đó chúng ta lại thấy thánh Phêrô cũng chẳng đi xa hơn. Ngài trở về Giêrusalem đối diện với cộng đòan Hội Thánh tại đây, trả lời cuộc chất vấn: Ông đã vào nhà những kẻ không cắt bì và ngồi ăn uống với họ. Người ta không chất vấn về việc làm phép rửa cho dân ngoại mà chất vấn về việc ông Phêrô vào nhà những kẻ không cắt bì và ngồi ăn uống với họ. Như vậy điều khúc mắc đối với cộng đoàn là làm sao người Do Thái có thể ở cùng nhà, ngồi cùng mâm với những kẻ không cắt bì, dù họ có chịu cùng một phép rửa chăng nữa. Ở chương 6, mới chỉ có hai thành phần Do Thái bản địa và Do Thái thuộc văn hóa Hy Lạp cùng ngồi ăn một mâm mà đã có chuyện không ổn, đến đây lại có cả những kẻ không cắt bì vào ngồi cùng mâm cùng bàn thì sẽ ra sao? Đó là vấn đề gai góc nan giải nhất vẫn kéo dài cho đến ngày nay. Trong bản văn, thánh Phêrô trả lời bằng cách kể lại câu chuyện đã xảy ra, nhấn mạnh hơn vai trò của Thánh Thần bằng cách rút ngắn thời gian rao giảng của ông : tôi vừa mở miệng nói thì Thánh Thần đã ập xuống trên họ như đã xuống trên chúng ta lúc ban đầu. Nghe thánh Phêrô biện minh rồi thì cả cộng đoàn ngộ ra một điều mới mẻ: Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho các dân ngoại ơn sám hối để được sự sống (Cv 11,18). Tuy nhiên nỗi khúc mắc của cộng đoàn Giêrusalem chưa phải đã được giải quyết xong. Chúng ta sẽ gặp lại vấn đề này ở chương 15 sau khi những kẻ không cắt bì gia nhập “đại trà”, nhờ sứ vụ của hai tông đồ Phaolô và Ba-na-ba.



 

Những chương tiếp theo lại cho thấy việc rao giảng Tin Mừng cho người ngoài Do Thái vẫn do những người “di tản” thực hiện và gầy dựng cả một cộng đoàn ở An-ti-o-khi-a. Lần này thì không thấy các tông đồ được cử đến như ở Sa-ma-ri nữa. Chỉ có ông Ba-na-ba, người có tài an ủi được cử đi thăm viếng mà không cần trở về Giêrusalem tường trình.

 

Sau khi dân Sa-ma-ri chịu phép rửa thì vẫn chưa nhận được Thánh Thần (hiểu theo nghĩa sự biểu lộ quyền năng Thánh Thần giống như các môn đệ đã lãnh nhận ngày lễ Ngũ Tuần), phải chờ Giêrusalem cử hai tông đồ Phêrô và Gioan xuống cầu nguyện và đặt tay họ mới nhận được. Tại gia đình Co-ne-li-ô, ông Phêrô vừa mở miệng giảng thì Thánh Thần đã ập xuống trên họ như đã ngự xuống trên chúng ta lúc ban đầu. Còn cộng đoàn An-ti-ô-khi-a, chưa thấy mặt vị nào trong nhóm 12 hay nhóm 7 có mặt, người đem Tin Mừng cho họ lại là mấy người gốc Síp và Ky-rê-nê, thế mà khi tới nơi và thấy ơn Thiên Chúa như vậy ông Ba-na-ba mừng rỡ và khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa. Ông là người tốt, đầy Thánh Thần và lòng tin. Và đã có thêm một đám rất đông theo Chúa (Cv 11,23-24).



 

Những chi tiết trên đây khiến chúng ta phải thắc mắc : tại sao Sa-ma-ri được một vị trong nhóm 7 rao giảng và làm phép rửa mà vẫn chưa nhận được Thánh Thần, phải chờ hai vị trong nhóm 12 tới cầu nguyện và đặt tay mới nhận được? Trong khi các cộng đoàn khác ở xứ Giuđê không thấy cần Tông đồ nào tới đặt tay. Thánh Phê-rô có đi xuống Lốt và Xê-da-rê là để thăm viếng thôi. An-ti-ô-khi-a là cộng đoàn gồm những người Hy-Lạp cũng không thấy phải chờ Tông Đồ nào tới đặt tay. Muốn hiểu điều này chúng ta phải trở lại các sách ngôn sứ. Sự chia rẽ giữa It-ra-en (Sa-ma-ri) và Giu-đa (Giêrusalem) vẫn là một vết nhơ trong lịch sử Dân Thiên Chúa, nên khi loan báo ơn cứu độ, các ngôn sứ thường loan báo sự hiệp nhất. Đặc biệt ngôn sứ E-dê-khi-ên, chương 37,15-28. Khi toàn thể It-ra-en hiệp nhất trong giao ước mới của Thiên Chúa, bấy giờ, các dân tộc sẽ nhận biết Ta là Đức Chúa, Đấng thánh hoá It-ra-en. Sách Cv cho thấy lời ngôn sứ ứng nghịệm khi Giêrusalem và Sa-ma-ri hiệp nhất không phải trên bình diện chính trị, mà trong giao ước mới bằng việc đón nhận cùng một Thánh Thần, trước khi dân ngoại được nghe rao giảng Tin Mừng. Sự hiệp nhất giữa Giêrusalem và Sa-ma-ri là dấu hiệu, là bằng chứng để dân ngoại nhận biết Thiên Chúa. Như vậy chủ đề sự hiệp nhất của Dân Chúa như là bằng chứng để dân ngoại nhận biết Thiên Chúa mà Ga 17 khai triển thì sách  Cv đã vận dụng ở đây rồi. Đó là lý do tại sao sách Cv phân biệt giữa cách thức Sa-ma-ri và các cộng đoàn khác nhận được Thánh Thần.

 

Trở lại câu chuyện cộng đoàn An-ti-ô-khi-a và ông Ba-na-ba. Ông Ba-na-ba là người tốt, đầy lòng tin và Thánh Thần. Đó chính là lý do tại sao ông nhận ra ơn Thiên Chúa nơi cộng đoàn An-ti-ô-khi-a. Đó cũng là lý do khiến ông lập tức trở thành người lãnh đạo cộng đoàn, và sự hiện diện của ông kéo thêm được một đám rất đông theo Chúa (Cv 11,24). Ông lấy sáng kiến đi tìm ông Saulô về An-ti-ô-khi-a. Hai ông cùng làm việc trong Hội Thánh ấy suốt một năm và giảng dạy cho rất nhiều người (11,26). Đó là cách Thánh Thần chuẩn bị để An-ti-ô-khi-a trở thành bàn đạp cho việc đưa Tin Mừng đến tận cùng thế giới, và hai ông Ba-na-ba và Saulô trở thành hai người đuợc Thánh Thần đích thân sai đi đem Tin Mừng cho dân ngoại. Sách Công Vụ cho chúng ta cảm tưởng là cộng đoàn An-ti-ô-khi-a được Thánh Thần trực tiếp lãnh đạo thông qua các ngôn sứ và thày dạy (Cv 13,1-3).



 

Đến đây chúng ta hãy trở lại một sự việc ở đầu chương 8: hồi ấy Hội Thánh tại Giêrusalem trải qua một cơn bắt bớ dữ dội. Ngoài các tông đồ ra, mọi người đều phải tản mác về các vùng quê miền Giu-đê và Sa-ma-ri. Có cái gì như “ngược đời” ở đây : từ đầu tới giờ các tông đồ là đối tượng chính của các vụ bắt bớ, nay thì mọi người phải tản mác về các vùng quê còn các tông đồ ở lại Giêrusalem. Dường như tác giả dàn dựng để làm nổi bật vai trò của các Tông Đồ trong giai đoạn Hội Thánh phát triển ra ngoài Giêrusalem như chúng ta vừa lược qua. ĐHY C.M.Martini coi giai đoạn từ chương 6 đến chương 15 trong sách Cv là giai đoạn Hội Thánh chuyển mình để có thể đem Tin Mừng đến tận cùng mặt đất. Việc thiết lập nhóm 7 là bước chuyển mình về cơ cấu, cuộc bách hại sau cái chết của ông Tê-pha-nô là cơ hội giúp Tin Mừng ra khỏi một Giêrusalem đã “đầy giáo lý của các tông đồ” : những người phải tản mác này đi khắp nơi loan báo Lời Chúa (Cv 8,4). Tác giả không quan tâm giải thích cho chúng ta tại sao cuộc bách hại dữ dội nổ ra mà các tông đồ ở lại Giêrusalem trong khi mọi người đều phải tản mác, nhưng suốt những chương tiếp theo tác giả cho thấy các tông đồ sẽ đóng vai trò “phê chuẩn” từng buớc của sự phát triển, bảo đảm tính thống nhất và duy nhất của Tin Mừng: dù được loan báo tại Giêrusalem, Sa-ma-ri, An-ti-o-khi-a hay Rôma thì cũng là một Tin Mừng mà Chúa Giêsu đã trao cho các Tông Đồ loan báo, cũng vì thế mà sau này mỗi chuyến đi truyền giáo của thánh Phaolô đều kết thúc tại Giêrusalem và lại bắt đầu từ Giêrusalem. Chuyến đi cuối cùng của thánh Phaolô cũng bắt đầu từ Giêrusalem trong tư thế một người tù.

 

Chúng ta hãy điểm lại những chặng chính. Cv 8,14: các tông đồ ở Giêrusalem nghe biết dân miền Sa-ma-ri đã đón Lời Thiên Chúa, thì cử ông Phêrô và ông Gioan đến với họ. Việc họ nhận được ThánhThần do lời cầu nguyện và cử chỉ đặt tay của hai tông đồ như một dấu ấn xác nhận quả thật Lời Chúa đã đến với Sa-ma-ri đúng như Chúa Giêsu đã chỉ thị, dù không phải do các tông đồ đích thân loan báo. Sự việc này cũng xác nhận rằng việc Phục Vụ Lời Chúa không phải là “độc quyền” của nhóm 12 nữa.



 

Cv 10,44-48: Ông Phêrô còn đang nói những điều đó, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe Lời Thiên Chúa… Bấy giờ ông Phêrô nói rằng: Những người này đã nhận được ThánhThần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?  Rồi ông truyền làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Sau đó họ xin ông ở lại ít ngày. Tại Giêrusalem trong ngày lễ Ngũ Tuần, ông Phêrô đã giải thích việc Thánh Thần ngự xuống trên các ông như là bằng chứng về việc Đức Giêsu đã được tôn vinh, được đặt làm Chúa. Tại nhà ông Co-ne-li-ô, ông giải thích việc Thánh Thần ngự xuống trên tất cả những người dân ngoại đang nghe lời Thiên Chúa như là bằng chứng Thiên Chúa chấp nhận họ cũng như đã chấp nhận người Do Thái. Ông không tự tay làm phép rửa mà truyền làm phép rửa cho họ. Ông Phêrô nhận định và giải thích tác động của Thánh Thần, rút ra kết luận. Việc ông Phêrô truyền làm phép rửa cho những người ngoại đầu tiên đón nhận Lời Thiên Chúa được nêu lên ở đây có giá trị xác nhận việc rao giảng Lời Chúa và làm phép rửa cho dân ngoại, đón nhận họ vào Hội Thánh. Sau này tại Công Nghị Giêrusalem (Cv 15), thánh Phêrô sẽ nhắc lại kinh nghiệm này và tự coi là người được chọn từ đầu để các dân ngoại được nghe lời Tin Mừng từ miệng tôi mà tin theo.

 

Ở chương 11, thánh Phêrô bị cộng đoàn Giêrusalem chất vấn, không phải về việc làm phép rửa cho người ngoại, nhưng về việc “vào nhà kẻ không cắt bì và cùng ăn uống với họ”, ngài bình tĩnh kể lại đầu đuôi sự việc và giúp cho cả cộng đoàn đi vào tiến trình nhận định với ngài, kết quả là mọi người đều nhận ra tác động của Thánh Thần, cùng “à” lên một tiếng thoải mái.



 

Đến đây kinh nghiệm nhận định của thánh Phêrô và cộng đoàn Giêrusalem đã đủ để Hội Thánh Giêrusalem có thể chấp nhận cộng đoàn gốc dân ngoại An-ti-o-khi-a. Vì thế họ không cần phải cử các tông đồ đến đó, nhưng cử ông Ba-na-ba, người có tài an ủi, người truớc đây đã làm môi giới cho các môn đệ ở Giêrusalem chấp nhận ông Sau-lô (x.Cv 9,26-30). Sứ mạng của ông Ba-na-ba không phải là đi kiểm tra, bởi vì ông không trở về báo cáo cho Giêrusalem, mà trẩy đi Tac-xô tìm ông Sau-lô, mời về An-ti-o-khi-a để cùng nhau phục vụ cộng đoàn. Vậy thì ta có thể hiểu sứ mạng của ông Ba-na-ba đúng như cái tên các tông đồ đã đặt cho ông, là an ủi, khích lệ, củng cố cộng đoàn non trẻ này. Ông cũng khởi đi từ một sự nhận định: thấy ơn thiên Chúa như vậy…

 

Đến đây ta có thể nhận ra cung cách lãnh đạo của các tông đồ đã thay đổi như thế nào từ chưong thứ 6 trong sách Công vụ. Bước đầu là chia sẻ công việc cho nhóm 7 để có thể phục vụ tốt hơn, bước tiếp theo là nhận định và xác nhận tác động của Thánh Thần, giúp cộng đoàn nhận định và vâng phục Thánh Thần: mọi người đã đón nhận Tin Mừng đều có thể rao giảng Tin Mừng và mọi người đều có quyền được nghe loan báo Tin Mừng. Chúng ta có thể rút ra một hệ luận rất quan trọng liên quan tới vai trò của giáo dân trong Hội Thánh: sáng kiến của những người tín hữu phải tản mác khỏi Giêrusalem, đi tới đâu loan báo Lời Chúa đến đó, không những ở miền quê xứ Giuđê và Sa-ma-ri (x.Cv 8,1.4) mà cả Phê-ni-xi, đảo Síp và An-tio-khi-a, không những cho người Do Thái và cả người Hy-Lạp nữa (x.Cv 11,19-20), và họ thu được kết quả: vì có bàn tay Chúa ở với họ, nên một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa (Cv 11,21). Chúa xác nhận rằng việc họ làm là do Chúa thúc đẩy, các tông đồ hoặc người được cử đi như ông Ba-na-ba “thấy ơn Thiên Chúa… thì mừng rỡ” (Cv 11,23). Vậy thì trong Hội Thánh sáng kiến không chỉ đến từ người lãnh đạo mà cả từ phía gíao dân nữa. Thánh Thần tác động nơi mọi thành phần của Hội Thánh, nhưng người lãnh đạo phải nhận định xem có đúng là “bàn tay của Chúa” không.


Còn tiếp nhiều kỳ

VỀ MỤC LỤC



tải về 499.54 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương