12 người lập ra nước Nhật Mục lục Lời tựa của dịch giả



tải về 1.61 Mb.
trang1/24
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích1.61 Mb.
#4415
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   24
                        

Nguyên tác của : Sakaiya Taichi     Người dịch : Đặng Lương Mô



12 người lập ra nước Nhật

Mục lục

Lời tựa của dịch giả

Mở đầu: Bây giờ chính là lúc học lịch sử

Chương I: Thái tử Shotoku -  Người khởi xướng "tư tưởng gộp đạo Thần-Phật-Nho"

Thủy tổ của khái niệm tôn giáo của người Nhật


Thời chuyển tiếp từ "thời sơ cổ" sang "thời cổ"
Sự đối lập xung quanh vấn đề công nhận Phật giáo  
"Chính quyền liên hiệp" giữa hoàng gia và họ Soga  
Khởi xướng "tư tưởng gộp đạo" duy nhất trên thế giới  
Phong cách "chọn lấy chỗ tốt"  
Cội nguồn của "xã hội chức lộc"

Chương II : Hikaru Genji - Người mẫu cho kiểu "chính khách thanh nhã"

Hikaru Genji có thật không?


Ðại biểu cho giới quý tộc thời đại Heian  
Việc làm của một chính khách quý tộc  
Ðiểm gốc của khái niệm "thanh nhã"  
Sự xuất hiện của chính trị gia kiểu "Hikari Genji"  
Tính cách vô lãnh đạo của "Chủ nghĩa tập thể"  
Khác nhau lớn giữa "quý phái" và "thanh nhã"  
"Thanh nhã kiểu Nhật" không còn đắc dụng nữa

Chương III : Minamoto Yoritomo - Người sáng chế ra "cấu tạo quyền lực hai tầng"

"Chính quyền kỳ lạ" chưa từng thấy


Yoritomo xuất hiện
"Chinh di Ðại tướng" chỉ là một chức tư lệnh quân đội
Bề ngoài là chế độ luật lệnh, thực chất là cơ chế "mạc phủ"
Bắt đầu truyền thống "thực quyền thuộc kẻ dưới"  
Yoritomo mở ra nền "chính trị võ gia"  
Người nắm quyền lực lớn Hojo Masako xuất hiện  
Quan chức ngoài luật lệnh đã sinh ra cấu trúc hai tầng

Chương IV : Oda Nobunaga - Người anh hùng bị phủ nhận của lịch sử Nhật Bản

Thời chiến quốc, thời kỳ đổi mới kỹ thuật lớn


Thằng đại ngốc thống nhất vùng Owari  
Trận Okehazama không phải là đánh úp  
Phương sách "phân ly binh nông" thể hiện nhu cầu thời đại  
Chiến thuật mới là "Chơi xấu"  
Cơ chế thị trường tự do "chợ vui, tổ buôn vui" đã làm đổi nền kinh tế  
Sự thay đổi tổ chức và sư xuất hiện của "binh gia" chuyên nghiệp  
"Rải võ ra khắp thiên hạ" và ý thức "quốc gia"  
Viễn tượng về một vương quyền tuyệt đối đầu tiên trên thế giới

Chương V : Ishida Mitsunari - Người sáng tạo ra loại hình "Kế hoạch kiểu Nhật"

Thủy tổ của kế hoạch do quan liêu trung cấp


Vận không may và vụng đánh trận
Năm quan Ðại Lão và năm quan Chấp Chính  
Mưu đồ vĩ đại  
Phương pháp làm kế hoạch của Mitsunari  
Dùng Mori Terumoto làm tổng chỉ huy để chống lại Tokugawa Yeyasu  
Kịch hay, diễn dở

Chương VI : Tokugawa Yeyasu - Cải cách với "ý chí tăng trưởng"

Từ "con tin" trở thành "đại chúa tể"


Dựng thành Edo với chức năng thủ đô.  
Triết lý "tín nghĩa" và "nhẫn nại"  
Việc phổ cập "ý thức quan trên" và nền "trật tự phong kiến"  
Tiêu chuẩn đánh giá nhân tính của Ieyasu  
Từ "xu hướng tăng trưởng" tới "xu hướng ổn định"  
Sự hình thành của bản tính "đảo quốc" và tính "nghi kị ngoại quốc"

Chương VII: Ishida Baigan - Triết lý dân gian "cần cù và tiết kiệm"

Thủy tổ của "Tâm học Thạch môn"


Xã hội võ sĩ samurai là xã hội "tổng số zero"  
Sự phát đạt “bong bóng” thời Genroku  
Thời Yoshimune có thế tình giống như ngày nay  
Làm ăn cần cù là tu thân  
Ngồi không là uổng  
Mâu thuẫn giữa làm ăn cần mẫn và lối sống thanh bần
Chủ trương chi ly đã trở thành thói quen buôn bán  
Sự kỹ tính phát triển thành lý luận về nhân cách của con người trong tổ chức  
Ý thức "Xa xỉ là kẻ Ðịch"  
"Chủ nghĩa đâu ra đó" phát sinh ra từ nền Tâm học Thạch Môn

Chương VIII: Okubo Toshimichi - Người dựng nên "chế độ quan liêu (công chức)"

Nguồn gốc của thể chế "quan liêu (công chức) chỉ đạo"  


Chế độ quan liêu (công chức) đã không thể thiếu được cho sự hiện đại hóa.  
Dùng quyền hạn và mưu lược phân hóa phe phản đối  
Xây dựng một nước không để cho ngoại quốc coi thường  
Xây dựng cơ chế trong nước dập theo Ðế quốc Ðức.  
Giữ chức Bộ trưởng Nội vụ nắm toàn thể nền chính trị quốc gia  
Chế độ quan liêu được tăng cường sau khi Okubo qua đời  
Khuyết điểm của chế độ quan liêu kiểu Ðức  
Tình trạng bó chân bó tay ngày nay

Chương IX: Shibusawa Ei-ichi - Thủy tổ của "chủ nghĩa tư bản Nhật"

Người lập ra "giới kinh tài"


Trước nhất lập ra chế độ lưu thông tiền tệ  
Cha đẻ ra chủ nghĩa hòa hợp kiểu Nhật Bản  
Iwasaki Yataro, một tồn tại đối chọi  
Chủ nghĩa cá nhân trong phép kinh doanh của Iwasaki  
Ðối chọi trực tiếp với Iwasaki trong ngành vận tải đường biển  
"Tài phiệt" và Nhóm Xí nghiệp Liên hệ khác nhau thế nào?  
"Giới tài phiệt," đoàn thể của những nhà kinh doanh làm thuê  
Khuyết điểm của chủ nghĩa góp vốn  
Thang danh vọng kiểu Nhật Bản  
Ðã đến lúc thoát xác khỏi mẫu người Shibusawa  
Giới hạn của sáng kiến xuất phát từ "Luận ngữ"

Chương X: MacArthur - Thí nghiệm biến Nhật Bản thành một "nước Mỹ lý tưởng"

Tốt nghiệp thủ khoa trường võ bị Westpoint


Ðoạt lại Philippines rồi chiếm đóng Nhật Bản  
Biến thành kiểu mẫu cho một "nước Mỹ lý tường"  
Hãy là Thụy Sĩ của Viễn Ðông  
Du nhập nền luân lý coi trọng bình đẳng và an toàn  
Chủ nghĩa dân chủ đầu phiếu và nền tự trị địa phương trở nên trống rộng  
"Thể chế năm ‘55" đánh đổ chính sách giải thể tài phiệt và giải phóng đất nông nghiệp  
Sinh ra nguyên nhân băng hoại chế độ gia tộc  
Cải cách luân lý và ý thức thẩm mỹ  
Phủ định tinh thần sinh ra sùng bái vật lượng và tín ngưỡng số lượng  
Là quân nhân đồng thời là nhà chính trị

Chương XI: Ikeda Hayato - Sự thực hiện một đại cường quốc kinh tế

Con đường tới "gấp đôi thu nhập"


Một công chức (quan liêu) thành đạt muộn  
Bắt đầu tôn thở GNP (Tổng Sản Phẩm (Sản lượng) Quốc gia)
Gặp dịp phồn thịnh chưa từng thấy từ thời Jinmu  
Thành công vượt xa kế hoạch  
Ý nghĩa của câu nói "người nghèo hãy ăn lúa mạch"  
Hướng tia mắt nhìn của quốc dân vào nước Mỹ giầu có  
Xây nhà máy trước nhất để phát triển địa phương  
Quy cách hóa con người và tập trung dân số vào thành thị  
Tăng cường thể chế chỉ đạo của quan liêu  
Sức mạnh của Hội Hoằng Chì trong việc thâu góp tiền ủng hộ

Chương XII: Matsushita Konosuke - Kinh doanh kiểu Nhật Bản và triết lý kinh doanh

Doanh gia trở thành anh hùng dân tôc  


Gặp gỡ điện khí  
Sự phổ cập "đường lối kinh doanh Matsushita" qua mạng lưới bán vững chắc  
Tại sao trở thành anh hùng dân tộc được?  
Khởi đầu kiểu "Kinh doanh Nhật Bản" với hình thức làm công suốt đời  
Kỹ thuật thì Honda, Kinh doanh thì Matsushita  
Công bố và thực thi phong trào PHP  
Xúc tiến chí hướng lập thân xử thế  
Ðẻ ra "Người xí nghiệp" và "Xã hội chức lộc"  
Tạo ra ảo tưởng coi doanh gia là "tài giỏi"  
Ðã đến lúc vượt qua ảnh hưởng của vĩ nhân

Chương kết: Kết luận



Lời tựa của dịch giả

 

Khi nói đến Nhật Bản thì không cứ gì ở Việt Nam, mà ở khắp nơi trên thế giới, người ta đều coi đó là một hiện tượng thần kỳ.



Vâng, với diện tích đất đai chỉ lớn hơn Việt Nam khoảng mười phần trăm1[1], và dân số khoảng gấp rưỡi Việt Nam2[2], Nhật Bản đang có sức mạnh kinh tế thứ nhì trên thế giới, bằng một nửa Mỹ3[3], bằng hơn năm lần Trung Quốc4[4]. Sản phẩm công nghiệp của Nhật, từ nặng tới nhẹ, từ lớn tới nhỏ, từ tinh vi tới siêu kỹ thuật, luôn luôn đứng hàng đầu thế giới.

Ấy thế mà, mới chỉ 150 năm trước đây thôi, khi Nhật Bản sắp sửa mở cuộc canh tân Minh Trị5[5] thì nói chung xã hội Nhật Bản, nền kinh tế Nhật Bản cũng không hơn gì Việt Nam thời đó. Ðừng nói gì chuyện 150 năm trước cho dông dài, hãy nhìn lại khoảng năm chục năm qua, tức là từ sau trận chiến tranh thế giới lần thứ hai, tới nay thôi, ai ai cũng phải nhìn nhận rằng Nhật Bản lại làm một phép lạ, một kỳ tích lần thứ hai, tức là phục hưng lại xứ sở của một nước thua trận, đã bị phá hủy tan hoang, để rồi trở lại sân khấu thế giới một cách hãnh diện là cường quốc kinh tế thứ hai thế giới.

Khi tôi bắt đầu sang du học Nhật Bản tháng 4 năm 1957, tức là chưa đầy 12 năm kể từ sau khi Nhật Bản thua trận chiến tranh thế giới lần thứ hai6[6], thì lúc đó Nhật Bản đã đứng đầu thế giới về nền công nghiệp đóng tàu. Lúc đó, mức thu nhập của một người trí thức tốt nghiệp đại học của Nhật so với người Mỹ, chỉ tương tự như mức thu nhập của người Việt Nam ngày nay so với người Mỹ, mà thôi. Thật vậy, khoảng những năm đầu của thập kỷ 1960, mức lương tháng của một người Nhật mới tốt nghiệp đại học là khoảng 50 đôla Mỹ. Trong khi đó, một người Mỹ có trình độ tương tự, lĩnh lương tháng trung bình là 600 đô-la nghĩa là hơn gấp 12 lần. Thế mà chỉ 20 năm sau thôi, thu nhập của người Nhật đã đuổi kịp người Mỹ rồi, và Nhật Bản nghiễm nhiên trở thành cường quốc kinh tế thứ nhì trên thế giới như vừa nói.

Ở địa vị một nước thua trận, bị quân đội Mỹ (quân đội đồng minh) chiếm đóng, với diện tích đất đai nhỏ hẹp, dân số đông đúc, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn, Nhật Bản đã vươn lên được để chỉ trong chưa đầy 20 năm sau, đã đường đường đứng ra tổ chức Thế Vận Hội đầu tiên ở châu Á năm 1964. Việc đăng cai tổ chức Thế Vận Hội chứng tỏ quốc lực của Nhật Bản đã hồi phục hoàn toàn.

Giới thiệu một tác phẩm nói về sự thành lập nước Nhật Bản, bằng cách chọn 12 nhân vật đã đóng góp nhiều nhất cho sự nghiệp đó, bởi một tác giả được coi là một chuyên gia hàng đầu về kinh tế, người đã được thủ tướng Obuchi mời vào làm bộ trưởng kế hoạch kinh tế để giải quyết những khúc mắc kinh tế, tài chính do tình trạng kinh tế bong bóng bị nổ xẹp gây ra, chúng tôi hi vọng cống hiến một số tư liệu lịch sử của một trường hợp dựng nước thường được coi là thành công, và đã được nhiều nước, nhất là những nước đang mở mang ở Ðông nam Á, lấy làm mẫu mực, để tham khảo và so sánh.

Trong số 12 người nói đến ở đây, không ai là vị vua khai thiên lập địa, cũng không ai là vị tướng tài đánh dẹp ngoại xâm. Mà họ là 12 người đã để lại ảnh hưởng sâu đậm đối với nước Nhật và người Nhật ngày nay. Họ là những người đã đưa ra quan niệm tôn giáo, tiêu chuẩn luân lý, phong cách xử thế, tức là những giá trị tinh thần của người Nhật, tới những cơ chế chính trị, kinh tế, xã hội còn tồn tại, hoặc vẫn còn ảnh hưởng lớn tới ngày nay.

Về cách diễn đạt, chúng tôi đã cố gắng "dịch từng chữ" của nguyên văn tiếng Nhật, cực lực tránh "dịch thoát," để không đưa cái chủ quan của người dịch vào nội dung. Ngoài ra, có rất nhiều từ, nhất là những từ có tính cách lịch sử, và nhiều sự kiện lịch sử trong nguyên văn vừa khó đọc lại vừa khó hiểu đối với độc giả Việt Nam. Trong những trường hợp này, chúng tôi đã cố gắng chú thích thêm cho đầy đủ. Chú thích xuất hiện dưới hai dạng: cước chú và lời chú đóng trong ngoặc đơn. Phần chú thích như vậy vốn không có trong bản gốc tiếng Nhật. Người dịch chịu trách nhiệm hoàn toàn về những chú thích như vậy.

Tại Thành phố Hồ Chí Minh, Xuân Quý Mùi (năm 2003)

Người dịch Ðặng Lương Mô

[1] Diện tích Việt Nam là khoảng 334 ngàn kilômét vuông, trong khi đó diện tích Nhật Bản là khoảng 369 ngàn kilômét vuông.

[2] Dân số Việt Nam là khoảng 80 triệu người, so với khoảng 120 triệu người của Nhật Bản.

[3] Mỹ có diện tích đất đai gấp khoảng 25,4 lần và dân số khoảng 2,5 lần Nhật Bản.

[4] Trung Quốc có diện tích đất đai gấp 26,5 lần và dân số gấp hơn 9 lần Nhật Bản.

[5] Vua Minh Trị của Nhật Bản chính thức thâu hồi được quyền chính trị là tháng 11 năm 1867.

[6] Nhật Bản chính thức đầu hàng phe đồng minh là ngày 15 tháng 8 năm 1945.

Lời mở đầu

Bây giờ chính là lúc học lịch sử

 

Nhật Bản hiện đang ở thời kỳ đổi mới lớn.



Trong thời kỳ đổi mới này, cái gì sẽ thay đổi và cái gì sẽ không thay đổi? Nếu thay đổi thì thay đổi như thế nào, yếu tố cũ nào nên giữ lại, yếu tố mới nào nên tiếp thu thêm?

Nghĩ như trên, trước hết phải hiểu thấu cái dòng lịch sử đã biến thành xương, thành thịt, thành con tim, thành “lòng” người Nhật.

Trong những cái coi là "có tính Nhật Bản," có cái đã hình thành sau cuộc chiến tranh Thái Bình Dương7[1], cũng có cái mới chỉ lan truyền rộng ra từ những năm chót của thập niên 1980, tức là khi "cơn thịnh vượng kinh tế bong bóng" hay là khi "xã hội ít con" đã xuất hiện, song cũng có cái đã được vun trồng trong sự kế thừa liên miên của lịch sử. Phần lớn những cái đó đã trở thành "tính dân tộc," "tính quốc dân" khó có thể thay đổi được.

Xưa nay, Nhật Bản có đủ loại hình văn hóa du nhập vào. Tổ tiên người Nhật đã tiếp xúc bằng con mắt kinh hoàng những văn hóa về hình thức sinh hoạt, từ quần áo, thức ăn, nhà ở tới kỹ thuật, học vấn, nghệ thuật, đạo đức, tôn giáo, chính trị, v.v., rồi đã chọn lọc kỹ càng, cái thì bỏ đi, cái thì tiêu hóa đi rồi cải tạo và vun đắp thành "tính Nhật," "kiểu Nhật." Ðây chính là một đặc trưng lớn của Nhật Bản và của người Nhật.

Hiện nay, Nhật Bản đang ở thời kỳ biến chuyển mạnh. "Chiến tranh lạnh" kết thúc đã làm cho thế giới đổi mới, đồng thời cái "thể chế hậu chiến8[2]" dễ thở ở Nhật Bản cũng đã băng hoại luôn rồi. Chính lúc này mới là lúc cần phải nhìn lại lịch sử, đi tìm cái lai lịch của Nhật Bản, tìm hiểu và nắm cho vững cái đặc sắc của xã hội và nền văn hóa mà người Nhật đã vun đắp lên.

Những vấn đề thời sự như cục diện chính trị, biến động thị trường từng ngày từng giờ thì đều dễ hiểu, dễ kể lại. Ai ai cũng ngóng nghe, và báo chí cũng loan truyền rộng rãi. Tuy nhiên, nếu nghĩ tới tương lai nước Nhật và người Nhật, tới cái mối quan hệ của nước Nhật và người Nhật với thế giới, thì cần phải nhìn thấu suốt lịch sử cùng bản chất của nước Nhật và người Nhật.

Trong những căn nguyên đã làm thành cái đặc trưng của nước Nhật Bản và người Nhật Bản, cái đặc sắc của xã hội Nhật Bản, thì có "vật" và "người," tức là "phong thổ" và "nhân vật."

Nói về phong thổ, Nhật Bản quả có một địa thế đặc biệt trên thế giới.

Thứ nhất, Nhật Bản nằm trong vùng gió mùa châu Á, có khí hậu tương đối ấm áp và ẩm ướt. Trạng thái này rất thích hợp cho việc trồng lúa. Vì thế, nền nông nghiệp trồng lúa đã phát triển rộng lớn. Lật lại những trang sử của Nhật Bản, người ta thấy rằng ngay sau thời đại bắt cá, gọi là thời "hoa văn dây thừng9[3]," thời đại canh tác thóc lúa đã xuất hiện rồi. Thời đại "du mục, chăn nuôi" vốn chiếm vị trí quan trọng trong lịch sử thế giới, thì lại không thấy có ở Nhật Bản. Núi non hiểm trở và bình nguyên nhỏ hẹp của lãnh thổ Nhật Bản không thích hợp cho việc xua đuổi chăn nuôi những đàn súc vật đông đảo. Vì vậy, người Nhật chỉ có những quan hệ rất mỏng manh với gia súc, và như vậy so với những nước khác vốn đã có kinh nghiệm của thời chăn nuôi gia súc, thì người Nhật tỏ ra yếu kém về thuật chế ngự những con vật có trí khôn.

Ðặc điểm thứ hai là lãnh thổ Nhật Bản do bốn hòn đảo lớn hình thành và ngăn cách với những nước khác bằng một "vùng biển không hẹp." Ðiều này có nghĩa là việc vượt biển vào Nhật Bản bằng số đông có tổ chức tập thể, có mục đích quân sự hoặc mục đích chính trị, thì rất khó. Tuy nhiên, vùng biển này lại không rộng đến nỗi không thể vượt qua được, dù chỉ bằng kỹ thuật thô sơ của thời cổ xưa. Vì vậy, sự ghi chép về người Nhật xuất hiện trong triều đình Trung Hoa đã có từ thế kỷ thứ nhất sau công nguyên.

Nói cách khác, quần đảo Nhật Bản vừa có tính cách cô lập về mặt quân sự và chính trị, song mặt khác lại có tính giao lưu văn hóa từ cổ xưa. May mắn thay, ở bờ bên kia vùng biển không quá hẹp cũng không quá rộng này, có bán đảo Triều Tiên và đại lục Trung Hoa, tức là một trong những vùng mở mang tiên tiến nhất trong lịch sử văn minh nhân loại.

Ở xa đại lục một quãng cách tương tự như Nhật Bản còn có Cuba và Madagasca. Song trong trường hợp những nước này, thì châu lục Mỹ hoặc châu lục Phi ở bờ bên kia, lại chỉ có nền văn minh cổ đại không lấy gì làm phát triển cho lắm. Bởi vậy, những đảo quốc này đã không được sự du nhập liên tục của những văn hóa cao độ từ đại lục vào. Ở điểm này, có thể nói cái vị trí địa lý của Nhật Bản, vừa cách xa không để cho các thế lực quân sự vượt qua được, nhưng lại vừa đủ gần để cho văn hóa vãng lai được, thì quả là độc đáo trên thế giới.

Ðặc điểm thứ ba là bốn hòn đảo chính của Nhật Bản làm thành một nhóm rất gọn. Hokkaido phát triển muộn hơn, chứ Kyushu, Shikoku và Honshu thì đã hợp lại thành một nước và có điều kiện thiên nhiên để phát triển. Vì vậy, khi có cùng một nền văn hóa đã phát triển, nên nếu có một thế lực chính trị nòng cốt ra đời, thì toàn thể dễ trở thành một quốc gia.

Chính vì vậy mà kể từ khi lịch sử viết thành chữ ra đời, tức là từ tiền bán thế kỷ thứ VII, cho tới nay, một quãng thời gian khoảng chừng 1400 năm, ở Nhật Bản đã có nhiều cuộc tranh chấp chính trị, nhiều vụ nội loạn, song trong tất cả những bè phái tranh giành nhau như vậy, không thấy có ai tự mình tuyên bố rằng "ta đây là một nước khác không phải là Nhật Bản." Phần lãnh thổ chủ yếu thì chưa bao giờ bị nước ngoài cai trị lâu năm cả, quốc gia cũng chưa bao giờ bị phân cắt.

Ba điều kiện kể trên, tức là "địa thế và khí hậu," "vị trí quốc tế" và "sự tóm gọn của lãnh thổ," quả thật đã có ảnh hưởng quan trọng và lớn lao tới lịch sử Nhật Bản. Có lẽ cũng vì vậy mà người Nhật ưa luận về "phong thổ," bất cứ sự việc gì cũng thuyết giải từ phong thổ. Tuy nhiên, nếu chỉ chú trọng vào phong thổ không thôi, thì đó cũng có khi nguy hiểm.

Thí dụ võ tướng Oda Nobunaga là người có tính tình rất phóng đạt, thì thường được giải thích rằng đó là bởi vì ông sinh trưởng ở vùng bình nguyên Mino-Owari rộng lớn. Song le, thời đại Nobunaga sinh ra, thì bình nguyên đó toàn là đồng lầy, có sông ngòi chi chít và rất ít quãng rộng cho ngựa chạy vòng quanh. Nghĩa là khó có thể nói rằng nhờ sinh trưởng ở vùng đồng bằng mà Nobunaga đã có tính tình phóng đạt như vậy được.

Nói cách khác, từ luận về phong thổ, rồi đi đến giải thích tính tình con người, hay có khi cả tình trạng của một chính quyền, là việc làm gò bó. Phong thổ Nhật Bản quả có ảnh hưởng rất lớn tới nước Nhật và người Nhật, song cái gì cũng chứng minh bằng sự xuất phát từ đó, thì e dễ sinh ra nhầm lẫn.

Ngược lại, ảnh hưởng của một "nhân vật" đặc thù nào đó, hoặc của một giai tầng hay tập thể mà nhân vật đó là tượng trưng, thì không nhỏ. Có không ít những cái mà nay ta coi là đương nhiên, thì một lúc nào đó trước đây đã do một người nào đó làm và từ đó đẻ ra tính độc đáo, tạo ra tính dân tộc riêng biệt của Nhật Bản.

Dĩ nhiên cái đó không phải chỉ do năng lực của cá nhân đó hay sự ngẫu nhiên mà xẩy ra được. Có lẽ nên nói rằng người đó, giai tầng người đó đã làm công việc tất yếu lịch sử, thì đúng hơn. Thế nhưng để cho dễ hiểu, nếu coi sự việc như vậy chẳng qua là đã được tượng trưng hóa bởi một nhân vật đặc thù nào đó, thì đây không phải là phương pháp dở.

Sách này chọn 12 "nhân vật" tượng trưng đã để lại ảnh hưởng sâu đậm đối với nước Nhật cho tới ngày nay.

Những người này đã hành động như thế nào trong giai đoạn nào của lịch sử? Ðiều mà họ đã làm còn tồn tại trong người Nhật ngày nay như thế nào? Nó đã kìm hãm ý nghĩ của người Nhật, của xã hội Nhật như thế nào? Thế rồi từ nay về sau, trong sự giao tế với thế giới, nó sẽ ảnh hưởng ra sao?

Cuốn sách này chính là muốn luận về những "nhân vật" này từ quan điểm như vậy.

Trong luận cứ như vậy, cả những "sự thật" đã được thần thoại hóa trong lịch sử cũng sẽ được đề cập, chứ không riêng gì sự nghiệp lịch sử của người đó, lai lịch xác đáng của người đó, hình ảnh đúng của người đó trong thời đại người đó thực sự sống. Tuy nhiên, cái tổng thể, kể cả những điều như vậy, đang có ảnh hưởng như thế nào tới nước Nhật và người Nhật ngày nay, sẽ để lại cái gì cho Nhật Bản sau này, và sẽ tiếp tục có ảnh hưởng như thế nào, chính là điều chúng tôi có chủ ý tìm hiểu ở đây.

[1] Chiến tranh Thái Bình Dương là nói mảng Thái Bình Dương của trận Chiến tranh thế giới lần thứ hai.

[2] “Thể chế hậu chiến” cũng gọi là “thể chế năm 55.” Xem chú 104 (Chương VII).

[3] Jomon Jidai.



Chương I : Thái tử Shotoku

Người khởi xướng tư tưởng gộp đạo Thần-Phật-Nho

 

Thủy tổ của khái niệm tôn giáo của người Nhật

Thái tử Shotoku là một trong những "nhân vật" quen biết nhất trong lịch sử Nhật Bản.

Sau khi qua đời ông được đặt tên thụy là Shotoku Taishi, tức là Thái tử Shotoku, chứ sinh thời ông tên là Umayado no Miko hoặc Kamitsu Umayado no Toyotomimi no Oji.

Những ai sinh trước thập niên 1960, thì hẳn còn nhớ hình bán thân Thái tử Shotoku in trên tờ giấy bạc 5 ngàn Yen hay tờ 10 ngàn Yen cũ. Ðây chỉ là một phần của hình vẽ thái tử đứng chung với hai người con. Hơn nữa, hình vẽ này có miêu tả đúng thái tử hay không, là vấn đề còn cần phải bàn luận thêm. Nhưng dù sao, hình vẽ này cũng đã trở thành quen thuộc như là "bộ mặt Thái tử Shotoku" vậy.

Truyền thuyết về Thái tử Shotoku trên phương diện tôn giáo và văn hóa có rất nhiều. Ðến nỗi ở hậu bán thập niên 1980, người ta đã thấy xuất hiện một tập sách hoạt họa vẽ Thái tử Shotoku, bán rất chạy trong giới trẻ. Một nhân vật lịch sử hoạt động về tôn giáo và ngoại giao, thường ra khó trở thành đề tài kể chuyện Kodan10[1] hay đề tài truyện cổ, thế mà đã thành kịch hí họa bán chạy, thì cũng lạ.

Thái tử Shotoku được chọn làm người thứ nhất trong "Mười hai người dựng nên nước Nhật," chính vì ông là người khởi xướng đồng thời là người thực hành "tư tưởng gộp đạo Thần-Phật-Nho," tư tưởng đã được cụ thể hóa thành quan niệm tôn giáo chi phối tâm thức người Nhật trong suốt một nghìn bốn trăm năm qua.

Ðây là tư tưởng tôn sùng cùng một lúc ba giáo lý: đó là Thần đạo hay tôn giáo dân gian của Nhật Bản, Phật giáo hay tôn giáo phát sinh ra ở Ấn Ðộ rồi truyền qua Trung Hoa và bán đảo Triều Tiên vào Nhật Bản, và Nho giáo phát sinh ra ở Trung Hoa, tức là những quy phạm đạo đức làm khuôn mẫu cho cách xử thế.

Từ đó tới nay, cái tư tưởng này không những đã quyết định hẳn quan niệm tôn giáo và quan niệm văn hóa của người Nhật, mà còn có ảnh hưởng lớn tới cung cách đối xử khi Nhật Bản tiếp thu văn hóa hay kỹ thuật từ nước ngoài vào. Ðồng thời, từ sau khi tư tưởng gộp đạo đã bén rễ rồi, thì tôn giáo không còn là một trục đối lập đáng kể ở Nhật Bản nữa. Thậm chí nếu một tôn giáo mới (ví dụ đạo Cơ Ðốc) du nhập vào, thì đó chẳng qua là lại có thêm một đối tượng nữa để tôn sùng. Sự khác biệt tôn giáo chỉ là ở chỗ đặt trọng điểm tín ngưỡng vào đâu mà thôi.

Ðối với người Nhật, thì chiến tranh tôn giáo là cái gì thật sự không hiểu nổi. Khi xét vấn đề Trung Ðông hay cuộc phân tranh Bosnia Helzegovina11[2], người Nhật hoàn toàn thấy mù tịt khi đi vào vấn đề tôn giáo! Chỉ vì khác tôn giáo mà đánh nhau đến bỏ mạng, là chuyện chưa bao giờ thấy có ở Nhật Bản, kể từ trận phân tranh giữa hai họ Soga và Mononobe thời Thái tử Shotoku cho tới ngày nay. Người dân nước này đã thành như vậy là do Thái tử Shotoku, hay ít nhất cũng là do cái tinh thần thời đại tượng trưng bởi thái tử.

Chương này sẽ kể lại "nhân vật" Thái tử Shotoku từ quan điểm nói trên. Song, trước hết, chúng ta thử nhìn lại xem thái tử đã sống trong thời đại như thế nào.

Thời chuyển tiếp từ "thời sơ cổ" sang "thời cổ"

Thời kỳ đáng coi là văn hóa đã thực sự bén rễ ở đảo quốc Nhật Bản này, là từ bao giờ? Thật ra, những nghiên cứu khảo cổ học càng đi sâu hơn thì thời kỳ như vậy càng thấy trở lui thêm về quá khứ. Song tựu trung, nhận thức chung là coi thời kỳ này ở vào khoảng thế kỷ thứ II.

Thời đó có nữ chúa Himiko, làm chúa một số thôn ấp và quy phục được một số thôn ấp xung quanh nữa. Người ta mặc loại y phục chỉ gồm có một mảnh vải đay đục lỗ ở giữa rồi chui cổ qua đó. Ðây là lời tường thuật trong sách "Ngụy chí Oải nhân truyện12[3]". Ngụy nói ở đây là nước Ngụy trong ba nước Ngụy, Ngô, Thục của truyện Tam Quốc Chí, nước đã được con của Tào Tháo13[4] dựng nên. Khi Trung Hoa đã ở thời kỳ Tam Quốc, thì Nhật Bản hãy còn ở tình trạng như kể trên vậy.

Tuy nhiên, có một sự thật được biết rất rõ là, trước thời đại Himiko cả hơn 150 năm, nghĩa là vào khoảng năm 57 sau công nguyên, đã có sứ giả của vua nước Nu người Oải tới kinh đô Lạc Dương của nhà Hậu Hán, Trung Hoa, trình cống vật và nhận "ấn vàng" (con dấu bằng vàng) của Hán Vũ đế. Truyện này chép trong sách Hậu Hán Thư. Vật được coi là "ấn vàng" đó, người ta đã đào thấy ở tỉnh Fukuoka vào thời chúa Tokugawa, nay vẫn có thể tới xem ở Viện bảo tàng Fukuoka.

Lại nữa, qua những điều tra gần đây, người ta đã lần lượt phát hiện ra nhiều ngôi mộ cổ xưa chứng tỏ rằng ngay thời Himiko, đã có ở vùng Kinki, tức là vùng quanh kinh đô Kyoto ngày nay, một triều vua với thế lực đáng kể. Xét những sự thật như vậy, không chừng ta có thể coi nền văn minh Nhật Bản đã có từ lâu trước thời đại Himiko.

Cũng có thể là một thời gian trước hoặc sau đầu công nguyên, nền canh nông đã phát triển và do đó đã có một triều vua. Tuy nhiên, dù cho thời đó đã có một triều vua đi chăng nữa, thì tôi cũng chỉ định nghĩa đó là một quốc gia "thời sơ cổ," chứ chưa phải là "thời cổ" tức là thời kỳ người ta đã biết coi trọng sự gia tăng số lượng vật chất.

Trong lịch sử Tây Âu, thì từ thời Kim tự tháp tới thời đế quốc La Mã tan rã, và trong lịch sử Trung Hoa, thì thời thái cổ kể từ nhà Ân, tức triều đại Hạ, cho tới đời Ðường, nghĩa là suốt khoảng thời gian trước thời "trung cổ" đều gọi là "thời cổ." Nhưng ngay trong khoảng thời gian dài này thì nửa trước và nửa sau đã có sự khác nhau lớn lao. Nên gọi thời đại mà con người chỉ biết gieo hạt rồi chờ thu hoạch trên những thửa đất có điều kiện thiên nhiên tốt, nghĩa là thời đại coi sự cầu đảo thần linh làm trọng hơn là trông cậy vào tri thức và sự cần cù, là "thời sơ cổ." Còn thời đại sau cách mạng nông nghiệp, tức là biết dùng thủy lợi và thâm canh để cải thiện đất đai, rồi do đó coi trọng kỹ thuật và sự cần mẫn, là "thời cổ." Theo tôi, thì chia ra như vậy mới đúng.

Thời Himiko rõ ràng chỉ là "thời sơ cổ," vì chưa thấy có kỹ thuật dẫn thủy nhập điền hay kỹ thuật đê điều. Nói khác đi, diện tích có thể canh tác được ở mỗi nơi đều nhỏ hẹp, và như thế, ở mỗi địa vực đều không thể sinh ra một quyền lực quốc gia mạnh lớn được.

Nhưng dần dần kỹ thuật cải thiện đất trồng trọt ngày một tiến bộ, kỹ thuật dẫn thủy nhập điền được phổ cập, thì diện tích canh tác rộng lớn ra. Kết quả là sự hình thành của quốc gia địa vực bao gồm cả vùng xung quanh mà đất đai không canh tác được nếu để nguyên trạng như thiên nhiên. Tiến bộ kỹ thuật đã làm cho luân lý thay đổi, hình thái quốc gia cũng từ dạng quốc gia đô thị biến thành quốc gia địa vực. Ðây chính là thời chuyển tiếp từ "thời sơ cổ" sang "thời cổ" vậy.

Không những diện tích canh tác đã được mở rộng sang vùng phụ cận, mà sức sản xuất cũng tăng lên. Vì thế, dân số gia tăng và sinh ra sản phẩm thặng dư. Do đó mới phát sinh ra quyền lực bắt người khác làm việc để mình thu lợi. Rồi, tổ chức và chế độ mới thành hình.

Những ngọn kim tự tháp hùng vĩ đã được dựng lên ở quốc gia đô thị thời thái cổ Ai Cập. Việc nặng nhọc khuân vác những tảng đá xây kim tự tháp đó, hẳn đã phải do bọn người nô lệ bị đánh đập, thôi thúc bằng roi vọt, khuân vác. Như vậy, có nhiều người tưởng rằng thời Kim tự tháp đó hẳn đã phải có nhiều nô lệ lắm. Nhưng thật ra, người ta đã biết rằng ở thời thái cổ Ai Cập, tức là lúc những kim tự tháp đó đã được xây dựng, thì hầu như không có người nô lệ. Ðây là vì, bắt một người khác làm việc cho mình, mà sức sản xuất của người đó không nuôi được hơn một miệng người, thì đó là việc làm vô nghĩa. Chế độ nô lệ chỉ trở thành đại quy mô kể từ "thời cổ" khi đã phát sinh ra hiện tượng sản phẩm thặng dư mà thôi.

Kỹ thuật cải thiện đất trồng trọt đã từ bình nguyên Kawachi lan sang thung lũng Yamato. Do đó, người ta cho rằng một vương quyền kiểu "thời cổ" đã phát sinh ra ở vùng Kinki vào thời bách niên kỷ 500 sau công nguyên (tức là thế kỷ thứ VI). Thế lực này sau đó đã lớn mạnh thành triều vua Yamato vậy.

Thái tử Shotoku đã sinh ra vào thời kỳ mà quốc gia "thời cổ" này đã đứng vững, tức là hậu bán của thế kỷ thứ VI.



tải về 1.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   24




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương