BỘ thông tin và truyềN thông cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc



tải về 211.45 Kb.
trang1/2
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích211.45 Kb.
#30175
  1   2

BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM





Độc lập - Tự do - Hạnh phúc







Số: 05 /BC-BTTTT

Hà Nội, ngày 20 tháng 01 năm 2012

BÁO CÁO

Đánh giá 6 năm thi hành Luật Xuất bản và việc chuẩn bị sửa đổi Luật

Luật Xuất bản số 30/2004/QH11 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2005 (Luật Xuất bản). Ngày 03 tháng 6 năm 2008, Luật Xuất bản đã được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3 thông qua việc sửa đổi, bổ sung nội dung của 8/46 điều (Luật số 12/2008/QH12) để thực thi cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tăng cường chế tài trong xử lý vi phạm và kịp thời điều chỉnh đối với một số vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Qua 6 năm thi hành, Luật Xuất bản và các văn bản quy định chi tiết đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất bản phát triển nhanh, mạnh cả về số lượng và chất lượng, phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị của đất nước và góp phần cải thiện, nâng cao nhu cầu đọc của nhân dân.

Tuy nhiên, trong quá trình thực thi, bên cạnh những mặt ưu điểm, tích cực cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề mới trong thực tiễn. Một số quy định trong Luật Xuất bản và các văn bản dưới luật còn thiếu cụ thể, thiếu đồng bộ với một số luật có liên quan, một số quy định không còn phù hợp với thực tiễn hoạt động xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm gây ra những khó khăn, vướng mắc trong công tác quản lý nhà nước cũng như việc chấp hành, thực thi pháp luật.

Báo cáo này đánh giá 6 năm thi hành Luật Xuất bản và tình hình chuẩn bị sửa đổi Luật như sau:



I. TÌNH HÌNH THI HÀNH LUẬT XUẤT BẢN 6 NĂM QUA

1. Công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Xuất bản và tình hình thi hành Luật trong xã hội

1.1. Về công tác tuyên truyền, phố biến Luật Xuất bản

Sau khi Luật Xuất bản được Chủ tịch nước ký lệnh công bố, Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông) đã chỉ đạo các cơ quan báo chí, truyền thông, một số nhà xuất bản đăng tải toàn văn nội dung của Luật nhằm phổ biến rộng rãi đến các đối tượng điều chỉnh cũng như các tầng lớp nhân dân ở trong và ngoài nước; Xuất bản 02 cuốn tài liệu “Luật Xuất bản và các văn bản quy định chi tiết thi hành” và “Một số văn bản quản lý, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về hoạt động xuất bản” với số lượng in lớn để phục vụ các hội nghị, lớp tập huấn cho các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của Luật.

Bên cạnh đó, Bộ cũng đã mời các báo cáo viên và trực tiếp tổ chức nhiều buổi truyền đạt, giới thiệu về Luật Xuất bản và các văn bản hướng dẫn thi hành cho lãnh đạo và cán bộ quản lý của các Sở Văn hóa-Thông tin, Sở Thông tin và Truyền thông (sau khi thành lập Bộ Thông tin và Truyền thông), lãnh đạo và cán bộ quản lý, cán bộ biên tập các nhà xuất bản, cơ sở in, công ty phát hành để giúp cho những người hoạt động trong ngành Xuất bản, In, Phát hành xuất bản phẩm nắm vững và thực thi tốt nhiệm vụ chuyên môn của mình.

Trong chương trình đào tạo đại học, cao đẳng về chuyên ngành xuất bản, in, phát hành cũng đã được các cơ sở đào tạo quan tâm cập nhật và chỉnh sửa giáo trình cho phù hợp với các nội dung của Luật Xuất bản. Tiếp đó, một số bộ, ngành, tỉnh, thành phố trong cả nước cũng đã chủ động xuất bản tài liệu giới thiệu về Luật Xuất bản, có tài liệu còn được xuất bản song ngữ Anh-Việt, đồng thời tổ chức nhiều lớp tập huấn nghiệp vụ cho các đối tượng liên quan để tìm hiểu và nắm bắt các quy định của Luật.

Có thể nói, công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Xuất bản đã được nhiều ngành, nhiều cấp quan tâm thực hiện một cách tương đối liên tục, thường xuyên và đã phát huy được hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc tổ chức thực hiện, thi hành Luật Xuất bản trong toàn xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh những cố gắng và kết quả nêu trên, công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Xuất bản vẫn còn một số hạn chế, tồn tại nhất định, đó là: Các hình thức tuyên truyền chưa thật phong phú, đa dạng và hấp dẫn người nghe, chủ yếu là phát tài liệu và báo cáo viên truyền đạt trực tiếp, thiếu những minh họa bằng hình ảnh, âm thanh hoặc các hình thức khác; việc truyền đạt, phổ biến Luật còn chưa chú ý đến đặc điểm, trình độ của từng đối tượng người nghe cụ thể, nhất là các đối tượng ở vủng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo chưa được phổ biến quán triệt đầy đủ... Qua đó, dẫn đến một số tổ chức, cá nhân, ngay cả các cơ quan, tổ chức ở trung ương, tỉnh, thành phố cũng chưa nhận thức đầy đủ và nắm vững về Luật Xuất bản, thậm chí còn quan niệm xuất bản chỉ là việc của các nhà in, không cần thiết phải thông qua nhà xuất bản, không chấp hành quy định về lưu chiểu, cũng như vi phạm các quy định khác của Luật. Một số cơ quan chủ quản nhà xuất bản còn nhận thức chưa đúng vị trí, vai trò và đặc biệt là trách nhiệm của mình đối với nhà xuất bản trực thuộc, buông lỏng quản lý, ít chú trọng đến công tác định hướng và phê duyệt kế hoạch xuất bản, bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo chủ chốt của nhà xuất bản chưa đúng quy trình Luật định, thiếu quan tâm đến việc tạo các điều kiện cần thiết (trụ sở, vốn, nhân sự...) cho nhà xuất bản hoạt động, bỏ mặc nhà xuất bản tự xoay sở, chạy theo lợi ích kinh tế, xa rời chức năng, nhiệm vụ, tôn chỉ, mục đích và một số nhiệm vụ chính trị của công tác xuất bản. Chính những sai phạm đó đều có một phần nguyên nhân từ công tác tuyên truyền, nhận thức, nắm bắt và thực thi các quy định của Luật Xuất bản một cách chưa đầy đủ và nghiêm túc.



1.2. Về tình hình thi hành Luật Xuất bản trong xã hội

Qua việc cố gắng trong công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Xuất bản như đã nêu, trong những năm qua nhận thức của các tầng lớp nhân dân về Luật Xuất bản đã có những chuyển biến tích cực, rõ nét. Nhân dân đã hiểu rõ hơn về quyền được hưởng thụ xuất bản phẩm một cách chính đáng, hợp pháp và yêu cầu, đòi hỏi nhà xuất bản phải không ngừng nâng cao chất lượng xuất bản phẩm cả về nội dung và hình thức. Các tác giả, chủ sở hữu tác phẩm cũng đã hiểu hơn quy định về công bố tác phẩm là phải thông qua nhà xuất bản. Các cơ quan nhà nước, tổ chức trong xã hội cũng đã biết về việc phải có giấy phép xuất bản tài liệu không kinh doanh do Cục Xuất bản, Sở Văn hóa-Thông tin (nay là Sở Thông tin và Truyền thông) cấp mới được thực hiện. Các doanh nghiệp trong lĩnh vực in và doanh nghiệp nhập khẩu xuất bản phẩm đã nắm bắt được các điều kiện Luật định để được tham gia in các xuất bản phẩm và nhập khẩu xuất bản phẩm để kinh doanh, v.v...

Nhiều bạn đọc, người tiêu dùng do hiểu rõ quy định của Luật Xuất bản cũng đã gửi đơn, thư đến các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản, các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan báo chí để phản ánh các hiện tượng, hành vi vi phạm Luật Xuất bản như: Xuất bản trái phép, tàng trữ, lưu hành xuất bản phẩm không hợp pháp, vi phạm quyền tác giả... Điều này đã góp phần tích cực đưa hoạt động xuất bản vào nề nếp, nâng cao chất lượng và hiệu quả của xuất bản phẩm phục vụ nhân dân.

Tuy vậy, việc thi hành Luật Xuất bản trong 6 năm qua vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế đó là: Xuất bản tác phẩm không thông qua nhà xuất bản; Nạn in lậu, in trái phép, vi phạm quyền tác giả diễn ra khá phổ biến; Vẫn còn hiện tượng in ấn, sao chụp trái phép và phát tán các tài liệu sai trái, bất hợp pháp; Phát hành xuất bản phẩm nội dung bị cấm, mê tín dị đoan vẫn chưa được ngăn chặn kịp thời và triệt để gây bức xúc trong dư luận xã hội. Tình trạng “xóa sổ” dần hệ thống cửa hàng, hiệu sách cấp huyện, xã tại hầu hết các địa phương do nhận thức về hoạt động xuất bản còn chưa đầy đủ và sâu sắc, coi công tác phát hành xuất bản phẩm như một ngành kinh doanh hàng hóa thông thường; Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ hoạt động xuất bản phát triển chưa được quan tâm đúng mức và ban hành kịp thời...



2. Tình hình thi hành Luật Xuất bản của các nhà xuất bản, các cơ sở in và phát hành sách

2.1. Các nhà xuất bản

a) Những mặt được:

Luật Xuất bản và các văn bản hướng dẫn thi hành có hiệu lực đã tạo hành lang pháp lý cơ bản và điều chỉnh toàn diện hoạt động xuất bản. Nhìn chung, các nhà xuất bản thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích hoạt động, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan chủ quản; đáp ứng được yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị của từng ngành, từng địa phương, góp phần khẳng định vị trí quan trọng của hoạt động xuất bản trong đời sống xã hội.

Các nhà xuất bản đã xây dựng quy trình hoạt động đảm bảo đúng quy định pháp luật nhằm mục đích ngày càng mang đến nhiều xuất bản phẩm có nội dung tốt, phục vụ xã hội, thực hiện tốt hai nhiệm vụ: phục vụ nhiệm vụ chính trị, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người đọc và đảm bảo hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.

Sau khi Luật Xuất bản được ban hành, vai trò của tư nhân trong liên kết xuất bản được thừa nhận về mặt pháp lý. Vai trò của tư nhân ngày càng mạnh lên không chỉ ở sự chi phối bằng vốn mà bằng cả sự năng động trong việc tìm kiếm bản thảo, mua bản quyền và tổ chức phát hành. Chính vì vậy, diện mạo thị trường xuất bản phẩm khởi sắc cả về số lượng và chất lượng. Nội dung và thể loại xuất bản phẩm ngày càng phong phú, đa dạng hơn.

Những năm gần đây, nhiều bộ sách có giá trị cao thuộc nhiều lĩnh vực như sách nghiên cứu về chính trị, sách văn hoá xã hội, sách khoa học công nghệ, sách kinh tế và quản lý kinh tế trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế được xuất bản; cơ cấu đề tài phân bố hợp lý, bám sát và phục vụ có hiệu quả những nhiệm vụ chính trị trọng tâm của đất nước, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của bạn đọc. Ví dụ: các văn kiện Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ X, XI và các Hội nghị Trung ương, tuyên truyền việc Việt Nam gia nhập WTO và các hội nghị cấp cao mà Việt Nam là thành viên và nước đăng cai, phục vụ tốt cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, những ngày kỷ niệm lớn của dân tộc.

Việc mở rộng đối tượng và điều kiện được phép thành lập nhà xuất bản cũng đã tạo sự gia tăng nhanh chóng về số lượng nhà xuất bản trên toàn quốc. Năm 2004 có 45 nhà xuất bản, năm 2011 là 64 nhà xuất bản. Tuy các nhà xuất bản mới thành lập hoạt động chưa có sức bật mạnh nhưng cũng có một số nhà xuất bản tìm được đường hướng chuyên nghiệp trong hoạt động, tạo được thương hiệu, thế mạnh riêng trong lòng bạn đọc như: Tri thức, Đại học Quốc gia Hà Nội…

Nhịp độ phát triển chung về số lượng xuất bản phẩm hàng năm tăng (khoảng 5% - 10%).

b) Hạn chế, tồn tại:

Hoạt động có hiệu quả trong cơ chế thị trường là bài toán khó đối với các nhà xuất bản. Cơ chế thị trường đối với hoạt động xuất bản có những mặt tích cực là thúc đẩy sự phát triển để cạnh tranh, phá bỏ độc quyền, tạo nguồn sản phẩm xuất bản dồi dào cho xã hội mà đối tượng hưởng lợi chính là người đọc. Tuy nhiên, các nhà xuất bản luôn phải “loay hoay” để xuất bản phẩm đưa ra thị trường vừa đảm bảo được nhiệm vụ tuyên truyền tư tưởng đúng định hướng lại vừa đảm bảo đáp ứng nhu cầu người đọc để đạt mục tiêu lợi nhuận để tồn tại và duy trì hoạt động. Nhưng trên thực tế, nhiều nhà xuất bản thiếu vốn, thiếu nguồn nhân lực nên chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc.

Về góc độ pháp lý, Luật Xuất bản đã bộc lộ nhiều bất cập, thiếu chặt chẽ, chưa phù hợp nhằm ổn định và thúc đẩy hoạt động xuất bản phát triển. Vì vậy việc thực thi, chấp hành Luật cũng chưa nghiêm minh và chưa thật hiệu quả. Từ đó dẫn đến nhiều hạn chế, tồn tại có thể coi là kìm hãm sự phát triển của các nhà xuất bản:

- Theo quy định của Luật Xuất bản, các nhà xuất bản được tổ chức và hoạt động theo hai loại hình: doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện hoặc đơn vị sự nghiệp có thu. Nhưng trên thực tế, 64 nhà xuất bản lại được tổ chức hoạt động với nhiều mô hình khác nhau, tùy thuộc vào cơ quan chủ quản, cụ thể: 22 nhà xuất bản tổ chức hoạt động theo loại hình doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện, 41 nhà xuất bản tổ chức hoạt động theo đơn vị sự nghiệp (trong đó có 10 nhà xuất bản tự trang trải một phần chi phí, 31 nhà xuất bản tự trang trải 100% chi phí).

Ngoài các mô hình tổ chức nói trên, hiện nay do việc chuyển đổi, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, một số nhà xuất bản chuyển sang mô hình tổ chức hoạt động không nằm trong sự điều chỉnh của Luật Xuất bản như Công ty mẹ - Công ty con (Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam) hoặc chuyển đổi sang Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 100% vốn Nhà nước đối với tất cả các nhà xuất bản thuộc loại hình doanh nghiệp theo lộ trình thực hiện Luật Doanh nghiệp năm 2005. Điều này tác động nhiều đến tôn chỉ mục đích của các nhà xuất bản, vì nếu chỉ coi các nhà xuất bản là doanh nghiệp thuần túy thì các nhà xuất bản luôn phải đặt hiệu quả kinh tế trên hiệu quả chính trị, xã hội.

Như vậy, mô hình hoạt động, tổ chức của các nhà xuất bản chưa thống nhất để có thể đưa ra cơ chế chính sách chung, sao cho các nhà xuất bản đều được hưởng những cơ chế chính sách một cách hợp lý. Ngay trong nội tại mô hình tổ chức và hoạt động của các nhà xuất bản hiện nay cũng đang tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng, chưa tạo điều kiện thuận lợi để một số nhà xuất bản phát huy hết nội lực của mình để phát triển (vì trong mô hình một số nhà xuất bản hiện nay không chỉ có hoạt động xuất bản mà còn hoạt động cả phát hành, in và các dịch vụ khác như truyền thông, bản quyền, dịch thuật, kinh doanh tài chính...).

Trước yêu cầu phát triển sự nghiệp xuất bản trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước đã ban hành một số văn bản liên quan đến hoạt động xuất bản để điều chỉnh từng mặt của hoạt động xuất bản như: Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 25 tháng 08 năm 2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản, văn bản số 289-TB/TW ngày 04 tháng 12 năm 2009 thông báo kết luận của Ban Bí thư Trung ương Đảng về xây dựng mô hình nhà xuất bản trước yêu cầu mới.

Vì vậy, trong sửa đổi Luật Xuất bản lần này cần xem xét xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của nhà xuất bản đúng với định hướng của Đảng, quy định pháp luật của Nhà nước và thực tiễn hoạt động của nhà xuất bản trong thời gian qua.

- Cơ quan chủ quản của các nhà xuất bản chưa quan tâm, tạo điều kiện đúng mức như không cấp vốn, trụ sở, cơ sở vật chất khác, đào tạo và quy hoạch nguồn nhân lực, tháo gỡ khó khăn kịp thời cho nhà xuất bản. Khó khăn trước mắt luôn đeo bám các nhà xuất bản là thiếu vốn, thiếu cơ chế hoạt động thích hợp. Thực tế, chỉ có rất ít cơ quan chủ quản vận dụng được cơ chế hỗ trợ có hiệu quả cho nhà xuất bản. Việc trực thuộc cơ quan chủ quản của các nhà xuất bản địa phương cũng không đồng nhất làm ảnh hưởng đến địa vị pháp lý của các nhà xuất bản, có tỉnh thì nhà xuất bản thuộc tỉnh ủy hoặc ủy ban nhân dân tỉnh, có tỉnh lại thuộc Sở Thông tin và Truyền thông.

- Vấn đề liên kết trong hoạt động xuất bản đang vượt khỏi tầm kiểm soát của chính các nhà xuất bản cũng như của cơ quan quản lý nhà nước. Đó là tình trạng yếu về tài chính, nhân lực để tổ chức bản thảo, mua bản quyền, đặc biệt là các nhà xuất bản rất khó khăn trong khâu đầu ra, ngược lại các đối tác liên kết lại rất mạnh về những mặt này. Thậm chí nhiều nhà sách và công ty trách nhiệm hữu hạn đã “tổ chức” khép kín cả ba khâu: khai thác bản thảo, in và phát hành. Trong khi đó, trước áp lực cạnh tranh giữa các nhà xuất bản và lo đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên, nhiều nhà xuất bản đã hạ giá quản lý phí, buông lỏng quản lý, không tuân thủ đúng quy định về bản quyền tác giả, quy trình biên tập và đọc duyệt bản thảo, duyệt phát hành, không giám sát đối tác liên kết, phó thác hoàn toàn sản phẩm liên kết cho đối tác quyết định. Một số đối tác liên kết cũng lạm dụng sự buông lỏng của nhà xuất bản đã tự tung tự tác, không nghiêm túc thực hiện đúng các điều khoản cam kết trong hợp đồng với nhà xuất bản như: Tự tăng số lượng in, không nộp lưu chiểu, thậm chí thay đổi tên và nội dung bản thảo dẫn đến tình trạng còn có không ít xuất bản phẩm kém chất lượng và sai phạm về nội dung vẫn được xuất bản. Theo thống kê, đại đa số các nhà xuất bản có thực hiện liên kết, có nhà xuất bản liên kết xuất bản đến 90% trong tổng số xuất bản phẩm của mình và các vi phạm các quy định của Luật Xuất bản trong thời gian vừa qua đều tập trung ở xuất bản phẩm liên kết.

Như vậy, trong quá trình thực hiện liên kết để xuất bản, in, phát hành từng xuất bản phẩm, đối tác liên kết đã chiếm thế chủ động và chi phối cả đầu vào và đầu ra, trong khi quyền xuất bản và phát hành từng xuất bản phẩm lại thuộc quyết định của nhà xuất bản. Như vậy, vô hình trung các nhà xuất bản đã trở thành “người làm thuê”, làm “dịch vụ” cho đối tác liên kết. Do vậy, trong Luật Xuất bản sửa đổi lần này, quy định trách nhiệm rõ, đến cùng của đối tác liên kết nếu xuất bản phẩm bị vi phạm cũng bị xử lý theo quy định của luật này và các pháp luật có liên quan.

- Việc đăng ký kế hoạch xuất bản, nộp và đọc kiểm tra xuất bản phẩm lưu chiểu cũng thể hiện nhiều bất cập và vướng mắc. Ngoài các xuất bản phẩm của các nhà xuất bản chuyên ngành được nhà nước tài trợ đặt hàng thì phần lớn các nhà xuất bản hầu như chưa chủ động xây dựng kế hoạch đề tài sẽ xuất bản trong năm. Nguyên nhân do khó khăn về vốn, không chủ động về nguồn bản thảo, tác động cung cầu của thị trường… Vì vậy, việc thực hiện đăng ký kế hoạch xuất bản theo năm của nhà xuất bản chỉ là hình thức “xếp chỗ”, đăng ký “ảo” các tên sách rất chung chung, dẫn đến kết quả thực hiện kế hoạch năm đa số các nhà xuất bản chỉ đạt tỷ lệ dưới 30%. Ví dụ: năm 2010, toàn ngành được xác nhận đăng ký kế hoạch xuất bản là 52.829 tên xuất bản phẩm nhưng chỉ thực hiện được 17.349.

- Điều 27 Luật Xuất bản 2004 quy định ít nhất 10 ngày trước khi phát hành, nhà xuất bản phải nộp lưu chiểu cho cơ quan quản lý nhà nước. Đây là thời gian để cơ quan quản lý nhà nước đọc kiểm tra để phát hiện và ngăn chặn kịp thời các cuốn sách có vi phạm không phát hành ra thị trường. Nhưng trên thực tế, với số lượng đầu sách xuất bản rất lớn (trung bình 20 - 25.000 đầu sách/năm) ở nhiều chủ đề, lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội thì thời hạn 10 ngày với nhân lực đọc kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước như hiện nay thì việc phát hiện xuất bản phẩm vi phạm đạt hiệu quả thấp.

Ngoài ra, về phía các nhà xuất bản thì thời gian 10 ngày lại là quá dài, làm cho thời điểm phát hành không đảm bảo tính thời sự của sách cũng như mất cơ hội cạnh tranh nên có thể làm giảm hiệu quả kinh tế. Đặc biệt, với những nhà xuất bản ấn hành xuất bản phẩm nhiều tập theo định kỳ như: truyện tranh, sách chuyên đề giải trí (1 tuần /1 tập) thì thời hạn sau 10 ngày nộp lưu chiểu mới được phát hành là không hợp lý. Chính vì vậy dẫn đến tình trạng các nhà xuất bản phát hành trước khi nộp lưu chiểu hoặc sớm hơn thời hạn 10 ngày đã xảy ra khá phổ biến.



2.2. Các cơ sở in

a) Những mặt được:

Luật Xuất bản năm 2004 ra đời và có hiệu lực đã làm thay đổi căn bản hoạt động in, từ những tư duy phụ thuộc nhiều về chính trị, tư tưởng, văn hóa chuyển sang một nhận thức mới mẻ và thông thoáng hơn, cân bằng hài hòa giữa hai nhiệm vụ quan trọng là vừa phục vụ nhiệm vụ chính trị, vừa sản xuất kinh doanh để tái đầu tư, phù hợp với quy luật phát triển của từng thời kỳ. Nhà nước thay đổi phương thức quản lý, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động in, nhằm thu hút nguồn lực đầu tư của xã hội để phát triển ngành in, phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy có nhiều cơ chế cởi mở thông thoáng hơn, nhưng hoạt động in vẫn được coi là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, bởi nó vẫn là công cụ, phương tiện để sản xuất những sản phẩm có nội dung văn hóa, tư tưởng.

Do được cởi mở hơn về hành lang pháp lý nên số lượng cơ sở in được thành lập mới tăng rất nhanh. Trước năm 2004, cả nước có 162 cơ sở in (tất cả đều của nhà nước), đến năm 2010 đã có gần 1.500 cơ sở in (thuộc mọi thành phần kinh tế), giải quyết việc làm cho hơn 4 vạn lao động trong ngành. Về công nghệ in được chuyển đổi từ in typo lạc hậu sang in offset hiện đại hơn, in ra các sản phẩm có chất lượng hoàn hảo hơn, giá trị gia tăng nhiều hơn, đáp ứng thời gian nhanh gấp nhiều lần. Sản lượng trang in tiêu chuẩn hàng năm của toàn ngành tăng nhanh, trên dưới 10%/năm. Năm 2004, đạt khoảng 476 tỷ trang in 13 cm x 19 cm, đến năm 2010 đạt khoảng gần 900 tỷ trang in 13cm x 19cm. Ngành in đáp ứng hầu hết nhu cầu in trong nước và bước đầu tiếp cận thị trường thế giới, nhận in gia công cho nước ngoài với chất lượng kỹ thuật in đa dạng, phức tạp ở trình độ cao. Đặc biệt, đã đầu tư được 8 điểm in báo Đảng với những công nghệ, thiết bị, kỹ thuật cao, được phân bố phù hợp theo vùng, lãnh thổ, có khả năng đáp ứng nhanh nên các địa phương trong cả nước, kể cả một số vùng sâu, vùng xa đã có được báo Đảng trong ngày. Đã hình thành mạng lưới in quốc gia gồm 2 trung tâm và 8 trọng điểm về in.



  1. Hạn chế, tồn tại

Trước khi Luật Xuất bản năm 2004 ra đời, Nhà nước quản lý toàn diện hoạt động in, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, toàn diện giúp cho việc quản lý hoạt động in đạt hiệu quả, hạn chế thấp nhất việc in lậu, in giấy tờ giả, bao bì, nhãn hàng hóa giả, văn bằng giả... Đến Luật Xuất bản năm 2004 chỉ điều chỉnh hoạt động in xuất bản phẩm, không điều chỉnh các hoạt động in các sản phẩm khác, trong đó có cả hoạt động in báo chí, in giấy tờ quản lý của nhà nước rất quan trọng như: chứng minh thư, hộ chiếu, văn bằng, chứng chỉ, giấy tờ tùy thân, giấy tờ có giá, hóa đơn tài chính...

Do các quy định về thành lập cơ sở in thông thoáng, dễ dàng nên số lượng cơ sở in tăng nhanh, dẫn đến cung vượt cầu, thị trường cạnh tranh gay gắt, nhà nước chưa có biện pháp quản lý hữu hiệu, nạn in lậu gia tăng. Nhiều cá nhân không có nghề, không có kinh nghiệm vẫn bỏ tiền đầu tư, sau một thời gian hoạt động không hiệu quả, khó cạnh tranh, phải giải thể, gây thiệt hại cho cá nhân và xã hội. Thành lập nhiều cơ sở in ảo, không có thật làm ảnh hưởng đến việc thống kê nội lực toàn ngành dẫn đến việc xây dựng quy hoạch, đầu tư phát triển kém hiệu quả. Nhiều cơ sở in nhập khẩu thiết bị quá cũ, không đảm bảo chất lượng sản phẩm in và làm ảnh hưởng đến môi trường. Một số hoạt động in bị buông lỏng quản lý do thiếu cơ chế hành chính, dẫn đến khó kiểm soát, vi phạm pháp luật gia tăng.

Nguyên nhân là do nóng vội thu hút đầu tư để hiện đại hóa ngành in, bãi bỏ nhiều thủ tục hành chính. Các cơ sở in không thuộc diện cấp phép hoạt động in, khi thành lập và hoạt động, cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động in không biết, kể cả địa chỉ nơi sản xuất cũng không nắm được (theo báo cáo tại Hội nghị tổng kết 3 năm hoạt động In, cả nước có gần 1500 cơ sở in nhưng chỉ có 717 cơ sở in có báo cáo). Điều này không những gây khó khăn cho công tác thống kê mà còn không có cơ sở chính xác để xây dựng chính sách, quy hoạch ngành In. Hơn nữa, các quy định về hồ sơ và thủ tục cấp phép thành lập cơ sở in quá đơn giản, dễ dãi, không thu phí dẫn đến nhiều cá nhân thành lập cơ sở in ảo. Chưa có tiêu chuẩn kỹ thuật về thiết bị in nên việc nhập khẩu thiết bị cũ là không thể kiểm soát, vì vậy không tránh khỏi thiết bị quá cũ (rác của nước ngoài) được nhập khẩu vào Việt Nam làm ảnh hưởng không nhỏ đến nền công nghiệp nước nhà. Do vậy, trong lần sửa đổi Luật Xuất bản lần này, cần bổ sung phạm vi điều chỉnh của hoạt động In theo hướng quản lý toàn diện nhưng thông thoáng, tạo hành lang pháp lý để hoạt động In phát triển đúng hướng và Nhà nước quản lý được.

2.3. Các cơ sở phát hành

a) Những mặt được:

Sau khi Luật Xuất bản năm 2004 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất bản, lực lượng phát hành sách thuộc các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển. Hiện nay cả nước có khoảng 13.700 nhà sách, hiệu sách, trung tâm sách...; 75 công ty trách nhiệm hữu hạn kinh doanh xuất bản phẩm. Lực lượng phát hành sách ngoài nhà nước đóng góp đáng kể vào việc phát triển thị trường xuất bản phẩm nước ta, góp phần đáp ứng nhu cầu về văn hóa đọc ngày càng đa dạng của xã hội.

Các cơ sở phát hành sách đã năng động tìm các biện pháp, hình thức, phương thức hoạt động nhằm phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị, chương trình phát triển kinh tế-xã hội của địa phương và đất nước, nâng cao hiệu quả kinh doanh, đáp ứng nhu cầu đọc và học tập cho mọi tầng lớp nhân dân. Nhiều doanh nghiệp phát hành sách sau khi cổ phần hóa hoạt động sản xuất kinh doanh đã ổn định và phát triển, doanh thu tăng, thu nhập và đời sống của người lao động được nâng lên và khẳng định được thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường xuất bản phẩm.

Luật Xuất bản năm 2004 đã có 8 điều quy định về lĩnh vực phát hành xuất bản phẩm, sau đó được sửa đổi, bổ sung 4 điều vào năm 2008 để đáp ứng yêu cầu về thực hiện cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO. Quy định về việc cấp giấy phép kinh doanh xuất bản phẩm nhập khẩu cũng đã có nhiều tiến bộ, từ chỗ cả nước trước đây chỉ có một đơn vị được cấp giấy phép thì đến nay đã có 8 đơn vị được cấp giấy phép kinh doanh xuất bản phẩm nhập khẩu tạo điều kiện cho hoạt động nhập khẩu xuất bản phẩm để kinh doanh ngày càng phát triển. Nhập khẩu xuất bản phẩm không nhằm mục đích kinh doanh từ việc quy định rất sơ sài trước đây thì nay đã có những quy định cụ thể, rõ ràng và tương đối đầy đủ. Đặc biệt Luật Xuất bản năm 2004 có quy định không phải xin phép cơ quan quản lý nhà nước khi xuất khẩu ra nước ngoài các xuất bản phẩm lưu hành hợp pháp đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân xuất khẩu xuất bản phẩm ra nước ngoài.

Khắc phục khó khăn, các doanh nghiệp phát hành sách có chức năng xuất nhập khẩu xuất bản phẩm có nhiều cố gắng duy trì các khách hàng truyền thống, tìm kiếm thêm khách hàng mới, mở rộng thị trường, đã có tăng trưởng trong hoạt động xuất khẩu sách báo ra nước ngoài và tham gia các hội chợ sách quốc tế; đồng thời nhập khẩu được nhiều xuất bản phẩm có giá trị của nước ngoài về phục vụ nhu cầu trong nước, góp phần phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế thế giới của nước ta hiện nay.

Trong những năm vừa qua các đơn vị phát hành sách đã có nhiều cố gắng tham gia một số hội chợ sách quốc tế lớn trong khu vực và thế giới, từng bước đưa sách tham gia thị trường sách quốc tế, góp phần quảng bá hình ảnh của Việt Nam ra thế giới; giúp cho kiều bào ta ở nước ngoài có dịp tiếp xúc với các xuất bản phẩm từ đất nước, quê hương. Đồng thời, các đơn vị phát hành sách đã mở rộng bạn hàng, đối tác, chủ động lựa chọn những xuất bản phẩm có giá trị của các tác giả nước ngoài, thương thảo bản quyền để đưa về dịch và xuất bản phục vụ bạn đọc trong nước... góp phần cùng toàn ngành xuất bản Việt Nam bước đầu hội nhập với nền xuất bản thế giới, góp phần thực hiện tốt đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước.

b) Hạn chế, tồn tại

Chủ trương xã hội hóa, khuyến khích các thành phần kinh tế, trong đó có tư nhân tham gia vào phát hành xuất bản phẩm đã tạo điều kiện mở rộng mạng lưới phát hành, phục vụ tốt nhu cầu về xuất bản phẩm của xã hội. Song, thực tế các thành phần kinh tế khác chỉ kinh doanh các loại xuất bản phẩm thu được nhiều lợi nhuận và chủ yếu phân bố tập trung ở các trung tâm thành phố, thị xã, không tham gia đưa xuất bản phẩm đến vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo; một số tư nhân tăng giá bìa để trừ chiết khấu cao, thậm chí coi thường pháp luật, thực hiện in lậu, in nối bản… tạo ra sự cạnh tranh trái pháp luật, gây thiệt hại cho người tiêu dùng, nhưng chưa có các quy định và chế tài xử lý triệt để.

Một số công ty cổ phần phát hành sách hoạt động khó khăn sau khi cổ phần hóa. Ở một số địa phương, khi bán đấu giá phần vốn nhà nước tại các công ty cổ phần phát hành sách đã không có cơ chế phù hợp bảo đảm tính đặc thù của ngành hoạt động trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa, nên nhiều đơn vị bán xong phần vốn nhà nước trong doanh nghiệp theo phương thức đấu giá cho các cá nhân hay doanh nghiệp khác đã thu hẹp kinh doanh sách, dành diện tích và vốn đầu tư kinh doanh mặt hàng hoặc dịch vụ khác đem lại lợi nhuận cao hơn. Do khó khăn và hậu quả của việc bán phần vốn nhà nước tại một số doanh nghiệp cổ phần phát hành sách tỉnh nhất là các tỉnh có địa bàn khó khăn vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo, thì công tác phát hành sách đã gần như không được triển khai đầy đủ.

Xuất bản phẩm Việt Nam xuất khẩu đi các nước còn thiếu các cuốn sách, bộ sách có giá trị cả về nội dung và hình thức, đặc biệt là các cuốn sách dịch ra tiếng nước ngoài rất ít; đồng thời việc quảng bá giới thiệu sách Việt Nam ra nước ngoài không được đầu tư nên rất hạn chế việc giới thiệu sách Việt Nam chào bán bản quyền với các đối tác nước ngoài và phục vụ công tác thông tin đối ngoại.

Một trong các nguyên nhân là do các quy định về phát hành trong Luật Xuất bản có 8 điều, nhưng còn mang nặng tính nguyên tắc, quy định chung, trong khi đó, việc cấp giấy phép kinh doanh chuyên ngành xuất bản phẩm lại bị bãi bỏ nên số lượng các cửa hàng sách, đại lý “bung” ra trong cả nước không thể kiểm soát nổi (đặc biệt là các thành phố lớn trong cả nước). Do vậy, không thể điều chỉnh hết các hoạt động đa dạng phong phú của lĩnh vực phát hành xuất bản phẩm trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay. Kinh phí trợ cước vận chuyển sách báo xuất khẩu ra nước ngoài hiện nay còn thấp so với thực tế, vì vậy ảnh hưởng đến việc phục vụ công tác thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước cũng như việc thực hiện hợp đồng với khách hàng nước ngoài.



Каталог: DuThao -> Lists -> DT TAILIEU COBAN -> Attachments
Attachments -> BỘ TƯ pháp số: 151 /bc-btp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Phần thứ nhất ĐÁnh giá TÌnh hình tổ chức thực hiện luật hợp tác xã NĂM 2003
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Danh mỤc LuẬt/NghỊ đỊnh thư cỦa các quỐc gia/khu vỰc đưỢc tham khẢo trong quá trình xây dỰng DỰ thẢo luật tài nguyên, môi trưỜng biỂn và hẢi đẢo
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> BỘ giao thông vận tải cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 1- tình hình gia nhập công ước quốc tế về an toàn – vệ sinh lao động
Attachments -> BÁo cáo tổng hợp kinh nghiệm nưỚc ngoài a. Nhận xét chung

tải về 211.45 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương