25 nguyên tắc cơ BẢn về giám sát hệ thống ngân hàng hiệu quả



tải về 338.41 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích338.41 Kb.
#35506
UỶ BAN BASEL
Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng là một diễn đàn cho sự hợp tác thường xuyên về các vấn đề liên quan đến giám sát hoạt động ngân hàng. Mục tiêu của Ủy ban là hiểu rõ hơn về các vấn đề mấu chốt trong việc giám sát hoạt động ngân hàng và nâng cao chất lượng giám sát hoạt động ngân hàng trên toàn cầu. Để đạt được mục tiêu đó, Ủy ban trao đổi các thông tin về các vấn đề giám sát hoạt động ngân hàng của các quốc gia, các phương pháp và kỹ thuật với phương châm là để có một sự hiểu biết đồng nhất về các vấn đề đó. Trên cơ sở đó, Ủy ban dùng sự hiểu biết đồng nhất này để xây dựng các văn bản hướng dẫn và tiêu chuẩn trong các lĩnh vực mà họ cho là cần thiết. Ủy ban Basel được biết đến trên khắp thế giới về các thông lệ quốc tế mà họ đưa ra về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu; các nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hiệu quả; và Thỏa ước về giám sát hoạt động ngân hàng xuyên biên giới.

Thành viên của Ủy ban là Ngân hàng trung ương hoặc cơ quan giám sát ngân hàng của các quốc gia như Argentina, Úc, Bỉ, Brazil, Canada, Trung Quốc, Pháp, Đức, Hồng Kông, Ấn Độ, In-đô-nê-xia, Ý, Nhật, Hàn Quốc, Luxembourg, Mexico, Hà Lan, Nga, Ả Rập Xê Út, Singapore, Nam Phi, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh và Mỹ.


25 NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

VỀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG HIỆU QUẢ

CỦA UỶ BAN BASEL
Nguyên tắc 1 - Mục đích, tính độc lập, quyền hạn, tính minh bạch và sự hợp tác: Một hệ thống giám sát ngân hàng hiệu quả phải phân định trách nhiệm rõ ràng và mục đích của mỗi đơn vị có thẩm quyền giám sát ngân hàng. Mỗi đơn vị phải có sự hoạt động độc lập, các quy trình minh bạch, có lực lượng nhân sự đầy đủ và được quản lý phù hợp, phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trước nhiệm vụ được giao. Một khuôn khổ pháp lý phù hợp đối với việc giám sát hệ thống ngân hàng cũng rất cần thiết, bao gồm cả các điều liên quan đến cấp phép thành lập mới các ngân hàng và việc giám sát liên tục hoạt động của hệ thống ngân hàng; quyền hạn kiểm tra tính tuân thủ của hệ thống ngân hàng cũng như kiểm tra khi có nghi vấn về tính an toàn và bền vững của hệ thống. Các quy định về chia sẻ thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước và quy định về bảo mật các thông tin cũng cần phải được quy định rõ ràng.

Nguyên tắc 2 – Các hoạt động được phép: Các hoạt động được phép của các tổ chức được cấp phép và chịu sự giám sát dưới tên gọi ngân hàng phải được quy định rõ ràng và việc sử dụng cụm từ “ngân hàng” ở tên gọi của tổ chức phải được kiểm soát gắt gao.

Nguyên tắc 3 – Các tiêu chí cấp phép: Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp phép phải có quyền đề ra các tiêu chí và từ chối đơn xin cấp Giấy phép thành lập nếu hồ sơ không đáp ứng được các tiêu chuẩn đề ra. Quá trình cấp phép tối thiểu phải có sự đánh giá về cơ cấu chủ sở hữu và quản trị ngân hàng, trong đó bao gồm sự phù hợp và khả năng của các thành viên Hội đồng quản trị cũng như Ban điều hành ngân hàng, chiến lược và kế hoạch hoạt động của ngân hàng, hệ thống kiểm soát nội bộ và quản trị rủi ro, điều kiện tài chính dự kiến, bao gồm cả vốn gốc. Nếu chủ sở hữu là hoặc tổ chức mẹ là một ngân hàng nước ngoài, ngân hàng đó phải được cơ quan giám sát nước nguyên xứ chấp thuận trước.

Nguyên tắc 4 - Chuyển quyền sở hữu lớn: Cơ quan quản lý nhà nước phải có quyền xem xét và từ chối bất cứ đề xuất chuyển nhượng quyền sở hữu lớn hoặc chuyển nhượng quyền kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp tại các ngân hàng hiện hữu cho một bên khác.

Nguyên tắc 5 – Giao dịch mua lại lớn: Cơ quan quản lý nhà nước phải có quyền chuẩn y các giao dịch mua lại lớn hoặc quyết định đầu tư lớn của ngân hàng, ngược lại các tiêu chí đã nêu, bao gồm cả việc thành lập các hoạt động xuyên quốc gia, và phải đảm bảo được rằng, các giao dịch hoặc thay đổi cơ cấu không ảnh hưởng đến an toàn của ngân hàng, không đem đến cho ngân hàng các rủi ro không đáng có hoặc gây cản trở đến việc giám sát hệ thống ngân hàng hiệu quả.

Nguyên tắc 6 – An toàn vốn tối thiểu: Cơ quan quản lý nhà nước phải đưa ra các quy định về an toàn vốn tối thiểu phù hợp đối với các ngân hàng để phản ánh được những rủi ro mà ngân hàng gặp phải, và phải quy định rõ ràng về thành phần của vốn, đảm bảo rằng vốn phải có khả năng chịu được lỗ. Tối thiểu là đối với các ngân hàng hoạt động quốc tế, các quy định này không được thấp hơn mức mà Uỷ ban Basel quy định.

Nguyên tắc 7 – Quy trình quản trị rủi ro: Cơ quan quản lý nhà nước phải đảm bảo rằng, ngân hàng và tập đoàn ngân hàng phải có hệ thống quản trị rủi ro toàn diện (bao gồm cả khả năng kiểm soát rủi ro của Hội đồng quản trị và Ban điều hành) để phát hiện, đánh giá, xử lý và kiểm soát, giảm thiểu tất cả các rủi ro để đánh giá tổng thể mức độ đủ vốn của ngân hàng trước các danh mục rủi ro. Các quy trình quản trị rủi ro này phải phù hợp với quy mô và mức độ phức tạp của tổ chức.

Nguyên tắc 8 - Rủi ro tín dụng: Cơ quan quản lý nhà nước phải đảm bảo rằng các ngân hàng có một quy chế quản lý rủi ro tín dụng cân nhắc tới các rủi ro của tổ chức với các chính sách an toàn, các quy trình quản lý rủi ro nhằm phát hiện, đo lường, kiểm tra và kiểm soát rủi ro tín dụng (bao gồm cả rủi ro tác nghiệp). Điều này cũng bao gồm việc cho vay và đầu tư, đánh giá chất lượng của các khoản nợ và đầu tư, đồng thời tạo ra một hệ thống quản trị rủi ro liên tục đối với các khoản nợ và khoản mục đầu tư đó.

Nguyên tắc 9 – Tài sản có rủi ro, dự phòng và dự trữ: Cơ quan quản lý cần đảm bảo rằng ngân hàng phải xây dựng các chính sách đảm bảo an toàn tối thiểu cho việc quản lý các tài sản có rủi ro, xác định mức dự phòng và dự trữ đủ cho tổ chức.

Nguyên tắc 10 - Giới hạn mức cho vay: Cơ quan quản lý rủi ro phải đảm bảo rằng ngân hàng phải có các chính sách và hệ thống quản trị rủi ro nhằm nhận dạng, quản lý các khoản cho vay lớn trong danh mục, cơ quan quan lý đồng thời cần phải xây dựng các giới hạn cho vay nhằm hạn chế các ngân hàng tập trung cho vay một khách hàng hoặc nhóm các khách hàng có liên quan.

Nguyên tắc 11 - Rủi ro đối với nhóm khách hàng có liên quan: Nhằm hạn chế việc cho vay (bao gồm các khoản nợ nội bảng và ngoại bảng) nhóm khách hàng có liên quan và xác định sự xung đột về lợi ích, cơ quan quản lý cần có những quy định về giới hạn cho vay đối với một khách hàng và một nhóm khách hàng có liên quan, các khoản cho vay này phải được kiểm soát chặt chẽ, đồng thời cần phải có các bước phù hợp nhằm kiểm soát và giảm thiểu rủi ro, việc xóa các khoản nợ này được thực hiện theo các chính sách và quy trình chuẩn mẫu.

Nguyên tắc 12 – Rủi ro quốc gia và rủi ro chuyển đổi: Cơ quan quản lý nhà nước phải đảm bảo rằng các ngân hàng có các chính sách và quy trình xác định, đo lường, theo dõi và kiểm soát rủi ro quốc gia và rủi ro chuyển đổi trong các hoạt động cho vay và đầu tư quốc tế, và đồng thời các ngân hàng phải trích lập dự phòng cho các rủi ro này.

Nguyên tắc 13 – Rủi ro thị trường: Cơ quan quản lý nhà nước phải đảm bảo rằng các ngân hàng có các chính sách và quy trình xác định chính xác, đo lường, theo dõi và kiểm soát được các rủi ro thị trường; cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đặt ra các định mức cụ thể và/hoặc có thể dùng một khoản vốn cụ thể để xử lý rủi ro thị trường nếu có lý do chính đáng.

Nguyên tắc 14 – Rủi ro thanh khoản: Cơ quan quản lý nhà nước phải đảm bảo rằng các ngân hàng có một chiến lược quản lý khả năng chi trả có thể tính toán được mọi rủi ro của tổ chức, ngân hàng phải có chính sách và quy trình để xác định, đo lường, theo dõi và kiểm soát được rủi ro thanh khoản, và quản lý được khả năng chi trả của mình hàng ngày. Cơ quan quản lý nhà nước phải yêu cầu các ngân hàng có kế hoạch sẵn sàng đối ứng với các vấn đề về thanh khoản có thể phát sinh bất ngờ.

Nguyên tắc 15: Rủi ro tác nghiệp (rủi ro hoạt động): Cơ quan quản lý nhà nước phải đảm bảo rằng ngân hàng phải có chính sách và quy trình quản lý rủi ro để nhận dạng, đánh giá, kiểm tra và kiểm soát/giảm thiểu rủi ro hoạt động. Các chính sách và quy trình quản lý rủi ro này phải phù hợp với quy mô và mức độ phức tạp của tổ chức.

Nguyên tắc 16: Rủi ro lãi suất trong sổ sách ngân hàng: Cơ quan quản lý nhà nước phải đảm bảo rằng ngân hàng phải có hệ thống quản trị rủi ro có hiệu quả nhằm nhận dạng, đo lường và kiểm tra, kiểm soát rủi ro lãi suất trong sổ sách ngân hàng, bao gồm một chiến lược được Hội đồng quản trị phê duyệt và được thực hiện bởi ban quản lý cấp cao; chiến lược này cũng cần phải phù hợp với quy mô và mức độ phức tạp của tổ chức của loại rủi ro.

Nguyên tắc 17: Kiểm tra và kiểm toán nội bộ: Cơ quan quản lý nhà nước phải đảm bảo rằng ngân hàng phải có hệ thống kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ phù hợp với quy mô và mức độ phù hợp với loại hình kinh doanh của tổ chức.

Nguyên tắc 18 – Lạm dụng các dịch vụ tài chính: Cơ quan quản lý nhà nước phải đảm bảo được rằng các ngân hàng có chính sách và quy trình, bao gồm các quy tắc nghiêm ngặt về “nhận biết khách hàng”, nâng cao các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp trong lĩnh vực tài chính và bảo vệ ngân hàng không bị lợi dụng, một cách vô tình hay cố ý, vào các hoạt động phạm pháp.

Nguyên tắc 19 – Phương pháp giám sát: Một hệ thống giám sát ngân hàng hiệu quả yêu cầu các cơ quan quản lý nhà nước xây dựng và duy trì sự hiểu biết sâu sắc về hoạt động của từng ngân hàng và tập đoàn ngân hàng, đồng thời cả hệ thống ngân hàng, tập trung vào sự an toàn và tính bền vững, cũng như sự ổn định của toàn hệ thống ngân hàng.

Nguyên tắc 20 – Kỹ thuật giám sát: Một hệ thống giám sát ngân hàng hiệu quả phải bao gồm cả thanh tra tại chỗ và kiểm soát từ xa và sự liên hệ mật thiết giữa cơ quan quản lý nhà nước với ban điều hành của ngân hàng.

Nguyên tắc 21 – Thông tin giám sát: Cơ quan quản lý nhà nước phải có các phương tiện thu thập, xem xét và phân tích các báo cáo về an toàn hoạt động và các chỉ số thống kê do các ngân hàng gửi về trên cơ sở đơn lẻ và tổng hợp, đồng thời phải có phương tiện để xác minh tính trung thực của các báo cáo này thông qua hoặc là thanh tra tại chỗ hoặc thuê các chuyên gia độc lập.

Nguyên tắc 22 – Kế toán và công bố công khai: Cơ quan quản lý nhà nước phải đảm bảo được rằng mỗi ngân hàng phải duy trì việc ghi chép sổ sách đầy đủ và theo đúng các chuẩn mực kế toán được quốc tế công nhận, và công bố công khai thường xuyên các thông tin phản ánh đúng tình trạng tài chính và lợi nhuận của ngân hàng.

Nguyên tắc 23- Quyền xử lý vi phạm của cơ quan quản lý nhà nước: Cơ quan quản lý nhà nước phải có công cụ hỗ trợ họ đưa ra các biện pháp xử lý vi phạm kịp thời. Trong đó bao gồm khả năng thu hồi Giấy phép hoạt động hoặc cảnh báo việc thu hồi Giấy phép hoạt động.

Nguyên tắc 24 – Giám sát hợp nhất: Một yếu tố nhạy cảm của việc giám sát hệ thống ngân hàng là cơ quan quản lý nhà nước giám sát các tập đoàn ngân hàng trên cơ sở hợp nhất, theo dõi sát sao, và áp dụng tất cả các quy tắc đảm bảo an toàn đối với tất cả các khía cạnh kinh doanh mà tập đoàn thực hiện trên toàn cầu.

Nguyên tắc 25 – Quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước nước sở tại và nước nguyên xứ: Việc giám sát hợp nhất xuyên biên giới đòi hỏi sự hợp tác và trao đổi thông tin giữa cơ quan quản lý nhà nước nước sở tại với các cơ quan quản lý có liên quan, chủ yếu là các cơ quan quản lý nhà nước của nước nguyên xứ. Các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng phải yêu cầu các hoạt động tại nước sở tại của ngân hàng nước ngoài được thực hiện theo cùng một tiêu chuẩn như đối với các tổ chức trong nước.

VIỆT NAM:

XÂY DỰNG NỀN TẢNG PHÁP LÝ CHO

HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM

(KHOẢN VIỆN TRỢ KHÔNG HOÀN LẠI IDF - TF 058269)

NỘP CHO


NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

ĐƠN VỊ SOẠN THẢO

The Aries Group, Ltd.

HOA KỲ

LIÊN DANH VỚI

VISION & ASSOCIATES

VIỆT NAM

THÁNG 06/2009






BÁO CÁO VỀ PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH

CỦA LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

Joe Chertkow – Chuyên gia luật ngân hàng

Tháng 06/2009
Giới thiệu

Mục đích của báo cáo này là nhằm xử lý vấn đề nêu trong tài liệu có tựa đề “Thuyết minh chi tiết Dự thảo 8 Luật các TCTD” (“Thuyết minh”) về phạm vi điều chỉnh của Luật các TCTD.

Cụ thể là bản Thuyết minh nêu rõ có hai loại ý kiến về vấn đề này:

Ý kiến thứ nhất: Luật không nên điều chỉnh hoạt động ngân hàng của tổ chức khác.

Ý kiến thứ hai: Luật nên điều chỉnh hoạt động ngân hàng của tổ chức khác.

Bản Thuyết minh cũng nêu rằng:



Ý kiến của NHNNVN: NHNNVN nhất trí với loại Ý kiến thứ hai. Theo đó, điều chỉnh nội hàm khái niệm hoạt động ngân hàng để phân loại TCTD. Theo đó, các tổ chức khác được coi là các TCTD phi ngân hàng và vẫn phải chịu sự thanh tra giám sát của NHNNVN.

Nhóm Tư vấn ủng hộ ý kiến của NHNNVN là Luật TCTD mới cần điều chỉnh các hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác bằng cách điều chỉnh nội hàm khái niệm hoạt động ngân hàng, qua đó điều chỉnh khái niệm phân loại TCTD và coi các tổ chức này là TCTD phi ngân hàng, chịu sự thanh tra giám sát của NHNNVN.

Sau đây Nhóm Tư vấn sẽ cung cấp các lập luận ủng hộ Ý kiến của NHNNVN (Ý kiến thứ hai), và nêu một số ý kiến về TCTD phi ngân hàng trong Luật các TCTD mới.

Áp dụng Tiêu chuẩn Quốc tế về Thanh tra Giám sát Ngân hàng

Các tiêu chuẩn quốc tế quan trọng và phù hợp nhất đều nằm trong các Nguyên tắc Cơ bản (Nguyên tắc Cơ bản) để Thanh tra Giám sát Ngân hàng Hiệu quả (2006) của Uỷ ban Basel về Thanh tra Giám sát Ngân hàng. Một số nguyên tắc là:



Nguyên tắc Cơ bản 1 Mục tiêu, quyền độc lập, thẩm quyền, minh bạch và hợp tác: “Một khuôn khổ pháp lý phù hợp cho công tác thanh tra giám sát ngân hàng cũng là cần thiết, bao gồm các quy định về việc cấp phép thành lập ngân hàng và thanh tra giám sát thường xuyên....”

Nguyên tắc Cơ bản 2 Các hoạt động được phép tiến hành: “Cần quy định rõ các hoạt động mà các tổ chức được cấp phép và là đối tượng của thanh tra giám sát như các ngân hàng được phép thực hiện, và việc sử dụng cụm từ “ngân hàng” trong tên gọi của các tổ chức này cần phải được kiểm soát chặt chẽ nhất có thể.”

Nguyên tắc Cơ bản 19 Phương thức thanh tra giám sát: “Một hệ thống thanh tra giám sát hiệu quả yêu cầu là cơ quan thanh tra giám sát phải luôn hiểu rõ về hoạt động của từng ngân hàng và tập đoàn ngân hàng, và của toàn hệ thống ngân hàng, chú trọng vào sự an toàn và tính ổn định của hệ thống ngân hàng.”

Theo quan điểm của Nhóm Tư vấn, theo các Nguyên tắc Cơ bản và các bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trong những năm gần đây, một yêu cầu hợp lý là phải quản lý các ngân hàng và các tổ chức khác hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng trên diện rộng. Điều này có nghĩa là nếu một tổ chức tham gia vào bất cứ hoạt động ngân hàng nào thì cũng cần phải xin giấy phép và phải là đối tượng thanh tra giám sát.

Chúng tôi ủng hộ mạnh mẽ quyết định áp dụng luật TCTD cho cả các ngân hàng và các TCTD phi ngân hàng. NHNNVN cần phải đóng vai trò quản lý và thanh tra giám sát các tổ chức nhận tiền gửi và cả các tổ chức không nhận tiền gửi.

Theo ý kiến của chúng tôi, cần phải quản lý trên diện rộng tất cả các TCTD và các tổ chức khác thực hiện hoạt động ngân hàng.1

Nhóm Tư vấn thấy rằng một trong những bài học chính rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trong các năm gần đây là các tổ chức phi ngân hàng – nghĩa là các tổ chức không nhận tiền gửi không kỳ hạn nhưng vẫn cấp tín dụng – có thể gây ra những rủi ro và bất ổn cho hệ thống tài chính. Đó là do các tổ chức này có thể huy động vốn trên thị trường liên ngân hàng bằng cách vay các tổ chức nhận tiền gửi, và có thể bán hoặc chứng khoán hoá các tài sản nợ của họ cho các định chế tài chính khác có nhận tiền gửi từ công chúng.

Khái niệm TCTD phi ngân hàng và “hoạt động ngân hàng” trong Dự thảo 8 Luật các TCTD

Điều 2 Luật các TCTD năm 1997 quy định về việc áp dụng luật cho các TCTD và “hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác”.

Nhóm Tư vấn thấy rằng Dự thảo Luật các TCTD (bản mới nhất là Dự thảo 8) có cách xử lý khác cho các “tổ chức khác”. Cách xử lý này là đưa các tổ chức khác vào loại hình TCTD phi ngân hàng theo Điều 4.3. Cách phân biệt giữa ngân hàng và các TCTD phi ngân hàng là “các hoạt động ngân hàng” của các tổ chức phi ngân hàng không bao gồm hoạt động nhận tiền gửi cá nhân và dịch vụ thanh toán thông qua tài khoản của khách hàng.

Điều 4.3 quy định “TCTD phi ngân hàng bao gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các TCTD phi ngân hàng khác.”

Không tổ chức nào được phép thực hiện các hoạt động ngân hàng mà không được phép của NHNNVN. Do đó khái niệm các TCTD phi ngân hàng và yêu cầu phải được NHNNVN cấp phép là biện pháp để quản lý các tổ chức này trên diện rộng và để tạo điều kiện cho NHNNVN thanh tra giám sát “các tổ chức khác”. Nhóm Tư vấn ủng hộ mạnh mẽ cách quy định như vậy, như nêu trong Ý kiến thứ hai.

Một số câu hỏi và ý kiến về TCTD phi ngân hàng

Theo quan sát của Nhóm Tư vấn, Nhóm nhận thấy Dự thảo 8 Luật các TCTD có các quy định chi tiết về hoạt động kinh doanh của “công ty tài chính” và “công ty cho thuê tài chính” (Mục 3, Điều 108, 112 - Dự thảo 8).

Điều này dẫn đến một câu hỏi lớn như sau: Vậy tại sao không có quy định về các TCTD phi ngân hàng khác? Nói khác đi, có phải Luật còn thiếu quy định về các TCTD phi ngân hàng? Các quy định về hoạt động của các TCTD phi ngân hàng khác không phải là “công ty tài chính” và “công ty cho thuê tài chính” nằm ở đâu?

Có thể NHNNVN sẽ nêu ý kiến là hiện nay thị trường Việt Nam chưa có loại hình doanh nghiệp này. Tuy nhiên, trong tương lai có thể có các loại hình doanh nghiệp mới và Dự thảo Luật các TCTD dĩ nhiên cần phải lường trước được khả năng xuất hiện loại hình doanh nghiệp mới này trong tương lai. Như đã phân tích, Luật các TCTD đã được soạn thảo theo đó phạm vi điều chỉnh bao gồm cả các “tổ chức khác”, dưới loại hình TCTD phi ngân hàng.

Do đó chúng tôi đặt ra các câu hỏi sau:


  • Cách xử lý đối với “TCTD phi ngân hàng khác” khi các loại hình doanh nghiệp mới xuất hiện trong thị trường tài chính?

  • Trong Dự thảo 8 dường như không có quy tắc hoạt động hoặc hạn chế cụ thể đối với các doanh nghiệp này? Một công ty có thể xin cấp phép là TCTD phi ngân hàng nếu, ví dụ, công ty này không muốn nhận bất cứ hình thức gửi tiền nào và chỉ muốn tiến hành hoạt động tạo tín dụng (ví dụ như một công ty thế chấp, hoặc công ty cấp thẻ tín dụng)?

  • Theo quy định tại Chương II Luật các TCTD thì có thể hiểu là một doanh nghiệp có thể xin cấp phép dưới hình thức TCTD phi ngân hàng khi đáp ứng một số điều kiện. Vậy NHNNVN có yêu cầu là doanh nghiệp này phải được cấp phép dưới hình thức công ty tài chính hay không?

  • Hay NHNNVN có thể cấp phép cho loại hình TCTD phi ngân hàng khác (ví dụ một loại hình mới, “Giấy phép chuyên môn nghiệp vụ ngân hàng”)?

  • NHNNVN có dự định sau này sẽ đưa các quy định về hoạt động kinh doanh và hạn chế đối với các loại hình TCTD phi ngân hàng khác vào Luật không?

Kết luận

Báo cáo này đưa ra các lập luận để ủng hộ quan điểm của NHNNVN (Ý kiến thứ hai), và có bổ sung một số quan điểm khác. Nhóm Tư vấn đã nói đến tầm quan trọng của các tiêu chuẩn quốc tế và yêu cầu phải quản lý trên diện rộng.

Nói tóm lại, Nhóm Tư vấn ủng hộ Ý kiến thứ hai trong việc xử lý vấn đề về các tổ chức khác trong Luật các TCTD. Nhóm cho rằng nếu một tổ chức thực hiện bất cứ loại hình hoạt động ngân hàng nào thì cũng phải xin cấp phép của NHNNVN và phải là đối tượng thanh tra giám sát.

Cuối cùng, như đã phân tích ở trên, Nhóm cho rằng trong tương lai NHNNVN cần phải làm rõ tính chất của các quy định về hoạt động và các hạn chế đối với các TCTD phi ngân hàng khác.


Thanh tra giám sát các Ngân hàng Chính sách

Don Macpherson – Chuyên gia giám sát ngân hàng


Giới thiệu và định nghĩa

Nhóm Tư vấn đã được yêu cầu đưa ra ý kiến về nội dung là liệu có nên đặt “Ngân hàng Chính sách” (NHCS) dưới sự thanh tra giám sát của NHNNVN hay không. Trước khi đưa ra ý kiến, Nhóm Tư vấn cho rằng cần phải thống nhất về định nghĩa khái niệm “Ngân hàng Chính sách”?

Cả 2 Luật NHNNVN lẫn Luật các TCTD đều chưa có định nghĩa “Ngân hàng Chính sách”. Điều 1 Dự thảo 8 Luật các TCTD có đề cập đến “ngân hàng chính sách, ngân hàng phát triển” và quy định “Chính phủ quy định về thành lập, tổ chức, quản lý và hoạt động của ngân hàng chính sách, ngân hàng phát triển” nhưng cũng không có định nghĩa cụ thể tại Điều 4 - Giải thích từ ngữ. Điều 4.2 có đề cập đến “các loại hình ngân hàng khác” nhưng cũng không nêu cụ thể những loại hình đó là gì.

Thậm chí Nhóm Tư vấn không thể tìm thấy định nghĩa khái niệm NHCS trên website của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế. Các tài liệu đề cập đến NHCS chỉ nói đến các ngân hàng phát triển Trung Hoa.

Có vẻ như chúng ta không thể định nghĩa khái niệm NHCS, nhưng khi gặp một ngân hàng kiểu này, chúng ta đều biết nó thuộc loại hình NHCS.

Trong khuôn khổ tài liệu này, Nhóm Tư vấn xin định nghĩa NHCS như một định chế tài chính do Chính phủ trực tiếp hoặc gián tiếp sở hữu hoặc cấp vốn với mục đích cung cấp tín dụng và các dịch vụ khác nhằm khuyến khích đầu tư trong một ngành cụ thể của nền kinh tế hoặc để đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội cụ thể.

Xin lưu ý là định nghĩa này có thể bao gồm một định chế tài chính không được gọi là ngân hàng nhưng có thể coi như một “Tổng công ty”, “Quỹ” hay dạng tổ chức khác. Ví dụ như Ngân hàng Phát triển Việt nam trước đây chính là Quỹ Hỗ trợ Phát triển.

Có nên đặt NHCS dưới sự thanh tra giám sát của NHNNVN hay không?

Mục tiêu cơ bản của thanh tra giám sát ngân hàng là nhằm:



  • giảm rủi ro thiệt hại đối với người gửi tiền và người cho vay tiền khác

  • duy trì lòng tin của công chúng đối với hệ thống tài chính quốc gia

  • bảo vệ hệ thống thanh toán

  • duy trì một hệ thống ngân hàng hiệu quả và cạnh tranh

Vì một NHCS không nhận tiền gửi, nên không cần thiết phải đặt dưới sự thanh tra giám sát của NHNNVN. Tuy nhiên, cũng cần biết rằng Nhà nước, với tư cách là người cấp tín dụng lớn, cũng cần được bảo đảm là NHCS mà mình cấp vốn hoạt động lành mạnh. Có thể bảo đảm như vậy thông qua công tác kiểm toán thường xuyên của Kiểm toán Nhà nước, nếu cần thiết thì có hỗ trợ của các chuyên gia từ các công ty kiểm toán độc lập hoặc các công ty kiểm toán chuyên nghiệp khác.

Vì người dân chỉ sử dụng NHCS như một nguồn cấp tín dụng, và vì có Nhà nước hậu thuẫn cho các khoản nợ của NHCS đó nên người dân sẽ không quan tâm nhiều tới tình hình của NHCS. Nếu người dân mất lòng tin vào một NHCS thì đó là do họ mất lòng tin vào khả năng tín dụng của Nhà nước, mà tình trạng này thì nằm ngoài khả năng xử lý của NHNNVN.

Vì các NHCS không trực tiếp tham gia vào hệ thống thanh toán nên các hoạt động của các ngân hàng này không đem lại nguy cơ gì cho hệ thống thanh toán.

NHCS, theo đúng mục tiêu và nhiệm vụ của nó, thường cung cấp các dịch vụ theo các điều kiện và điều khoản không phải nhằm cạnh tranh với các ngân hàng thương mại. Đầu tiên, đó là chi phí vay, trong phần lớn các trường hợp, sẽ thấp hơn so với các ngân hàng thương mại khác. Mặt khác, để thực hiện nhiệm vụ của mình, các NHCS thường cho vay với mức lãi suất do chính phủ đặt ra nhằm trợ cấp cho các ngành là mục tiêu của NHCS. Các điều kiện này không phù hợp để áp dụng các chuẩn mực và thực tiễn thanh tra giám sát thông thường do NHNNVN thực hiện.

Từ đó cho thấy việc đưa NHCS vào diện thanh tra giám sát của NHNNVN không những không giúp đạt được mục tiêu thanh tra giám sát ngân hàng mà thậm chí còn làm giảm hiệu quả thanh tra giám sát vì sẽ tạo ra một nhóm đối tượng thanh tra giám sát được ưu tiên. Đó có thể là do cần phải có các quy tắc riêng áp dụng cho NHCS trong các lĩnh vực quan trọng như vốn pháp định, định giá tài sản và trích dự phòng nợ khó đòi, ghi nhận doanh thu, quản lý rủi ro, quản trị tổ chức, và các vấn đề khác. Nếu theo hướng này thì sẽ không tuân theo chuẩn mực thanh tra giám sát quốc tế và chắc chắn sẽ bị Chương trình Đánh giá Ngành tài chính của IMF phê phán.

Nhóm Tư vấn chưa thể hiểu hết tình hình thực tế tại Việt nam, nhưng có thể theo định nghĩa về NHCS như trên, thì tại Việt Nam cũng có các thực thể hoạt động như NHCS nhưng không được gọi là “ngân hàng”, cũng tương tự như tại nhiều quốc gia khác. Tại các quốc gia này, các thực thể tham gia các hoạt động tương tự như vậy và được gọi là các “tổng công ty phát triển”, “quỹ phát triển”, “tổng công ty nhà ở” hay các tên đại loại như thế. Nếu Việt Nam có các thực thể như vậy thì cần điều chỉnh một cách phù hợp các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của các thực thể này để đặt chúng dưới sự thanh tra giám sát của NHNNVN, hoặc phải ra quyết định đưa các thực thể này ra khỏi thẩm quyền thanh tra giám sát của NHNNVN. Tuy nhiên, như vậy sẽ tạo ra một tiền lệ không bình thường trong hệ thống là các NHCS sẽ bị NHNNVN giám sát, còn các thực thể chính sách tồn tại dưới hình thức khác thì không.

Từ những gì ít ỏi mà Nhóm Tư vấn có cơ hội tìm hiểu và tiếp cận, Nhóm Tư vấn thấy có rất ít bằng chứng hay cơ sở lý luận để ủng hộ ý kiến đặt NHCS dưới sự thanh tra giám sát của NHNNVN. Nhóm Tư vấn cũng không thấy tại bất cứ quốc gia nào mà cơ quan thanh tra giám sát đóng vai trò thanh tra giám sát các NHCS, có thể chỉ trừ Trung Quốc, nơi mà thậm chí mối quan hệ giữa các NHCS và cơ quan thanh tra giám sát cũng không hề rõ ràng.

Chỉ có một lập luận để ủng hộ việc đặt NHCS dưới sự thanh tra giám sát của NHNNVN là NHCS có thể nhận tiền gửi. Tuy nhiên, vì nghĩa vụ nợ của các NHCS được Nhà nước bảo đảm toàn bộ, nên không cần thiết phải giám sát các ngân hàng này để bảo vệ người gửi tiền. Hơn thế nữa, cũng không cần thiết phải coi các nghĩa vụ nợ đó là các khoản “tiền gửi”. Có lẽ có một thuật ngữ phù hợp hơn cho trường hợp này là “chứng chỉ đầu tư có bảo đảm”, với hàm ý được chính phủ bảo đảm.

Chính phủ, với tư cách là người đứng ra bảo đảm cho các nghĩa vụ, sẽ phải quan tâm đến chất lượng tài sản của NHCS. Thông qua các biện pháp tổng thể như quản trị tổ chức, quản lý rủi ro, kiểm toán (nội bộ và bên ngoài), chính phủ sẽ có thể được bảo đảm là NHCS đang hoạt động lành mạnh.

Do vậy, Nhóm Tư vấn thiên về ý kiến cho rằng các tổ chức được gọi là, hoặc có hoạt động như các Ngân hàng Chính sách tại Việt Nam không nên đưa vào là đối tượng thanh tra giám sát của NHNNVN.



Giám sát các Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt nam

Don Macpherson – Chuyên gia giám sát ngân hàng


Giới thiệu

Các Ngân hàng thương mại thường tạo lập sự hiện diện của mình tại các nước khác ngoài quốc gia mà nó đăng ký thành lập, hay còn được gọi là “nước đặt trụ sở ngân hàng mẹ - nước nguyên xứ”. Quốc gia mà Ngân hàng đó có sự hiện diện sẽ được gọi là “nước đặt cơ sở” hay “nước sở tại”. Khi đó nước sở tại sẽ gọi thực thể ngân hàng đó là “ngân hàng nước ngoài”, trong cả các văn bản pháp luật và thực tiễn.

Tại nước sở tại, Ngân hàng nước ngoài thường được thành lập dưới các hình thức sau:


  • Công ty con

  • Chi nhánh

  • Văn phòng đại diện

Tùy theo quy định của luật pháp nước sở tại mà các Ngân hàng nước ngoài thành lập cơ sở của mình dưới một hoặc nhiều hình thức.

Nếu không tính đến các yếu tố đặc biệt, thông thường các ngân hàng nước ngoài chọn hình thức chi nhánh nếu luật pháp nước sở tại cho phép, để cung cấp các dịch vụ ngân hàng bằng toàn bộ nguồn lực vốn của ngân hàng mẹ. Tuy nhiên, điều này có thể tạo ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh đối với các ngân hàng trong nước, và người gửi tiền trong nước có thể sẽ gặp phải rủi ro lớn hơn.

Nhóm Tư vấn cho rằng nếu đứng trên quan điểm thanh tra giám sát, cần phải quản lý và thanh tra giám sát thực thể nước ngoài trên cơ sở tương tự như các ngân hàng trong nước, về các lĩnh vực rủi ro chính như vốn, thanh khoản, chất lượng tài sản, ngoại hối, quản trị và điều hành. Nói tóm lại, phải làm thể nào để có thể tách được chi nhánh ngân hàng nước ngoài khỏi những khó khăn tại các bộ phận khác của hệ thông ngân hàng mẹ, trong khi vẫn phải tiếp tục để ngân hàng mẹ hỗ trợ chi nhánh đó.

Dự thảo Luật các TCTD cho phép các ngân hàng nước ngoài được thành lập cơ sở tại Việt nam theo cả 3 hình thức:

Luật Ngân hàng Nhà nước - Dự thảo 12:


  • Điều 6.10: Quyền cấp và thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài

  • Điều 6.11: Quyền thanh tra giám sát hoạt động ngân hàng

  • Điều 54.1 & 2: NHNNVN thanh tra giám sát các chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Luật các TCTD - Dự thảo 8



  • Điều 2: Luật áp dụng cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài

  • Điều 4.10: Giấy phép mở chi nhánh ngân hàng nước ngoài

  • Điều 17: Ngân hàng Nhà nước là cơ quan cấp phép

  • Điều 18: Yêu cầu về vốn pháp định đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài

  • Điều 19: Điều kiện cấp giấy phép

  • Chương VII (Điều 138) - Thẩm quyền thanh tra, giám sát, kiểm tra của NHNN: chi nhánh ngân hàng nước ngoài chịu sự thanh tra, giám sát, kiểm tra của NHNN

Như vậy, NHNNVN có đủ thẩm quyền cần thiết để thanh tra giám sát các chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Tuy nhiên, vẫn có một số thiếu sót trong dự thảo Luật các Tổ chức tín dụng khi xử lý vấn đề chi nhánh ngân hàng nước ngoài:



  • Điều 18.1.d trong bản Dự thảo cũ (Dự thảo 5) đã quy định là chi nhánh ngân hàng nước ngoài không cần phải có điều lệ mới được cấp phép, nhưng Nhóm Tư vấn cũng không rõ liệu một chi nhánh thì đã đủ tư cách pháp nhân như một công ty hay chưa. Nhóm Tư vấn phải giả định là có là vì các điều khoản sau đó đưa ra các điều kiện bổ sung để có thể thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài (Điều 18.2 Dự thảo 5).

  • Điều 18.2.a & b Dự thảo 5 (tương ứng với Điều 19.2.b và c trong Dự thảo 8) có vẻ như cho phép chi nhánh ngân hàng nước ngoài được tiến hành một số hoạt động ngân hàng mà Ngân hàng Việt Nam có thể bị cấm thực hiện.

Nhóm tư vấn xin đề xuất là chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được phép thực hiện các dịch vụ mà ngân hàng Việt Nam bị cấm.

Nhóm cũng xin lưu ý rằng chưa thấy có điều khoản tương ứng nào về việc ngân hàng Việt nam có thể mở chi nhánh ở nước ngoài. Trừ khi nội dung này được nêu cụ thể tại hiệp định thương mại song phương hay đa phương, nếu không thì phải quy định cấm ngân hàng nước ngoài lập cơ sở tại Việt Nam nếu quốc gia nước ngoài đó không có quy định về việc ngân hàng Việt Nam có thể thành lập cơ sở tại nước đó.



  • Có thể củng cố Điều 18.2.e Dự thảo 5 (bản Dự thảo 8 đã bỏ phần này) bằng cách quy định cơ quan thanh tra giám sát nước nguyên xứ phải tuyên bố không phản đối việc NHNNVN cấp phép cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Các nguyên tắc thanh tra giám sát Chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Một cơ chế thanh tra giám sát phù hợp đối với mô hình chi nhánh ngân hàng nước ngoài yêu cầu phải phân chia nhiệm vụ một cách phù hợp giữa các cơ quan giám sát của nước nguyên xứ và nước sở tại, và phải có cơ chế liên lạc và hợp tác thích hợp giữa các cơ quan này.

Sự hợp tác hiệu quả của các cơ quan thanh tra giám sát tại nước nguyên xứ và nước sở tại là cực kỳ quan trọng đối với công tác thanh tra giám sát chi nhánh ngân hàng nước ngoài. NHNNVN cần phải đảm bảo là cơ quan thanh tra giám sát tại nước nguyên xứ phải được thông báo ngay lập tức về bất cứ vấn đề nghiêm trọng nào phát sinh tại chi nhánh của ngân hàng mẹ tại nước ngoài. Tương tự như vậy, NHNNVN phải được biết chắc chắn là cơ quan giám sát tại nước nguyên xứ sẽ thông báo cho Cơ quan Thanh tra Giám sát Ngân hàng Việt Nam khi có vấn đề phát sinh trong hoạt động của ngân hàng mẹ, mà vấn đề này có thể ảnh hưởng tới chi nhánh của ngân hàng này tại Việt Nam.

Sẽ nảy sinh vấn đề nếu NHNNVN cho rằng quốc gia đặt trụ sở ngân hàng mẹ chưa tiến hành thanh tra giám sát hoặc giám sát không đầy đủ ngân hàng mẹ. Khi đó, Ngân hàng Nhà nước Việt nam cần hạn chế hoặc cấm ngân hàng từ quốc gia đó lập chi nhánh tại Việt Nam. Hoặc NHNNVN có thể đặt ra các điều kiện cụ thể để điều chỉnh hoạt động kinh doanh của các chi nhánh ngân hàng đó.

Thanh tra NHNNVN chịu trách nhiệm thanh tra giám sát hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam với tư cách là một thực thể ngân hàng độc lập, trong khi cơ quan thanh tra giám sát tại nước nguyên xứ chỉ thanh tra giám sát chi nhánh đó như một bộ phận của một ngân hàng, theo đó sẽ tiến hành thanh tra tổng thể các hoạt động của nhóm ngân hàng đó trên toàn thế giới trên cơ sở hợp nhất. Nhiệm vụ thanh tra giám sát đó của NHNNVN và của cơ quan thanh tra giám sát tại nước nguyên xứ là bổ sung cho nhau và có một số nội dung cả hai bên cùng phải thực hiện.

Nguyên tắc thanh tra giám sát hợp nhất là ngân hàng mẹ và cơ quan thanh tra giám sát tại nước nguyên xứ theo dõi mức độ rủi ro – bao gồm khả năng tích tụ các rủi ro và chất lượng tài sản – của ngân hàng và nhóm các ngân hàng thuộc trách nhiệm của mình, cũng như tính an toàn vốn trên cơ sở tổng nguồn vốn của nhóm ngân hàng đó, bất chấp việc ngân hàng đó đặt các cơ sở tại đâu. Nguyên tắc này không có nghĩa là trách nhiệm thanh tra giám sát chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động trên lãnh thổ Việt nam của Thanh tra NHNNVN bị giảm đi.

Có thể xem xét vấn đề thanh tra giám sát chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên ba (03) lĩnh vực là: khả năng chi trả, khả năng thanh toán, tình trạng và hoạt động ngoại hối. Trong một chừng mực nào đó thì ba lĩnh vực này có chồng chéo nhau. Ví dụ, vấn đề về khả năng thanh toán và khả năng chi trả có thể không có ranh giới rõ ràng. Ngoài ra, các cân nhắc đánh giá về khả năng thanh toán và khả năng chi trả khi tiến hành thanh tra giam sát tình hình và hoạt động ngoại hối của ngân hàng.

1. Khả năng chi trả

Khả năng chi trả của chi nhánh ngân hàng nước ngoài chính là khả năng chi trả của ngân hàng mẹ. Do vậy, mặc dù NHNNVN có nhiệm vụ giám sát chung tính lành mạnh về mặt tài chính của chi nhánh, nhưng cơ quan thanh tra giám sát tại nước đặt trụ sở của ngân hàng mẹ mới chịu trách nhiệm chính về việc giám sát khả năng chi trả này. Quy định về “vốn pháp định” của chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong Luật các TCTD không hề cản trở nguyên tắc này. Quy định này trước tiên là để buộc phải có và duy trì một khoản đầu tư tối thiểu nhất định tại chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, và để đảm bảo các điều kiện cạnh tranh công bằng giữa các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng trong nước.



2. Khả năng thanh toán

Đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì phải nói ngay là việc giám sát khả năng thanh toán chủ yếu là nhiệm vụ của NHNNVN. Cơ quan này được trang bị đầy đủ nhất để giám sát khả năng thanh toán, vì khả năng thanh toán liên quan tới các hoạt động của chi nhánh tại Việt Nam, các quy định và hoạt động của thị trường trong nước. Đồng thời, khả năng thanh toán của tất cả các chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng luôn là mối quan tâm của cơ quan thanh tra giám sát nước nguyên xứ, vì khả năng thanh toán của chi nhánh thường do ngân hàng mẹ trực tiếp kiểm soát và không thể coi đó chỉ là vấn đề cục bộ, không liên quan tới toàn bộ nhóm ngân hàng này. NHNNVN và cơ quan thanh tra giám sát tại nước nguyên xứ cần phải bàn bạc thường xuyên mỗi khi không chắc chắn là cơ quan nào sẽ thực hiện trách nhiệm thanh tra giám sát khả năng thanh toán trong một trường hợp cụ thể.



3. Tình trạng và hoạt động ngoại hối

Về mảng giám sát này, cả NHNNVN lẫn cơ quan giám sát tại nước nguyên xứ phải cùng chịu trách nhiệm. Các ngân hàng mẹ rất cần phải có hệ thống theo dõi rủi ro ngoại hối của toàn bộ hệ thống từ trụ sở chính đến chi nhánh, và cơ quan thanh tra giám sát tại nước nguyên xứ cũng cần phải theo dõi các hệ thống này. NHNNVN cần có khả năng theo dõi các rủi ro ngoại hối của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và được cung cấp thông tin về tính chất và phạm vi công tác thanh tra giám sát các chi nhánh này của các cơ quan thanh tra giám sát tại nước nguyên xứ.



Áp dụng các nguyên tắc

1. Cấp phép và hoạt động

Quan trọng nhất là phải quy định các điều kiện để được cấp giấy phép đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải tương đương như đối với các ngân hàng Việt Nam. Các quy định tại Điều 18 của dự thảo 5 Luật các TCTD là phù hợp, nghĩa là đối tượng xin cấp phép phải có kế hoạch kinh doanh rõ ràng, phải cam kết luôn đặt đủ vốn dưới dạng tiền mặt hoặc hoặc các loại chứng khoán được chấp nhận tại Ngân hàng Nhà nước hay TCTD khác, có đội ngũ quản lý và nhân viên phù hợp. Bên cạnh đó, còn cần phải đáp ứng các điều kiện nêu trong Điều 18.2 Dự thảo 5 và

- chi nhánh không được phép cung cấp các dịch vụ mà các ngân hàng Việt Nam bị cấm thực hiện

- cơ quan quản lý tại nước đặt trụ sở ngân hàng đang xin cấp phép lập chi nhánh phải tạo cơ hội tương đương cho các ngân hàng Việt nam nếu muốn vào hoạt động tại nước đó.

Hơn nữa, và quan trọng nhất là NHNNVN phải thấy công tác quản lý và thanh tra giám sát tại nước nguyên xứ là thoả đáng. Phải có thỏa thuận hay cam kết chia sẻ thông tin về chi nhánh và về ngân hàng mẹ với cơ quan thanh tra giám sát tại nước nguyên xứ.

2. Vốn pháp định (còn được quốc tế gọi là Capital Equivalency)

Điều 17 Dự thảo 5 (Điều 18 Dự thảo 12) cho phép NHNNVN quy định mức vốn pháp định đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài và yêu cầu chi nhánh ngân hàng đó phải luôn duy trì giá trị thực của vốn điều lệ tối thiểu bằng mức vốn pháp định đó.

Nếu chi nhánh ngân hàng nước ngoài chưa thực hiện theo quy định này thì NHNNVN cần hướng dẫn cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài đó và các chi nhánh khác xin cấp phép trong tương lai về việc giám sát vốn pháp định, cùng các vấn đề sau:

a) Đơn xin cấp phép thành lập chi nhánh của ngân hàng nước ngoài phải có báo cáo chỉ rõ nơi ngân hàng đó đặt vốn pháp định, các điều kiện và điều khoản chung trong thoả thuận đặt vốn. Thỏa thuận đặt vốn phải được ngân hàng nước ngoài, tổ chức nhận đặt vốn và NHNNVN cùng ký kết. Tổ chức nhận đặt vốn không được là tổ chức liên kết với chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Không thể chấm dứt hiệu lực của thỏa thuận đặt vốn trừ phi có chấp thuận trước bằng văn bản của NHNNVN. Yêu cầu chấm dứt hiệu lực của thỏa thuận đặt vốn phải được lập bằng văn bản và sẽ không có hiệu lực khi chi nhánh ngân hàng nước ngoài chưa xác định được một định chế tài chính khác làm nơi đặt vốn và khi chưa có chấp thuận của NHNNVN.

b) Các tài sản tạo thành Vốn pháp định phải là tài sản không bị ràng buộc. Để đảm bảo chất lượng Vốn pháp định, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải xin phê chuẩn của NHNNVN nếu muốn bổ sung, bán hoặc thay đổi tài sản. Ví dụ về tài sản đủ chất lượng để đưa vào vốn pháp định là tiền mặt và chứng khoán có tính thanh khoản cao. Việc cho phép sử dụng các dạng tài sản khác phụ thuộc vào cả chất lượng tài sản lẫn khả năng tài chính của ngân hàng mẹ và của chi nhánh.

c) Vốn pháp định được xác định bằng tổng các khoản nợ, tức là toàn bộ các khoản nợ của chi nhánh ngân hàng nước ngoài có từ hoạt động kinh doanh tại Việt Nam như được báo cáo định kỳ cho Ngân hàng Nhà nước Việt nam, bao gồm cả các khoản phải trả cho các đơn vị liên kết của chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhưng không bao gồm các chi phí cộng dồn và các khoản phải trả cho ngân hàng mẹ.

d) Tổ chức nhận đặt vốn phải báo cáo thường xuyên cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài về tất cả các giao dịch có ảnh hưởng tới Vốn pháp định và gửi một bản sao báo cáo đó cho NHNNVN

e) Chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải ghi chép hàng ngày các khoản nợ phải dùng Vốn pháp định để chi trả. Vào cuối mỗi quý, chi nhánh phải tính toán và báo cáo NHNNVN số nợ trung bình trong giai đoạn đó và phải thực hiên tăng vốn pháp định nếu được yêu cầu trong một khoảng thời gian nhất định

3. Thanh tra và giám sát

a) Chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải được thanh tra và giám sát như các TCTD khác dưới thẩm quyền thanh tra giám sát của NHNNVN. Các điều khoản về thanh tra giám sát trong Chương VII Dự thảo 12 Luật các TCTD được áp dụng cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài, và đã là phù hợp. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, cũng giống như các TCTD khác, phải báo cáo về hoạt động của mình cho NHNNVN bằng cách cung cấp các thông tin cần thiết để NHNNVN phân tích. Cán bộ NHNNVN sẽ tiến hành thanh tra tại chỗ đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài, sử dụng phương pháp thanh tra giám sát dựa trên rủi ro.

b) Cần đặc biệt lưu ý về tính tuân thủ hạn mức cho vay. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải xác định hạn mức cho vay căn cứ vào vốn pháp định của chính chi nhánh chứ không phải vốn của ngân hàng mẹ.

c) Cần đưa ra hạn mức cho số tiền phải thu từ trụ sở chính hay các đơn vị khác trực thuộc ngân hàng mẹ, bao gồm cả các công ty con của ngân hàng mẹ. Điều đó có nghĩa là chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được chuyển toàn bộ số tiền gửi mà chi nhánh đó nhận tới các đơn vị khác của ngân hàng mẹ mà không có hạn chế gì. Đối với các khoản cho vay lớn, hạn mức này tính theo tỷ lệ phần trăm số vốn pháp định của chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

d) Cần hạn chế số lợi nhuận chuyển về ngân hàng mẹ. Tương tự, mức hạn chế cần phải được căn cứ vào mức Vốn pháp định của chi nhánh, và không cho phép chuyển lợi nhuận nếu NHNNVN thấy rằng mức vốn pháp định tại chi nhánh ngân hàng là chưa thoả đáng. Theo đó, phải tăng vốn điều lệ cho phù hợp với tốc độ tăng trưởng của chi nhánh.

e) Báo cáo thanh tra giám sát sẽ được gửi về ngân hàng mẹ và cho cơ quan thanh tra giám sát tại nước nguyên xứ một cách phù hợp, dựa vào các phát hiện của công tác thanh tra giám sát.

f) Cơ quan giám sát tại nước nguyên xứ phải xin chấp thuận của NHNNVN nếu muốn tới làm việc tại chi nhánh của ngân hàng đó ở nước ngoài và NHNNVN không được rút lại chấp thuận này mà không có lý do. Đại diện của cơ quan thanh tra giám sát tại nước nguyên xứ phải tới gặp NHNNVN sau khi kết thúc chuyến kiểm tra để báo cáo về các phát hiện và chia sẻ thông tin.

g) Cơ quan kiểm toán của ngân hàng mẹ muốn tới làm việc tại chi nhánh của ngân hàng đó ở nước ngoài phải xin chấp thuận của NHNNVN và phải gặp NHNNVN, giống như đại diện cơ quan thanh tra giám sát của nước nguyên xứ.



XỬ LÝ VẤN ĐỀ VỀ TẬP ĐOÀN NGÂN HÀNG

TRONG LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

Joe Chertkow – Chuyên gia luật ngân hàng

Tháng 06/2009
Giới thiệu

Mục đích của báo cáo này là nhằm xử lý các vấn đề nêu trong tài liệu có tựa đề “Thuyết minh chi tiết Dự thảo 8 Luật các TCTD” (“Thuyết minh”) về việc xử lý mô hình “tập đoàn ngân hàng” trong Dự thảo Luật các TCTD.

Cụ thể là bản Thuyết minh nêu rõ có hai loại ý kiến về vấn đề này:

Ý kiến thứ nhất: Luật các TCTD mới cần có quy định về tập đoàn ngân hàng (“các tập đoàn ngân hàng phải có công ty mẹ hoặc công ty con là ngân hàng. Phạm vi hoạt động của tập đoàn chỉ giới hạn trong lĩnh vực tài chính”).

Ý kiến thứ hai: Luật các TCTD mới không nên điều chỉnh mô hình tập đoàn ngân hàng vì đây là khái niệm mới ở Việt Nam, và chưa có tính ổn định.

Bản Thuyết minh cũng nêu rằng:

Ý kiến của NHNNVN: NHNNVN nhất trí với ý kiến thứ hai. Tuy nhiên, để hạn chế rủi ro tiềm tàng cho hoạt động của ngân hàng trong tập đoàn ngân hàng, Luật các TCTD cần có quy định kiểm soát an toàn hoạt động của các ngân hàng thông qua việc kiểm soát hoạt động sở hữu chéo và hoạt động đầu tư trong nhóm các công ty, ngân hàng này”.

Báo cáo này xem xét và đánh giá hai ý kiến trên và đưa ra một số kiến nghị.



Ý nghĩa Khái niệm “Tập đoàn Ngân hàng”

Vậy ý nghĩa của khái niệm “tập đoàn ngân hàng” có thể là gì? Bản Thuyết minh của NHNNVN có nêu ra khái niệm này, là tập đoàn ngân hàng phải có một ngân hàng là công ty mẹ hoặc công ty con.

Theo quan điểm của Tư vấn, có 3 cách định nghĩa tập đoàn ngân hàng theo kinh nghiệm quốc tế:


  • Tập đoàn ngân hàng có một ngân hàng là công ty mẹ của một hoặc một số công ty con hoạt động trong lĩnh vực tài chính như chứng khoán, bảo hiểm, cho thuê tài chính, v.v. Ví dụ, tại Việt Nam hiện nay, một ngân hàng lớn như Vietcombank có thể hoạt động với các công ty con, bao gồm một công ty chứng khoán.

  • Tập đoàn ngân hàng có một ngân hàng như trên, nhưng thêm vào đó có một công ty mẹ hoặc công ty nắm quyền kiểm soát Ngân hàng, với mức độ kiểm soát được định nghĩa trong luât. Ví dụ, Điều 133 của Dự thảo 8 Luật các TCTD định nghĩa “công ty nắm quyền kiểm soát” là công ty nắm giữ 20% vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần có quyền biểu quyết của ngân hàng.

  • Khái niệm tập đoàn ngân hàng giống với khái niệm thứ hai ở trên, nhưng bao gồm việc thừa nhận một cách chính thức một Công ty Nắm giữ Ngân hàng (Bank Holding Company - BHC) là công ty trực tiếp sở hữu Ngân hàng và trực tiếp hoặc gián tiếp sở hữu các công ty con trong ngành tài chính. Nếu theo mô hình Công ty Nắm giữ Ngân hàng, công ty này có thể sở hữu 100% Ngân hàng. Tại một số quốc gia một Công ty Nắm giữ Ngân hàng phải tuân thủ hoàn toàn các quy định pháp luật về ngân hàng và thanh tra giám sát ngân hàng. Ví dụ, đây là mô hình theo Đạo luật Ngân hàng Canađa. (Dự thảo Luật các TCTD hiện nay không theo mô hình này vì theo như Dự thảo Luật các TCTD hiện tại, chỉ có ngân hàng nước ngoài mới được sở hữu 100% một TCTD tại Việt Nam).

Có thể thấy là Dự thảo Luật các TCTD (bản mới nhất là Dự thảo 8) không có định nghĩa khái niệm “tập đoàn ngân hàng”, và cũng công có định nghĩa khái niệm “tập đoàn ngân hàng” trong bất cứ luật nào khác của Việt Nam. Tuy nhiên, Dự thảo Luật các TCTD có định nghĩa “ngân hàng”, “công ty con”, “công ty liên kết” và “công ty nắm quyền kiểm soát” một ngân hàng.

Điều 146 Chương VII Luật Doanh nghiệp có đưa ra khái niệm về Nhóm Công ty như sau:

Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác.”.

Nhóm công ty bao gồm các hình thức sau đây:



a) Công ty mẹ - công ty con;

b) Tập đoàn kinh tế;

c) Các hình thức khác.

Có vẻ như với mô hình tập đoàn ngân hàng, hình thức “công ty mẹ và công ty con” là phù hợp nhất.

Các quy định trong Luật Doanh nghiệp không toàn diện. Có các quy định về “Quyền và trách nhiệm của công ty mẹ đối với công ty con” (Điều 147). Có cả các quy định về “Báo cáo tài chính của công ty mẹ và công ty con” (Điều 148). Nội dung nổi bật nhất trong điều 148 là yêu cầu “báo cáo tài chính hợp nhất của nhóm công ty theo quy định của pháp luật về kế toán”; báo cáo tổng hợp kết quả kinh doanh hằng năm của nhóm công ty; báo cáo tổng hợp công tác quản lý, điều hành của nhóm công ty.
Tiêu chuẩn Quốc tế về mô hình Tập đoàn Ngân hàng

Cần lưu ý rằng các tiêu chuẩn quốc tế quan trọng và phù hợp nhất đều nằm trong các Nguyên tắc Cơ bản để Thanh tra Giám sát Ngân hàng Hiệu quả (2006) của Uỷ ban Basel về Thanh tra Giám sát Ngân hàng. Cụ thể là cần lưu ý các Nguyên tắc Cơ bản sau trong vấn đề về Tập đoàn Ngân hàng:



Nguyên tắc Cơ bản 3: Tiêu chuẩn cấp phép -- “Quy trình cấp phép ít nhất phải bao gồm đánh giá về cơ cấu sở hữu và quản trị của ngân hàng và tập đoàn sở hữu ngân hàng....”

Nguyên tắc Cơ bản 7: Quy trình Quản trị Rủi ro -- “Cơ quan thanh tra giám sát phải thấy hài lòng về việc các ngân hàng và tập đoàn ngân hàng có quy trình quản trị rủi ro một cách toàn diện...”

Nguyên tắc Cơ bản 19: Phương pháp thanh tra giám sát -- “Một hệ thống thanh tra giám sát hiệu quả yêu cầu là cơ quan thanh tra giám sát phải luôn hiểu rõ về hoạt động của từng ngân hàng và tập đoàn ngân hàng...”

Nguyên tắc Cơ bản 21: Báo cáo thanh tra giám sát -- “Cơ quan thanh tra giám sát phải có cách thu thập, đánh giá và phân tích các báo cáo an toàn và kết quả thống kê của các ngân hàng, cả báo cáo cho riêng ngân hàng và báo cáo hợp nhất...”

Nguyên tắc Cơ bản 24: Thanh tra giám sát hợp nhất -- “Một nhân tố thiết yếu của công tác thanh tra giám sát ngân hàng là cơ quan thanh tra giám sát sẽ tiến hành thanh tra giám sát tập đoàn ngân hàng trên cơ sở hợp nhất...”

Do đó rõ ràng là theo tiêu chuẩn quốc tế, công tác thanh tra giám sát ngân hàng và các TCTD cần có các nội dung liên quan đến thanh tra giám sát tập đoàn ngân hàng. Câu hỏi chúng ta cần đặt ra là liệu Dự thảo Luật các TCTD đã tuân thủ đầy đủ các tiêu chuẩn quốc tế (Nguyên tắc Cơ bản) nêu trên hay chưa hay là có một số thiếu sót cần giải quyết bằng cách sửa đổi bản Dự thảo Luật để đảm bảo tuân thủ theo tiêu chuẩn quốc tế?



Các quy định trong Dự thảo Luật các TCTD liên quan đến Tập đoàn Ngân hàng

Cần lưu ý rằng, theo đánh giá của chúng tôi về Dự thảo 8, bản Dự thảo này có một số quy định quan trọng liên quan đến vấn đề tập đoàn ngân hàng và việc tuân theo các Nguyên tắc Cơ bản:

Điều 101 – Góp vốn, mua cổ phần

Điều 133 – Hạn chế đối với công ty chi phối, kiểm soát ngân hàng

Điều 134 – Quyền và trách nhiệm của công ty chi phối, kiểm soát ngân hàng đối với ngân hàng thương mại; ngân hàng thương mại đối với công ty con, công ty liên kết

Điều 135 – Góp vốn, mua cổ phần giữa các công ty con, công ty liên kết của cùng một công ty kiểm soát

Điều 130.3 – Tỷ lệ bảo đảm an toàn2

Cũng cần lưu ý rằng Điều 55, Dự thảo 12 Luật NHNNVN (“Nguyên tắc thanh tra, giám giát ngân hàng”) nêu rõ rằng thanh tra giám sát sẽ được thực hiện trên cơ sở hợp nhất.

Trước tiên, Nhóm Tư vấn nhận thấy rằng Điều 101 Dự thảo 8 Luật các TCTD (Điều 94 Dự thảo 5 trước đây) được chỉnh sửa khá nhiều. Cụ thể là, sau khi được NHNN chấp thuận, ngân hàng thương mại phải thành lập công ty con, công ty liên kết để thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán, cho thuê tài chính, bảo hiểm và quản lý tài sản bảo đảm. Điều này có nghĩa là sẽ có yêu cầu phải sử dụng mô hình công ty con để thực hiện một số hoạt động tài chính. Trong các trường hợp này, ngân hàng thương mại sẽ là công ty mẹ của các công ty con hoạt động trong lĩnh vực tài chính.

Theo ý kiến của Nhóm Tư vấn, Điều 133 Dự thảo 8 Luật các TCTD là rất quan trọng đối với vấn đề tập đoàn ngân hàng.3

Thứ hai, Nhóm Tư vấn nhận thấy Điều 133 quy định một số nghĩa vụ của các công ty sở hữu trực tiếp hay gián tiếp trên 20% vốn điều lệ hoặc nắm quyền kiểm soát của một ngân hàng thương mại. (Xin lưu ý là Điều 53.4 có quy định là không được sở hữu trên 20% vốn điều lệ của một TCTD.)

Một vấn đề nữa với quy định của Điều này là có nội dung về nắm giữ 20% vốn cổ phần có quyền biểu quyết. Không phải trong trường hợp nào sở hữu 20% cũng thực sự là có quyền “kiểm soát” – ví dụ, một công ty có thể chỉ là một công ty sở hữu thông thường như các công ty khác nếu có 5 công ty, mỗi công ty đều sở hữu 20% vốn của ngân hàng. Trong trường hợp này thì công ty nào sẽ nằm quyền “kiểm soát”? Mặt khác, nếu trong trường hợp chỉ có một công ty nằm quyền sở hữu 20% vốn của một ngân hàng thương mại, còn 80% còn lại phân bổ rải rác cho các cổ đông nhỏ hơn, thì đúng là công ty đó đã có lợi ích chi phối đối với ngân hàng.

Do đó, theo ý kiến của Nhóm, cần làm rõ khái niệm “kiểm soát” tại Điều 133.

Ví dụ, Nhóm kiến nghị sửa đổi Điều này để làm rõ khái niệm “Công ty nắm quyền kiểm soát” như sau:

Một “công ty nắm quyền kiểm soát” của một ngân hàng là một công ty sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp 20% vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần có quyền biểu quyết hoặc nắm quyền kiểm soát của một ngân hàng thương mại. Trong Điều này, “quyền kiểm soát của một ngân hàng thương mại” nghĩa là một cổ đông có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp lên ngân hàng thương mại, và nếu sử dụng ảnh hưởng này thì sẽ thực sự chi phối ngân hàng thương mại đó.”

Trong khi có quy định về công ty nằm quyền kiểm soát một ngân hàng thương mại, Điều 133 cũng quy định một số nghĩa vụ quan trọng của ngân hàng nhằm đảm bảo tính an toàn và lành mạnh của một ngân hàng thương mại:



  • “phải được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần đại chúng và phải là công ty hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, bảo hiểm.

  • phải duy trì giá trị thực của vốn điều lệ tối thiểu bằng mức vốn pháp định theo quy định của NHNNVN

  • phải thiết lập hệ thống quản trị rủi ro và kiểm soát nội bộ các hoạt động đầu tư của công ty

  • phải được NHNN chấp thuận trước khi thành lập công ty con, công ty liên kết hoặc thực hiện các hoạt động đầu tư nhằm nắm quyển kiểm soát doanh nghiệp khác.”

Theo ý kiến của Nhóm Tư vấn, các yêu cầu nêu trên là hợp lý và hữu ích để đảm bảo tính an toàn và lành mạnh của các ngân hàng thương mại. Các nghĩa vụ này cũng là những bước tiến đáng kể để áp dụng các Nguyên tắc Cơ bản nêu trên.

Tuy nhiên, Nhóm Tư vấn thấy rằng chưa có yêu cầu là công ty nắm quyền kiểm soát sẽ phải báo cáo trực tiếp cho NHNNVN, và cũng chưa có quy định rõ ràng là NHNNVN có thẩm quyền thanh tra giám sát đối với các công ty này. Theo quan điểm Nhóm Tư vấn, có lý do hợp lý để quy định NHNNVN thanh tra giám sát “công ty nắm quyền kiểm soát”, vì lý do tương tự với việc NHNNVN có quyền thanh tra giám sát ngân hàng thương mại và các công ty con của ngân hàng.

Nhóm Tư vấn cũng cho rằng cách hành văn trong Điều 133 cũng cần phân biệt rõ giữa hoạt động ngân hàng và hoạt động thương mại. Điều 133 hiện nay quy định công ty nắm quyền kiểm soát là công ty hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, bảo hiểm. Đây là quy định rất tiến bộ của bản Dự thảo. Về Khoản 4 Điều 133, cần quy định là các công ty con, công ty liên kết hoặc các doanh nghiệp khác đó chỉ hoạt động trong ngành tài chính hoặc ngành có mối liên quan trực tiếp với ngành tài chính4. Không nên để các công ty kiểm soát đầu tư vào các lĩnh vực không có mối tương quan tới ngành tài chính như bất động sản, xây dựng hay sản xuất hàng hoá tiêu dùng, vì kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc này có thể sẽ gây rủi ro đối với tính an toàn và lành mạnh của ngân hàng thương mại và các các công ty con trong ngành tài chính

Nói tóm lại, các Điều trên đã giải quyết một số vấn đề liên quan đến tập đoàn ngân hàng, trong cả hai trường hợp ngân hàng là công ty mẹ và công ty của tập đoàn.



Đánh giá Ý kiến thứ nhất và Ý kiến thứ hai

1. Về Ý kiến thứ nhất:

Ý kiến thứ nhất: “Luật các TCTD mới cần có quy định về tập đoàn ngân hàng.”

Sau khi xem xét các vấn đề trong báo cáo này, Nhóm Tư vấn thấy rằng:



  1. Các tiêu chuẩn quốc tế (các Nguyên tắc Cơ bản) yêu cầu là khuôn khổ thanh tra giám sát ngân hàng hiệu quả phải giải quyết được một số vấn đề có liên quan về tập đoàn ngân hàng.

  2. Dự thảo Luật các TCTD hiện nay không có định nghĩa cụ thể cho khái niệm “tập đoàn ngân hàng”, nhưng Dự thảo có một số quy định về tập đoàn ngân hàng.

  3. Do đó Dự thảo Luật các TCTD đã được định hướng theo tiêu chuẩn quốc tế.

  4. Nhóm Tư vấn đã kiến nghị là Dự thảo Luật các TCTD và Luật NHNNVN cần có quy định để NHNNVN có thẩm quyền lớn hơn trong việc thanh tra giám sát công ty nắm quyền kiểm soát ngân hàng thương mại.

Do đó, Nhóm ủng hộ Ý kiến thứ nhất và cho rằng NHNNVN cần phải thanh tra giám sát các tập đoàn ngân hàng; nhưng Nhóm không cho rằng cần phải có định nghĩa cụ thể về khái niệm “tập đoàn ngân hàng” trong Luật các TCTD.

2. Về Ý kiến thứ hai:

Ý kiến thứ hai: “Luật các TCTD mới không nên điều chỉnh mô hình tập đoàn ngân hàng vì đây là khái niệm mới ở Việt Nam, và chưa có tính ổn định.”

Bên cạnh các ý kiến của Nhóm Tư vấn về Ý kiến thứ nhất, Nhóm cũng xin lưu ý các điểm sau:



  • Ý kiến chung của Nhóm Tư vấn là hoàn toàn không đồng ý với quan điểm là không nên đưa một hoạt động vào luật vì hoạt động đó mới đang trong giai đoạn thí điểm, hoặc cho rằng thời điểm hiện tại là quá sớm để đưa mô hình này vào hoạt động thanh tra giám sát của NHNNVN. Ngược lại, Nhóm Tư vấn cho rằng phương án khôn ngoan là đưa một hoạt động mới vào khuôn khổ pháp luật để đảm bảo là hoạt động này được thực hiện một cách an toàn nhằm đảm bảo sự an toàn và ổn định của ngành ngân hàng.

  • Nhóm Tư vấn không ủng hộ Ý kiến thứ hai nhưng Nhóm cho rằng cần làm rõ hơn Ý kiến thứ hai, vì như đã nêu trong báo cáo này, Dự thảo Luật các TCTD hiện nay đã có một số nội dung quy định về tập đoàn ngân hàng, theo định hướng tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế.




  • Nhóm Tư vấn cũng nhận thấy là NHNNVN thống nhất với ý kiến 2, nhưng để hạn chế rủi ro tiềm tàng cho hoạt động của ngân hàng trong hoạt động ngân hàng, Luật các TCTD vẫn có một số quy định liên quan đến mô hình này. Nhóm Tư vấn hiểu rằng như vậy nghĩa là NHNNVN cho rằng cần phải đưa vào một số quy định trong Luật các TCTD, và NHNNVN không cho rằng Luật TCTD không thể không có quy định nào liên quan đến vấn đề này, và NHNNVN nhất trí xử lý một số vấn đề về thanh tra giám sát ngân hàng có liên quan đến mô hình tập đoàn ngân hàng.



Kết luận

Chúng tôi xin tóm tắt kết luận của mình như sau:



  • Rõ ràng là Dự thảo 8 Luật TCTD đã có cải thiện về vấn đề xử lý các tập đoàn ngân hàng, bao gồm các quy định về (i) ngân hàng thương mại và các công ty con của nó và (ii) công ty kiểm soát ngân hàng thương mại. Các quy định tương ứng trong Luật các TCTD đã được nêu tóm tắt ở phần trên.

  • Không có định nghĩa cụ thể cho khái niệm “tập đoàn ngân hàng” trong Dự thảo Luật các TCTD, nhưng theo quan điểm của Nhóm không nhất thiết phải đưa định nghĩa vào thì mới đảm bảo được tính hiệu quả của Luật.

  • Nhóm Tư vấn ủng hộ Ý kiến thứ nhất và cho rằng NHNNVN cần phải thanh tra giám sát các tập đoàn ngân hàng.

  • Theo quan điểm của Nhóm, Luật đã thể hiện được một số tiến bộ trong việc tuân thủ các tiêu chuẩn thế giới về thanh tra giám sát tập đoàn ngân hàng, như đã phân tích ở trên.

  • Nhóm xin đề xuất là Luật các TCTD và Luật NHNNVN cần có quy định cụ thể về việc thanh tra giám sát một công ty nắm quyền kiểm soát ngân hàng thương mại. Nhóm cũng xin kiến nghị là luật cần phân biệt rõ giữa các hoạt động ngân hàng và hoạt động thương mại, và quy định một tập đoàn ngân hàng (dù ngân hàng là công ty mẹ hay công ty con trong tập đoàn) chỉ có thể thực hiện các hoạt động tài chính ngân hàng hoặc các hoạt động có liên quan với ngành tài chính, và các tập đoàn này không được phép đầu tư vào các hoạt động thương mại hoặc công nghiệp.



1 Khi nêu ý kiến này, Nhóm Tư vấn không có hàm ý đưa các Ngân hàng Chính sách vào phạm vi điều chỉnh của Luật các TCTD. Nhóm đã soạn thảo một báo cáo riêng về vấn đề này. Nhóm ủng hộ ý kiến của phía NHNNVN là không nên điều chỉnh mô hình Ngân hàng Chính sách trong Luật các TCTD vì tổ chức và hoạt động của các ngân hàng này khác với các ngân hàng thông thường, và các ngân hàng chính sách hoạt động và tổ chức theo quy định cụ thể của Thủ tướng.

2 “Tổng số vốn của một tổ chức tín dụng đầu tư vào tổ chức tín dụng khác, công ty con của tổ chức tín dụng dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần và các khoản đầu tư dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần nhằm nắm quyền kiểm soát các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, quản lý tài sản bảo đảm phải trừ khỏi vốn tự có khi tính các tỷ lệ an toàn.”

3 Trong phân tích của chúng tôi, chúng tôi đang giả sử là ngân hàng thương mại là một công ty cổ phần, không phải một Ngân hàng Thương mại Quốc doanh

4 các ngành có liên quan tới ngành tài chính co thể là thông tin di động, hệ thống thông tin quản lý, v.v



Каталог: DuThao -> Lists -> DT TAILIEU -> Attachments
Attachments -> Luật giao thông đường thủy nội địa sau 8 năm thực hiện
Attachments -> Công ước số 138 Công ước về Tuổi tối thiểu được đi làm việc, 1973
Attachments -> Các đơn vị đặc nhiệm một số quốc gia
Attachments -> KẾt hôn có YẾu tố NƯỚc ngoàI: LÚng túng “ĐUỔI” theo thông tư
Attachments -> Bộ luật Dân sự Việt Nam hiện đại Đỗ Giang Nam
Attachments -> Công ước số 182 Công ước Nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, 1999
Attachments -> Số 279: Sở hữu đất đai
Attachments -> Tìm hiểu về quân đội vũ trang cách mạng Cu-ba
Attachments -> Lực lượng đặc nhiệm sas (Special Air Service) của Quân đội Hoàng gia Anh
Attachments -> MỘt số GÓP Ý cho dự thảo luật phòNG, chống rửa tiềN

tải về 338.41 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương