ĐẠi cưƠng triết học trung quán tác Giả: Jaidev Singh



tải về 0.51 Mb.
trang1/9
Chuyển đổi dữ liệu08.09.2017
Kích0.51 Mb.
#33005
  1   2   3   4   5   6   7   8   9
ĐẠI CƯƠNG TRIẾT HỌC TRUNG QUÁN


Tác Giả: Jaidev Singh

Dịch Giả: Thích Viên Lý
Viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới Xuất Bản

---o0o---

Nguồn

http://thuvienhoasen.org

Chuyển sang ebook 28-7-2009

Người thực hiện : Nam Thiên – namthien@gmail.com

Link Audio Tại Website http://www.phatphaponline.org
Mục Lục

VÀI LỜI CỦA DỊCH GIẢ

CHƯƠNG I


1. ĐẠI THỪA VÀ NGUYÊN THỦY

2. BA GIAI ĐOẠN TRONG PHẬT GIÁO

3. TRUNG LUẬN: CUỘC ĐỜI CỦA LONG THỌ (NÀGÀRJUNA) VÀ ĐỀ BÀ (THÁNH THIÊN – ÀRYADEVA)

4. KHỞI NGUYÊN CỦA PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA (MAHAYÀNA)

CHƯƠNG II

TƯ LIỆU VĂN BẢN


(Literary Sources)

5. TRƯỚC TÁC VÀ GIÁO LÝ CỦA HỆ PHÁI 


TRUNG QUÁN TRIẾT HỌC 

6. LONG THỌ VÀ ĐỀ BÀ 


(Thế Kỷ Thứ Nhì Sau Tây Lịch)

7. BIỆN CHỨNG PHÁP TRUNG QUÁN 


(MADHYAMAKA DIALECTIC)
KHỞI NGUYÊN, CẤU TRÚC VÀ PHÁT TRIỂN

8. ĐÓNG GÓP TÍCH CỰC CỦA LONG THỌ

9. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA NGUYÊN THỦY
VÀ ĐẠI THỪA

10. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA 


TRIẾT HỌC TRUNG QUÁN

11. SỰ QUAN TRỌNG CỦA KHÁI NIỆM VỀ TRUNG ĐẠO 


(MADHYAMÀ PRATIPAD)

12. TUYỆT ĐỐI VÀ HIỆN TƯỢNG

13. BIỂU HIỆN CỦA THỰC TẠI (SAMVRTI: TỤC ĐẾ) 
VÀ THỰC TẠI TUYỆT ĐỐI
(PARAMÀRTHA SATYA: THẮNG NGHĨA ĐẾ)

14. CHÂN NHƯ LÀ NHƯ LAI 


  (TATHATÀ-TATHÀGATA)

15. PHÁP GIỚI (DHARMADHÀTU) 


VÀ THỰC TẠI (BHÙTAKOTI) 


---o0o---

VÀI LỜI CỦA DỊCH GIẢ


“Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.

        Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển và mục đích của Trung Quán phái biện chứng pháp. Chẳng những thế, nó còn thuyết minh một cách tường tận những nhận xét khác nhau về những khái niệm Phật Pháp luận v.v... kể cả những lý tưởng về giới luật, tôn giáo, Niết bàn, quan hệ duyên khởi, giữa Đại Thừa và Nguyên Thủy...

        Đối với ý nghĩa “Không” và “Không Tánh” kể cả những ý nghĩa được bao hàm trong phương diện giá trị luận và cứu thế học cũng đã được văn bản này mổ xẻ, trình bày một cách rốt ráo, tỉ mỉ.

        Ngoài các vấn đề trên, bản văn còn minh chứng một cách rõ ràng một số khái niệm vô cùng trọng yếu khác trong đó có Trung đạo, Thế tục đế, Thắng nghĩa đế, Chân như, Pháp giới và Thực tại v.v... Nó đã không chỉ giới thiệu về phương hướng phủ định của triết học Long Thọ mà còn thảo luận cặn kẽ về sự cống hiến cách chánh diện của nó.

        Và, chính vì sự hàm tàng những yếu điểm của bản văn mà tất cả nhứng nhà nghiên cứu về Triết học Trung Quán đều cho nó là một bản văn vô cùng hữu dụng.”

        Đó là cách nhận xét và đánh giá của người đã dịch từ Anh văn sanh Hoa ngữ; dù vậy, cá nhân chúng tôi không hoàn toàn đồng ý về một số danh xưng mà tác giả sử dụng để biểu đạt một ít quan điểm riêng của mình, trong đó bao gồm những ý kiến và cách suy luận. Dù sao thì đây cũng là một tác phẩm vô cùng quan yếu và hết sức căn bản đối với những ai muốn nghiên cứu về một tư tưởng tối cực thâm áo của Phật giáo.

        Lẽ ra, chúng tôi chỉ in phần Việt ngữ, nhưng, để độc giả tiện đối chiếu, do vậy, ngoài bản Việt ngữ, chúng tôi in kèm cả phần Hoa và Anh ngữ như là phụ bản cần thiết, và, hy vọng sẽ giúp ích rất lớn trong công việc tìm hiểu một nền đạo học vi diệu mà không phải ai cũng có thể lãnh hội một cách dễ dàng.

        Trong khi dịch thuật, vì phải bận với một số Phật sự khác, do vậy, tất nhiên dịch giả đã không sao tránh khỏi những khiếm khuyết ngoài ý muốn. Trong tinh thần cầu học miên tục, rất mong các bậc cao minh bi mẫn bổ chính và, xin hồi hướng công đức cầu nguyện cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sớm được phục hoạt; pháp nạn, quốc nạn chóng giải trừ thế giới thái bình, nhân sinh an lạc.

Dịch giả
Cẩn bút,

Tu Viện Bảo Pháp, Mạnh Đông 1998

Người gửi: Quảng Hoa

---o0o---

CHƯƠNG I

1. ĐẠI THỪA VÀ NGUYÊN THỦY


       
       Triết học Đại Thừa (Mahayàna) gồm có hai phái, đó là: Triết học Trung Quán (Madhyamaka) hay Không Luận (Sùnyavàda) và Du Dà Hành phái (Yogàcàra) hoặc Duy Thức Luận (Vijnànavàda). Ở đây, chúng ta chỉ thảo luận về Triết học Trung Quán hoặc Không Luận mà thôi.

        Một cách đại cương, Nguyên Thủy (Hìnayàna) và Đại Thừa (Mayahàna) gồm có ba danh xưng thông dụng. Ba danh xưng thông dụng dành cho Nguyên Thủy là: “Phật Giáo Nam Tông”, “Phật Giáo Nguyên Thủy” và “Tiểu Thừa” (Hìnayàna) và, ba danh xưng dành cho Đại Thừa là: “Phật Giáo Bắc Tông”, “Phật Giáo Khai Hiển” và “Đại Thừa” (Mayahàna). Hai danh xưng đầu được các học giả Âu Châu đặt ra, còn hai danh xưng “Phật Giáo Nam Tông” và “Phật Giáo Bắc Tông” được đặt tên theo căn bản địa lý. Các học giả Âu Châu đã gọi Phật Giáo thịnh hành ở các quốc gia phía Bắc Ấn Độ như Nepal, Tây Tạng, Trung Quốc và Nhật Bản là “Phật Giáo Bắc Tông” và họ gọi Phật Giáo thịnh hành ở những nước thuộc phía Nam Ấn Độ như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, v.v... là Phật Giáo Nam Tông”. Sự phân biệt theo lối đó thật ra không hoàn toàn chính xác; bởi vì, theo tiến sĩ J. Takakusu thì Phật Giáo thịnh hành tại những nơi trong Quần đảo Nam Dương như Java va Sumatra, ở phía Nam Ấn Độ, rõ ràng có sự tương đồng với loại Phật Giáo thịnh hành ở phương Bắc Ấn Độ.

        Sự phân biệt giữa “Phật Giáo Nguên thủy” và “Phật Giáo Khai Hiển” đã được đặt trên những tin tưởng và nhận xét rằng Phật Giáo Đại Thừa vốn chỉ là sự phát triển dần dần từ giáo nghĩa Phật Giáo Nguyên Thủy; nhưng, nhận xét trên đã không được Phật Giáo đồ Đại Thừa (Mayahànists) chấp nhận. Các học giả Nhật Bản cho rằng Đức Phật cao siêu đã thuyết giảng giáo lý của Ngài cho các môn đồ tùy theo khả năng tiếp nhận của họ. Đối với một số môn đồ, Đức Phật truyền đạt cho họ những giáo nghĩa thông tục (vyakta-upadésa) gồm nhận thức của Ngài trên mặt hiện tượng; và một số khác có trình độ tri thức cao hơn đã được Ngài truyền cho những giáo nghĩa uyên thâm vi tế (guhya-upadésa) bao hàm nhận thức của đức Phật về phương diện bản thể. Đức Phật đã chỉ thuyết giảng về hai giáo nghĩa trên đây một cách khái quát, về sau hai nghĩa đó đã được triển khai bởi những bậc a-và-lê (acàryas) vĩ đại (chữ “acàryas” được dịch sanh chữ Hán là “gũi phạm sư”). Vì thế, sự phân biệt về danh xưng giữa “Phật Giáo Nguyên Thủy” và “Phật Giáo Khai Hiển” là một sự kiện không chính xác. Sự truyền thọ về hai loại giáo lý trên đã được thực hiện đồng thời và song hành. “giáo lý thông tục” có thể được gọi là “Phật Giáo được quảng đại quần chúng biết đến” và “giáo lý áo diệu” có thể gọi là “Phật Giáo được ít người biết đến”. Giáo lý sau uyên thâm và tinh tế hơn giáo lý trước. 

        Dù sao thì chúng ta cũng cần phải nghiên cứu, tìm hiểu về hai danh từ “Phật Giáo Nguyên Thủy” và “Phật Giáo Đại Thừa” thử xem chúng đã được khởi nguyên và lưu truyền như thế nào. Theo nhận xét của R. Kimura thì Đại Chúng Bộ (Mahàsanghikas) là hệ phái đã bảo tồn giáo nghĩa Phật Giáo thông tục, đã có nhiều tiến bộ và tự do hơn Thượng Tọa Bộ (Sthaviras). Trong cuộc hội tập tại Tỳ Xá Ly (Vaisàli), các vị tỳ khưu thuộc Đại Chúng Bộ (Mahàsanghikas) hoặc Vijjian (Bạt Kỳ Tộc) đã bị quở trách và trụt xuất vì các thầy tỳ khưu thuộc Thượng Tọa Bộ (Sthaviras) cho rằng giáo nghĩa chính thống và kiến giải của họ đã bị vi phạm bởi những quan điểm dị biệt, và, đã công khai chỉ trích các thầy tỳ khưu thuộc Đại Chúng Bộ là “ác tỳ khưu” (Pàpa Bhikkhus) và “kẻ thuyết phi pháp” (Adhamma vadins).

        Đại Chúng Bộ (Mahàsanghikas) vì muốn biểu thị rằng giáo nghĩa của họ là giáo nghĩa ưu thắng, vượt hẳn giáo nghĩa của Thượng Tọa Bộ (Sthaviras), cho nên họ đã đặt ra danh từ “Đại Thừa” (chiếc xe lớn) để làm tên gọi cho hệ phái của họ và họ đã gọi đối thủ là “Nguyên Thủy” (chiếc xe nhỏ). Vì vậy, danh từ Nguyên Thủy và Đại Thừa dần dần trở thành thông dụng và, dĩ nhiên chỉ có Phật Giáo đồ Đại Thừa mới sử dụng nó. 
 

---o0o---


Каталог: downloads -> dai-tang-kinh -> luan-bac-tong
luan-bac-tong -> Tìm Hiểu Trung Luận Nhận Thức và Không Tánh Hồng Dương Nguyễn Văn Hai Nguyệt San Phật Học Xuất Bản Phật lịch 2545
dai-tang-kinh -> Thi Ke Kinh Phap Cu Tinh Minh Dich
dai-tang-kinh -> Abhidhammattha Saṅgaha a manual of Abhidhamma
luan-bac-tong -> Long thọ BỒ TÁt nàgàrjuna trung luận màdhyamaka-Śàstra Hán dịch: Tam tạng Pháp sư CƯu-ma-la-thậP
dai-tang-kinh -> PHẬt nói kinh luân vưƠng thất bảo hán Dịch: Ðời Tống Tây Thiên Triều Phụng Ðại phu Thí Hồng Lô Khanh
dai-tang-kinh -> THẾ thân bồ TÁt câu xá luận tụng lưỢc thích I
luan-bac-tong -> VIỆn cao đẲng phật học hảI ĐỨc hồng Dương Nguyễn Văn Hai luận giảI TRUNG luậN

tải về 0.51 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương