BỘ NỘi vụ CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam


Thiết lập cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước theo lãnh thổ



tải về 3.18 Mb.
trang17/37
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích3.18 Mb.
#930
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   ...   37

2.2. Thiết lập cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước theo lãnh thổ

2.2.1. Tổng quan về bộ máy hành chính nhà nước theo lãnh thổ

a. Hành chính nhà nước ở địa phương

Chính quyền địa phương của Việt Nam là một bộ phận hợp thành của chính quyền nhà nước thống nhất, bao gồm các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra và các cơ quan, tổ chức khác được thành lập trên cơ sở các cơ quan quyền lực nhà nước này theo quy định của pháp luật nhằm quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương, trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ và kết hợp hài hoà giữa lợi ích nhân dân địa phương với lợi ích chung của cả nước.

Hành chính nhà nước ở địa phương gắn liền với thẩm quyền, trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp. Hành chính nhà nước ở địa phương là thành tố của hệ thống hành chính nhà nước, thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn, góp phần bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở.

Hành chính nhà nước ở địa phương thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành. Chức năng, nhiệm vụ của Uỷ ban nhân dân các cấp trải rộng trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá, an ninh, quốc phòng, thực thi pháp luật. Tính đa dạng trong hoạt động của hành chính nhà nước ở địa phương đòi hòi hành chính nhà nước ở địa phương cần phải quy định sự tương xứng về nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của mỗi cấp hành chính nhà nước ở địa phương, bảo đảm các cơ quan này thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quản lý nhà nước trên địa bàn lãnh thổ.



b. Thực thi quyền hành pháp địa phương

Quyền hành pháp ở địa phương gắn liền với nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân các cấp. Quyền hành pháp ở Việt Nam gắn với tính chấp hành và tính hành chính nhà nước (điều hành). Từ trách nhiệm chấp hành, Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn. Từ góc độ trách nhiệm điều hành, Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý ở địa phương, góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở. Tính hành chính làm cho quyền hành pháp ở địa phương có tính độc lập tương đối, có khả năng phát huy được tính chủ động, sáng tạo của mình trong việc quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội.



2.2.2. Chính quyền địa phương

a. Hội đồng đại diện

Trong cơ cấu tổ chức chính quyền địa phương ở hầu hết các quốc gia, cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của người dân luôn được thiết lập theo cơ chế dân cử. Hội đồng đại diện có ý nghĩa quan trọng trong tổ chức quản lý đời sống kinh tế - xã hội ở địa phương. Hội đồng đại diện nhân danh cộng đồng để nói tiếng nói của dân cư, nhân danh cộng đồng để giám sát hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Hiệu quả hoạt động của Hội đồng đại diện không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động, sự tín nhiệm của dân cư với Hội đồng mà còn tác động đến hiệu quả hoạt động chung của chính quyền địa phương.

Ở Việt Nam, Hội đồng nhân dân được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.

Tính chất đại diện của Hội đồng nhân dân được thực hiện thông qua hoạt động của Hội đồng nhân dân và hoạt động của mỗi đại biểu Hội đồng nhân dân.



b. Cơ quan chuyên môn, chấp hành

Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Ủy ban nhân dân các cấp có hai tư cách: thứ nhất, Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương thực hiện chức năng hành chính nhà nước theo sự phân cấp của Chính phủ; thứ hai, Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân với mức độ tự quản nhất định (devolution). Do đó, Ủy ban nhân dân có trách nhiệm triển khai các công việc quản lý mang tính chất địa phương (tỉnh, huyện, xã). Trên nguyên tắc của phân cấp quản lý, Hội đồng nhân dân được thực hiện theo nguyên tắc trao quyền, trong khi đó Ủy ban nhân dân được thực hiện theo nguyên tắc ủy quyền. Đồng thời Ủy ban nhân dân lại là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân. Điều này tạo cho Ủy ban nhân dân tính phức tạp trong hoạt động quản lý. Với cả hai tư cách trên, Ủy ban nhân dân vừa thực hiện chức năng ủy quyền (đại diện) của chính quyền cấp trên, vừa thực hiện những công việc ủy quyền của Hội đồng nhân dân.

Đối với các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh, các cơ quan này là cơ quan nằm trong quan hệ song trùng trực thuộc - vừa là cơ quan chuyên môn, chấp hành sự điều hành của Ủy ban nhân dân cùng cấp vừa là cơ quan hành chính nhà nước trực thuộc cơ quan hành chính cấp trên theo ngành dọc. Các cơ quan chuyên môn về bản chất thực hiện nhiệm vụ quản lý theo ngành và quản lý trên phạm vi lãnh thổ địa phương.

2.3. Quản lý theo lãnh thổ

2.3.1. Phân cấp quản lý nhà nước theo lãnh thổ

Phân cấp quản lý được hiểu là chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước cấp trên cho cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới thực hiện thường xuyên, lâu dài, ổn định trên cơ sở pháp luật. Thực chất của phân cấp quản lý nhà nước là xác định lại sự phân chia thẩm quyền theo các cấp hành chính cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn.

Phân cấp quản lý nhà nước theo lãnh thổ gắn liền với sự phân chia các đơn vị hành chính - lãnh thổ và phần công thẩm quyền hợp lý giữa các cấp chính quyền tương ứng cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm của mỗi cấp để thực thi hiệu quả hơn hoạt động quản lý nhà nước.

Phân cấp quản lý nhà nước theo lãnh thổ xuất phát từ vai trò của mỗi đơn vị hành chính - lãnh thổ trong tổ chức không gian quản lý quốc gia. Tư duy về vị trí, vai trò của mỗi loại hình đơn vị này sẽ tác động đến việc xác định thẩm quyền của chính quyền trên đơn vị hành chính - lãnh thổ đó.



2.3.2. Nội dung quản lý nhà nước theo lãnh thổ

a. Những vấn đề chung

Quản lý nhà nước theo lãnh thổ sự tác động có mục đích và định hướng của các cơ quan nhà nước đối với toàn bộ hoạt động kinh tế - xã hội trên một lãnh thổ nhất định, bao gồm tất cả các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội... thuộc các ngành khác nhau, không phân biệt thành phần xã hội và cấp quản lí, đóng và hoạt động trên địa bàn lãnh thổ đó. Lãnh thổ thường là một địa bàn có địa giới hành chính nhất định, được xem là một đơn vị hành chính - lãnh thổ (tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương, huyện, quận...). Lãnh thổ cũng có thể là một vùng lãnh thổ mang những đặc trưng nào đó về mặt kinh tế - xã hội, phân bố trên hai hay nhiều địa phương, không phụ thuộc vào địa giới hành chính.

Quản lý nhà nước theo lãnh thổ có nhiệm vụ và quyền hạn: 1) Sử dụng đồng bộ tất cả các loại tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực kinh tế trên lãnh thổ; bảo vệ tài nguyên và môi trường. 2) Tổ chức sản xuất hợp lý trên lãnh thổ, trên cơ sở sử dụng những tính ưu việt của tích tụ, chuyên môn hoá, hợp tác hoá và liên hiệp hoá sản xuất trên lãnh thổ. 3) Xác định quan hệ tối ưu giữa sản xuất, kết cấu hạ tầng sản xuất và kết cấu hạ tầng xã hội. 4) Bảo đảm việc thi hành pháp luật và tăng cường pháp chế trong tất cả các cơ quan, tổ chức, nhân viên nhà nước và nhân dân. 5) Quản lý dân số và lao động, phân bố dân cư và chăm lo đời sống nhân dân. 6) Giải quyết những vấn đề văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Quản lý nhà nước theo lãnh thổ thuộc chức năng quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội hoặc do một cơ quan nhà nước được chính phủ phân công phụ trách (đối với vùng lãnh thổ phân bố trên hai hay nhiều địa phương) và do hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp đảm nhiệm (đối với đơn vị hành chính lãnh thổ).

Ở nước ta, tuy có khác nhau về phạm vi và mức độ cụ thể, nhưng về cơ bản, theo quy định của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, Hội đồng nhân dân các cấp tỉnh, huyện, xã đều có các nhiệm vụ, quyền hạn:

+ Quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.

+ Quyết định dự toán thu, chi ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu chi ngân sách địa phương và phân bổ ngân sách cấp mình; phê chuẩn quyết toán ngân sách cấp mình.

+ Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên thường trực Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Ủy ban nhân dân (Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm hội thẩm nhân dân của Tòa án cùng cấp); bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu;

+ Thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương.

Theo quy định của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn. Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở.
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân tỉnh được quy định theo 14 lĩnh vực, của Ủy ban nhân dân huyện theo 11 lĩnh vực và của Ủy ban nhân dân xã theo 7 lĩnh vực, nhưng thực chất cũng là đầy đủ các lĩnh vực kinh tế - xã hội - an ninh, quốc phòng, xây dựng chính quyền, điểm khác biệt là càng xuống Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã càng có sự lồng ghép một số lĩnh vực gần nhau.

+ Đối với Ủy ban nhân dân thành phố trực thuộc trung ương, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, quận, phường, bên cạnh việc thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn như Ủy ban nhân dân tỉnh, huyện, xã, còn có được bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn riêng phù hợp với đặc điểm, tính chất của đô thị (các vấn đề về kết cấu hạ tầng đô thị, giao thông, bảo vệ môi trường và cảnh quan); Ủy ban nhân dân huyện thuộc địa bàn hải đảo cũng được bổ sung nhiệm vụ thực hiện các biện pháp để xây dựng, quản lý, bảo vệ đảo, vùng biển và dân cư trên địa bàn.

Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của bộ máy quản lý nhà nước, pháp luật quy định cơ chế phân công, phân cấp giữa cơ quan trung ương và địa phương. Ngày 11/6/2003, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 121/2003/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình nghiên cứu xác định vai trò, chức năng và cơ cấu tổ chức của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước giai đoạn I (2003-2005). Ngày 30/6/2004, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP quy định về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên các lĩnh vực chủ yếu nhất: quản lý quy hoạch, kế hoạch, đầu tư phát triển; ngân sách nhà nước; đất đai, tài nguyên; doanh nghiệp nhà nước; hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công; tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức. Như vậy, cơ chế phân cấp giữa chính quyền địa phương và chính quyền trung ương đã được quan tâm, điều chỉnh. Trên thực tế việc phân cấp giữa trung ương và địa phương khá mạnh và toàn diện, nhiều nhiệm vụ của chính quyền cấp trên đã được chuyển giao cho chính quyền cấp dưới. Các cấp chính quyền địa phương đã ngày càng chủ động hơn trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình nhằm phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

b. Tự quản địa phương

Khái niệm “tự quản” theo nghĩa chung nhất là “tự mình trông coi, quản lý công việc, không cần có ai điều khiển”, hoặc “là một phương thức quản lý mở rộng dân chủ trên những mức độ khác nhau. Ở một cộng đồng lãnh thổ, chế độ tự quản thể hiện ở chỗ chính quyền địa phương tự quyết định công việc của địa phương. Trong trường hợp nào, chế độ tự quản cũng đặt dưới sự quản lý tập trung của cơ quan có thẩm quyền cấp trên và trong khuôn khổ pháp luật nhà nước”. Theo LePetit Larousse, tự quản được hiểu là tính độc lập, khả năng quyết định của một tổ chức, của một cá nhân so với quyền lực trung ương.

Ngày nay, tự quản địa phương là vấn đề không chỉ riêng ở một quốc gia mà đã trở thành vấn đề chung mang tính toàn cầu. Việt Nam đang tiến hành cải cách tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các cấp trong đó có mục tiêu xây dựng chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh, phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Để thực hiện được mục tiêu đó trước hết cần đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò của chính quyền địa phương nhất là chính quyền cấp cơ sở.

Thứ nhất cần khắc phục cách nhìn nhận đơn giản chính quyền cấp cơ sở hoàn toàn là cấp dưới, trực thuộc và chịu sự chỉ đạo mọi mặt của chính quyền cấp trên.

Thứ hai cần xác định rõ vị trí độc lập tương đối của chính quyền xã, thị trấn đối với việc quyết định các công việc của địa phương trong phạm vi quyền tự chủ theo luật định và nhu cầu của chế độ tự quản cộng đồng dân cư trên địa bàn.

Thứ ba cần tạo cơ chế tự chủ về tài chính ngân sách và các nguồn lực để chính quyền cơ sở thực hiện tốt các công việc phục vụ trực tiếp nhu cầu của người dân trên địa bàn.

Thứ tư cần tạo cơ chế pháp lý để nhân dân địa phương trực tiếp bầu, bãi miễn cơ quan chính quyền của họ và cơ quan này chịu trách nhiệm trực tiếp trước nhân dân về tính hiệu quả trong hoạt động quản lý, điều hành.

3. MỐI QUAN HỆ GIỮA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC THEO NGÀNH VỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC THEO LÃNH THỔ

3.1. Phân biệt quản lý nhà nước theo ngành (vĩ mô, thống nhất) và quản lý nhà nước theo ngành gắn với đặc trưng lãnh thổ

Thực chất quản lý nhà nước theo ngành hay quản lý nhà nước theo lãnh thổ hay kết hợp giữa quản lý nhà nước theo ngành và lãnh thổ đều là cách nói khác nhau nhưng bản chất của nó đều là quản lý các vấn đề thuộc đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội xảy ra trên từng lãnh thổ. Và tất yếu, không có khái niệm quản lý nhà nước theo ngành chung chung.

Tuy nhiên, mỗi một vấn đề thuộc ngành xảy ra ở địa phương sẽ hoàn toàn không giống nhau. Ngay việc quản lý nhà nước sử dụng đất đai cũng không giống nhau tuyệt đối giữa các địa phương ở miền Bắc, ở Miền Nam hay ở miền Trung Tây nguyên.

Về khoa học quản lý, các vấn đề có thể tương đồng về bản chất nhưng xảy ra ở những môi trường khác nhau đòi hỏi phải quản lý theo những phương thức khác nhau. Cùng một vấn đề liên quan đến khiếu nại của công dân, môi trường chính trị - xã hội ở các vùng dân tộc sẽ khác với những vùng đô thị, do đó, cách thức giải quyết các vấn đề sẽ khác nhau.

Quản lý nhà nước theo ngành tức là tuân thủ những cách thức giải quyết mang tính định hướng chung của quản lý nhà nước theo ngành. Nhưng những nội dung quản lý nhà nước đó khi áp dụng trên từng địa phương khác nhau về phong tục, tập quán đòi hỏi phải có cách thức khác nhau. Vấn đề ngành xảy ra trên các địa phương sẽ đòi hỏi có cách xử lý khác nhau.

3.2. Những nguyên tắc cơ bản về quản lý nhà nước ngành gắn liền với lãnh thổ

Ngoài những nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước chung cho mọi ngành, lãnh thổ đã nêu trên, thì quản lý nhà nước theo ngành gắn với từng lãnh thổ phải tôn trọng 3 nguyên tắc sau:

- Nguyên tắc thống nhất: nghĩa là trên quan điểm vĩ mô, định hướng phải thống nhất cả nước;

- Tôn trọng và thực thi pháp luật: Mọi hoạt động quản lý nhà nước ngành với lãnh thổ phải dựa trên văn bản pháp luật, không tùy tiện, vô nguyên tắc;

- Nguyên tắc tự quản, tự trị địa phương: có nghĩa là mỗi địa phương căn cứ vào quy định của pháp luật được quyền đưa ra những cách thức nhằm giải quyết các vấn đề ngành cụ thể trên địa bàn lãnh thổ. Điều này cũng có nghĩa là trao quyền cho địa phương được đưa ra những cách thức giải quyết gắn với điều kiện của từng vùng lãnh thổ (địa phương).

3.3. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước ngành gắn với lãnh thổ

3.3.1.Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước trung ương tại địa phương (tản quyền - kho bạc, ngân hàng, thuế, quân đội, cảnh sát)

Một số nước, cũng như ở Việt Nam, quản lý nhà nước theo từng ngành đặc trưng mang tính tập quyền. Đó chính là mô hình ngành dọc.



3.3.2. Tổ chức chính quyền địa phương các cấp

Các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương bao gồm hai nhóm: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp. Đây là cơ quan quản lý nhà nước mang tính tổng hợp. Tuy thuộc vào mức độ phân cấp quản lý mà hệ thống các cơ quan chuyên môn theo ngành được tổ chức đến từng cấp chính quyền địa phương



3.4. Những nội dung cơ bản quản lý nhà nước theo lãnh thổ ở Việt Nam

Quản lý nhà nước các vấn đề thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội theo vùng lãnh thổ được quy định trong các văn bản pháp luật của Việt Nam.

Từ khi nhà nước Việt Nam ra đời đã có 6 văn bản pháp luật quy định những nội dung hoạt động quản lý nhà nước theo lãnh thổ. Đó là:


    • Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (2003);

    • Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (1994);

    • Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (1989);

    • Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (1983);

    • Pháp lệnh Quy định một số điểm về bầu cử và tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp trong thời chiến (1967);

    • Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp (1962)

3.4.1. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 1994

Ban hành năm 1994 sau khi có Hiến pháp 1992. Nội dung hoạt động quản lý nhà nước theo lãnh thổ của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.

a. Hội đồng nhân dân

- Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên;

- Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp;

- Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cấp mình và xuất phát từ lợi ích chung của đất nước, của nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân:

+ Quyết định những chủ trương và biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước. Khi quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hội đồng nhân dân ra nghị quyết; những nghị quyết về các vấn đề mà pháp luật quy định thuộc quyền phê chuẩn của cấp trên thì trước khi thi hành phải được cấp trên phê chuẩn;

+ Giám sát hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân về các lĩnh vực được quy định tại các điều 12, 13, 14, 15, 16, 17 và 18 của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân được quy định trên các lĩnh vực:


    • Lĩnh vực kinh tế;

    • Lĩnh vực văn hoá, xã hội và đời sống;

    • Lĩnh vực khoa học, công nghệ và môi trường;

    • Lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    • Chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo;

    • Lĩnh vực thi hành pháp luật;

    • Lĩnh vực xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính.

b. Uỷ ban nhân dân

Uỷ ban nhân dân tổ chức và chỉ đạo việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp;

Nhiệm vụ và quyền hạn của Uỷ ban nhân dân trong việc thực hiện quản lý Nhà nước:

- Quản lý nhà nước ở địa phương trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ và môi trường, thể dục, thể thao, báo chí, phát thanh, truyền hình và các lĩnh vực xã hội khác, quản lý nhà nước về đất đai và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác, quản lý việc thực hiện tiêu chuẩn đo lường chất lượng sản phẩm hàng hoá;

- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật, kiểm tra việc chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp trong cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở địa phương;

- Bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang và xây dựng quốc phòng toàn dân; thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, nhiệm vụ hậu cần tại chỗ, nhiệm vụ động viên, chính sách hậu phương quân đội và chính sách đối với các lực lượng vũ trang nhân dân ở địa phương, quản lý hộ khẩu, hộ tịch ở địa phương, quản lý việc cư trú, đi lại của người nước ngoài ở địa phương;

- Phòng chống thiên tai, bảo vệ tài sản của nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, bảo vệ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân; chống tham nhũng, chống buôn lậu, làm hàng giả và các tệ nạn xã hội khác;

- Quản lý công tác tổ chức, biên chế, lao động tiền lương, đào tạo đội ngũ viên chức nhà nước và cán bộ cấp xã, bảo hiểm xã hội theo sự phân cấp của Chính phủ;

- Tổ chức và chỉ đạo công tác thi hành án ở địa phương theo quy định của pháp luật;

- Tổ chức, thực hiện việc thu, chi ngân sách của địa phương theo quy định của pháp luật; phối hợp với các cơ quan hữu quan để bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các loại thuế và các khoản thu khác ở địa phương.

- Uỷ ban nhân dân thực hiện việc quản lý địa giới đơn vị hành chính, xây dựng đề án phân vạch, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính ở địa phương đưa ra Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua để trình cấp trên xét.

3.4.2. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003

- Về nguyên tắc, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 cũng kế thừa những nội dung của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1994 nhưng chi tiết hơn, cụ thể hơn. Nội dung quản lý nhà nước cũng được xác định:

- Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên;

- Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.

- Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương.

- Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên.

- Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn.

- Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở. 



3.4.3. Nhận xét chung về tư duy quản lý nhà nước ngành theo lãnh thổ qua 2 văn bản pháp luật

Cả hai đạo luật trên, tuy mức độ chi tiết cụ thể khác những đều xác định các nội dung liên quan đến quản lý nhà nước các vấn đề ngành trên địa bàn lãnh thổ.

- Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1994 quy định mang tính chất chung và do đó đã phải ban hành Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở mỗi cấp năm 1996;

- Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 khắc phục tính chung đó và tách thành các chương mục riêng cho từng cấp hành chính.

Tuy nhiên cả hai luật vẫn chỉ mang tính định hướng và thiếu cụ thể về phân cấp theo luật những vấn đề gì của ngành trên địa bàn lãnh thổ thuộc cấp tỉnh, huyện hay xã.



tải về 3.18 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   ...   37




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương