06.BA TRUNG KIẾP
Có ba trung kiếp. Một là kiếp đao binh. Hai là kiếp đói kém. Ba là kiếp tật dịch.
(Trường A Hàm, Kinh Thế Ký, Phẩm 11.Ba Trung Kiếp, số 30)
---o0o---
07.BẬC CHUYỂN LUÂN VƯƠNG CÓ BỐN ĐIỀU ĐƯỢC ÂN SỦNG
Khi Thánh vương đi, người dân khắp cả nước đều đến nghinh đón;
Thấy vua rồi thì hoan hỷ, nghe lời dạy cũng hoan hỷ, chiêm ngưỡng uy nhan không hề biết chán.
Khi Thánh vương đứng, ngồi
Khi Thánh vương nằm, quốc dân đều đến bái yết, được thấy vua họ vui mừng, được nghe vua họ vui mừng, họ trông ngắm dung nhan vua không biết chán.
(Trường A Hàm, Kinh Du Bộ, số 2)
---o0o---
08.BẬC ĐẠI OAI ĐỨC PHẢI TRÁNH CHỖ CHO THIÊN THẦN VÀO LỄ
Lúc đó ông Phạm-ma-na cầm quạt đứng hầu quạt trước Phật, Phật bảo:
Ngươi hãy tránh ra, chớ đứng ở trước Ta.
A-nan nghe vậy thầm lặng suy nghĩ: Phạm-ma-na thường hầu hạ Phật, cung cấp mọi sự cần thiết, tôn kính Như Lai không hề chán nản. Nay vào ngày cuối cùng, lẽ để cho ông chăm sóc, chứ sao Phật lại đuổi đi, là có ý gì? Rồi A-nan sửa lại y phục, đến trước Phật, bạch rằng:
Phạm-ma-na thường hầu hạ Phật, cung cấp mọi sự cần thiết, tôn kính Như Lai không hề chán nản. Nay vào ngày cuối cùng, lẽ để cho ông xem sóc, chứ sao Phật lại đuổi đi, là có ý gì?
Phật nói: Phía ngoài thành Câu-thi này mười hai dotuần, thảy đều là chỗ các vị đại thiên thần, chật ních không có khoảng trống. Họ đều than phiền: ‘Vị Tỳ-kheo này sao đứng choán trước Phật. Nay giờ phút cuối cùng Phật sắp vào Niết-bàn, chúng ta các thần muốn đến chiêm bái một lần, mà vị Tỳ-kheo đó với oai đức lớn lao, ánh sáng chói che không cho chúng ta được gần Phật để lễ bái cúng dường.’ Này A-nan, vì thế mà ta bảo tránh ra. A-nan bạch Phật: Chẳng hay vị Tỳ-kheo đó xưa kia chứa phúc đức gì, tu hạnh nghiệp gì mà nay có oai đức như thế?
Phật dạy: Vào kiếp thứ chín mươi mốt trong đời quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi. Vị Tỳ-kheo đó, lúc ấy đem tâm hoan hỷ cầm cây đuốc cỏ soi sáng vào ngôi tháp của Phật, nhờ đó nay ông được có oai quang chiếu suốt cả hai mươi tám từng trời, ánh sáng của chư thiên thần không thể sánh kịp.
(Trường A Hàm, Kinh Du Bộ, số 2)
---o0o---
09.BÁO NHẬP NIẾT BÀN
Các Tỳ-kheo sau khi nghe Như Lai không bao lâu, sau ba tháng nữa, sẽ vào Niết-bàn, rất đỗi kinh ngạc, sửng sốt hoang mang, vật mình xuống đất, cất tiếng kêu than:
Nhanh chóng làm sao, Thế Tôn diệt độ! Đau đớn làm sao, con mắt của thế gian sắp tắt! Chúng ta từ nay mãi mãi mất mát! Hoặc có Tỳ-kheo vật vã buồn khóc, lăn lộn kêu ca, không tự kềm chế được, khác nào như rắn bị đứt làm hai khúc, lăn lộn ngắc ngoải, không biết đi về đâu.
Phật bảo: Này các Tỳ-kheo, các ngươi chớ ôm lòng ưu bi như vậy. Từ trời đất đến người vật, không có cái gì sanh ra mà không kết thúc. Muốn các pháp hữu vi không bị biến dịch, thì không thể nào được. Trước đây Ta đã từng dạy ân ái là vô thường, có hội hiệp tất có chia ly. Thân này không phải của mình, mạng này không ở lâu được.
(Trường A Hàm, Kinh Du Bộ, số 2)
---o0o---
10.BA PHÁP BA TỤ
1) Ba pháp hướng đến ác thú: tham, nhuế, si bất thiện căn.
2) Ba pháp dẫn đến thiện thú: vô tham, vô nhuế, vô si thiện căn.
3) Ba pháp dẫn đến Niết-bàn: không, vô tướng, vô tác tam-muội.
(Trường A Hàm, Kinh Tam Tụ, số 12)
---o0o---
11.BẢY PHÁP
01) Bảy phi pháp: không có tín, không có tàm, không có quí, ít học hỏi, biếng nhác, hay quên, vô trí.
02) Bảy chánh pháp: có tín, có tàm, có quí, đa văn, tinh tấn, tổng trì, đa trí.
03) Bảy tinh cần: 1. Tỳ-kheo tinh cần nơi sự thực hành giới. 2. diệt tham dục. 3. phá tà kiến. 4. đa văn. 5. tinh tấn. 6. chánh niệm. 7. thiền định.
05) Bảy tưởng: tưởng về thân bất tịnh, thức ăn bất tịnh, hết thảy thế gian không đáng ưa thích, sự chết, vô thường, vô thường là khổ, khổ là vô ngã.
06) Bảy tam-muội thành tựu: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm.
07) Bảy giác chi: niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ giác, khinh an, định, huệ xả giác chi.
(Trường A Hàm, Kinh Chúng Tập, số 9)
---o0o---
12.BẢY PHÁP BẤT THOÁI
1) Thường hội họp luận bàn nghĩa lý chân chính, thời lớn nhỏ hòa thuận mà Chánh pháp không bị suy thoái.
2) Trên dưới hòa đồng, kính thuận không trái, thời lớn nhỏ hòa thuận mà Chánh pháp không bị suy thoái.
3) Trọng pháp, hiểu điều cấm kỵ, không trái qui chế, thời lớn nhỏ hòa thuận mà Chánh pháp không bị suy thoái.
4) Nếu có Tỳ-kheo nào có năng lực hộ chúng, có nhiều tri thức, nên được kính thờ, thời lớn nhỏ hòa thuận mà Chánh pháp không bị suy thoái.
5) Niệm hộ tâm ý, lấy sự hiếu kính làm đầu, thời lớn nhỏ hòa thuận mà Chánh pháp không bị suy thoái.
6) Tịnh tu phạm hạnh, không chạy theo trạng thái dục, thời lớn nhỏ hòa thuận mà Chánh pháp không bị suy thoái.
7) Trước người rồi sau mình, không tham lam danh lợi, thời già trẻ hòa thuận mà Chánh pháp không bị suy thoái.
(Trường A Hàm, Kinh Du Bộ, số 2)
---o0o---
13.BẢY PHÁP LÀM CHÁNH PHÁP KHÔNG BỊ SUY THOÁI
1) Kính Phật. 2. Kính Pháp. 3. Kính Tăng. 4. Kính giới luật. 5. Kính thiền định. 6. Kính thuận cha mẹ. 7. Kính pháp không buông lung.
(Trường A Hàm, Kinh Du Bộ, số 2)
---o0o---
14.BẢY PHÁP LÀM CHÁNH PHÁP KHÔNG BỊ TỔN GIẢM
01) Có tín tâm; tin đức Như Lai, Chí chân, Chánh giác, đủ mười đức hiệu.
02) Có tàm, biết hổ với điều thiếu sót của mình.
03) Có quý, biết thẹn với việc ác mình đã làm.
04) Đa văn, những điều đã được thọ trì đều tốt ở đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối, nghĩa và vị thâm áo, thanh tịnh không bẩn, phạm hạnh đầy đủ.
05) Siêng năng cần khổ, bỏ ác tu lành, chuyên tâm tập luyện mãi không ngừng.
06) Điều đã học tập được, ghi nhớ mãi không quên.
07) Tu tập trí tuệ, biết pháp sanh diệt, hướng đến Hiền Thánh, dứt hết gốc khổ.
(Trường A Hàm, Kinh Du Bộ, số 2)
---o0o---
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |