Đề tài: Sự tập trung hóa báo chí ở các nước tư bản chủ nghĩa Giảng viên hướng dẫn



tải về 459.22 Kb.
trang2/6
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích459.22 Kb.
#1429
1   2   3   4   5   6

Năm 2008: Rupert Murdoch “nhảy” vào tranh giành Newsday cùng hai ông lớn khác trong ngành kinh doanh truyền thông ở New York. Đây là tờ báo in lớn nhất của Long Island – hòn đảo ở phía Tây Nam thành phố New York thuộc tập đoàn truyền thông Tribune.

Tập đoàn truyền thông Tribune, chủ nhân của tờ báo in Newsday - vừa công bố bản báo cáo tài chính trong năm 2007. Chỉ tính riêng quý tư của năm 2007, tờ báo đã chịu lỗ 78.8 triệu USD. Con số này quả là không tưởng tượng được nếu đem so với mức lợi nhuận 239 triệu đô cùng kỳ năm trước đó. Cả năm 2007, Newsday chỉ thu lãi khoảng87 triệu đô giảm 594 triệu so với năm 2006.

Ba đại gia được điểm mặt đặt tên trong cuộc chiến tranh giành Newsday lần này gồm có Rupert Murdoch, chủ tịch tập đoàn News Corporation, ông chủ của tờ The New York Post; Mortimer B.Zuckerman – nhà kinh doanh bất động sản và là chủ nhân của tờ The Daily News; James L.Dolan - thành viên trong tập đoàn gia đình quản lý Cablevision – một kênh truyền hình cáp.

Mùa thu năm 2007, Newsday đã từng báo cáo mức phát hành ấn phẩm mỗi tuần đạt khoảng 387.000 tờ - đứng thứ 10 trong top những tờ báo in bán chạy nhất trong cả nước (và là mức cao nhất dành cho một tờ báo chỉ phục vụ nhu cầu thông tin cho người đân ở vùng ngoại ô chứ không hẳn trong nội vi thành phố). Trong khi đó, The Daily News và The New York Post lần lượt chiếm vị trí thứ năm và sáu với số lượng phát hành ở mức tương đương nhau, vào khoảng 681.000 và 667.000 tờ. Điểm mạnh của The Daily News nằm ở số ấn phẩm phát hành dành riêng cho ngày Chủ nhật đạt 726.000 tờ năm 2007. Đây cũng được xem là “ngày cuối tuần rực rỡ” cho các hoạt động quảng cáo trên trang báo. Trong khi đó, đã nhiều năm nay tờ New York Post không phát hành báo vào Chủ nhật.

Ông trùm truyền thông hoàn toàn không đề nghị “mua đứt” Newsday. Ngược lại, ông ta chỉ đưa ra bản hợp đồng theo mô hình liên doanh giữa The Post và Newsday. Bởi vì Murdoch cho rằng làm như thế cả hai bên đều được lợi và mối quan hệ giữa hai nhà điều hành của hai tờ báo sẽ trở nên khăng khít hơn. Cả hai bên đã bàn bạc một hợp đồng trong đó Tribune sẽ chịu trách nhiệm in ấn The Wall Street Journal ở hai bang Florida và Los Angeles. Sở hữu Newsday có thể sẽ mang lại cho ông trùm Murdoch một cơ hội vàng để gia tăng sức ép lên tờ The Daily News.



Hiện nay, News Corporation đã vươn tầm thành một trong những tập đoàn truyền thông báo chí hàng đầu của thế giới với gần 50 nghìn nhân viên làm việc tại hơn 170 chi nhánh đặt tại khu vực châu Á, châu Âu, châu Mỹ. Theo số liệu thống kê năm 2006, tổng thu nhập của News Corporation ước tính đạt 25,327 tỷ USD.

3. Nguyên nhân dẫn đến tập trung hóa

Quá trình tập trung hóa bắt đầu từ trước năm 1914, thực ra là vào khoảng năm 1892, khi Scripps cùng bạn làm ăn của mình thành lập “chuỗi mắt xích” hay còn gọi là “báo dây chuyền” đầu tiên trong số 5 tờ báo. Hiện tượng “báo dây chuyền” ra đời nhằm “khai thác mối liên kết, mối quan hệ giữa nhiều tờ báo để hỗ trợ nhau về phương diện nghề nghiệp”. Điều đó có thể coi là một nhu cầu tất yếu. Sự liên kết này diễn ra trên cơ sở các tờ báo có chung một chủ sở hữu (ông trùm), hoặc thuộc về một liên minh báo chí nào đó (vương triều báo chí). Scripps cũng chính là người đưa ra công thức để thành lập hệ thống báo chí:



- Người điều hành những tờ báo của dây chuyền phải là những người trẻ tuổi và đứng tên đồng sở hữu (có chân trong liên minh báo chí), ở vai trò làm chủ bút, hoặc chủ báo.

- Phối hợp hài hoà giữa hai hành vi sáp nhập (mua lại các tờ báo) và sáng lập. Chỉ nên sáng lập và mua báo ở những thành phố hạng trung, để tránh tình trạng cạnh tranh thua lỗ.

- Bán báo giá rẻ, phải trả tiền cho hệ thống phát hành. (Vào thời của Scripps, báo có giá đồng loạt 1 xu.)

- Vận động cho những mục đích, những lợi ích chung của xã hội, đặc biệt là tầng lớp người nghèo.

Đây chính là những điều căn bản mà các tập đoàn báo chí lớn trên thế giới hiện nay vẫn thường ứng dụng trong chiến lược kinh doanh của mình. Hay nói cách khác nó là những biểu hiện đầu tiên của quá trình tập trung hóa báo chí.

Những điều kiện tiền đề dẫn đến sự tập trung hóa báo chí có thể kể đến là:



  • Những tiến bộ về khoa học kỹ thuật:

- Những tiến bộ khoa học kỹ thuật thời bấy giờ như: 1925: sự phát triển của máy truyền ảnh (bélinographe) được sử dụng rộng rãi trong việc truyền ảnh đi xa. Điện thoại xuất hiện trong những năm 1880 rồi cũng được sử dụng rộng rãi trước đó làm thay đổi sâu sắc cung cách làm báo. In ty-pô vẫn là phương thức in phổ biến của báo chí song lỹ thuật in hélio và ốp – xét tiến bộ rất nhanh. Hai kỹ thuật này chủ yếu để in các tạp chí. Tiến bộ của hélio(in ảnh chìm) càng phân biệt rõ nhật báo với những báo khác, nhất là kỹ thuật này cho phép in màu đẹp. Mỗi nhà in báo giờ đây bao gồm những xưởng chuyên khắc ảnh, in ảnh; phần minh họa bằng tranh ảnh tăng lên rất nhiều trên các trang báo. Sự chuyển biến này, đã khởi đầu từ hồi đầu thế kỷ, làm biến đôi bộ mặt các báo, sự hấp dẫn của báo không còn chỉ ở phần “đọc”.

- Thời kỳ này việc đòi hỏi ấn hành nhật báo hay báo chí định kỳ đòi hỏi những phương tiện kỹ thuật và nguồn nhân lực lớn đến mức chỉ có những cơ sở báo chí cỡ lớn mới đảm đương nổi. Từ những máy in quay đầu tiên cho đến máy in linô, ngành in liên tục có những tiến bộ mới, tốc độ in báo rất nhanh mặc dù mỗi số báo có số trang càng ngày càng tăng. Những vật tư đắt tiền và cồng kềnh đòi hỏi số tiền đầu tư, cả động sản và bất động sản lớn.



  • Những khó khăn về kinh tế:

- Sự tập trung hóa báo chí diễn ra còn do những cạnh tranh càng ngày càng được đẩy nhanh qua các cuộc khủng hoảng kinh tế. Tiền sụt giá ở phần lớn các nước buộc báo phải tăng giá bán, tự nhiên số người mua báo giảm đi và chỉ có những cơ sở lớn, vững mạnh mới chống chọi lại được. Ví dụ: ở Nhật năm 1917 báo bán 10xu, tăng lên 15 xu vào năm 1919, 20 xu năm 1920, 25 xu năm 1925, 30 xu năm 1936, 40 xu năm 1937, 50 xu năm 1938 và 1 phrăng năm 1941. Mỗi lần tăng giá là một lần sụt mạnh số phát hành; tương tự như vậy ở Paris (Pháp) số lượng các đầu nhật báo giảm dần: giảm từ 40 xuống 32, vào năm 1920 báo ở các tỉnh là 220 tờ giảm xuống xuống 175 tờ vào năm 1939.

- Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 – 1930 có hậu quả tai hại đến báo chí, làm giảm số lượng phát hành, giảm cả nguồn thu từ quảng cáo. Vật tư tăng giá, việc nâng cao số lượng và chất lượng nội dung khiến giá thành in báo tăng lên, lương trả cho nhà báo, phóng viên, nhân viên cũng tăng sức ép của công đoàn – mà công nhân ngành báo chí là một tổ chức đặc biệt mạnh. Tất cả những sức ép đó dẫn đến việc tập trung hóa để giải quyết những khó khăn này.



  • Những cải cách có lợi từ chính trị:

- Từ năm 1871 đến 1879, báo chí vẫn bị các chính phủ đè nén dưới một quy chế khá nặng nề. Ví dụ ở Pháp: trong cuộc khủng hoảng ngày 16/5/1877: chính phủ Broglie tìm mọi cách có thể nhằm gây áp lực với cử tri và với những ứng cử viên đối lập để mình được thắng cử. Các báo có xu hướng cộng hòa phải hứng chịu rất nhiều biện pháp có khi rất độc đoán, chỉ trong vài tuần có tới hơn 2.000 vụ báo chí ra tòa. Song kế hoạch đó bị thất bại, và đây là lần cuối cùng báo chí bị chèn ép.

- Sau đó mối quan hệ giữa chính phủ và báo chí dần dần được cải thiện. Phía chính phủ cho rằng báo chí với sự cạnh tranh lẫn nhau, chia rẽ nhau, chỉ tác động một cách mơ hồ vào dư luận, khả năng kích động những phong trào lớn như những cuộc biểu tình cách mạng sẽ không cao. Sự thừa nhận tự do báo chí và sự bãi bỏ những hạn chế về tính độc quyền góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình tập trung hóa. Trong thập kỷ cuối của thế kỷ XX các đạo luật chống độc quyền trong lĩnh vực các phương tiện thông tin đại chúng đã mang tính chất tự do hóa đáng kể. Những cải cách này diễn ra ở nhiều nước mà đầu tiên là ở Mỹ. Ví dụ, chính phủ Mỹ đã hủy bỏ lệnh cấm các công ty cung cấp dịch vụ điện thoại không được phép thành lập các trường quay của đài truyền hình cáp. Ở nhiều nước không còn hạn chế về số lượng đài truyền hình thuộc quyền sở hữu của một cá nhân hoặc một pháp nhân. Đã hủy bỏ những hạn chế đối với việc sở hữu cùng lúc các đài phát sóng và các kênh truyền dẫn bằng cáp( Nếu như trước kia luật quy định một chủ nhân không thể có nhiều hơn 50% số đài phát dành cho một t ầng lớp xã hội. một chủ nhân mạng lưới truyền hình không thể phục vụ hơn 35% số khán giả trên cùng một địa bàn ấy và chỉ có quyền sở hữu một đài phát(có thể tối đa là hai ở một số nước) cho một tầng lớp xã hội). Đã có sự cho phép các đài phát thanh trên sóng cực ngắn phát lại các chương trình phát sóng trên các đài phát thanh sóng trung.…. Nói một cách khác, pháp luật đã ủng hộ, đồng tính, mở đường cho tập trung hóa phát triển nhanh, mạnh tất yếu dẫn đến dự hình thành các tập đoàn báo chí hùng mạnh ở các nước TBCN.

Tất cả những nguyên nhân trên chính là những tiền đề quan trọng để dẫn đến sự tập trung hóa báo chí và sự hình thành nên các tập đoàn báo chí.

4. Những biểu hiện của tập trung hóa báo chí

- Quá trình giản bớt số lượng của những tờ báo độc lập:

+ Cả hai xu hướng phát triển theo chiều dọc và liên kết, bành trướng theo chiều ngang của các tập đoàn báo chí đều dẫn tới một kết cục chung là tình trạng tập trung, độc quyền ngày càng tăng. Nếu như vào năm 1892, “chuỗi mắt xích” đầu tiên ra đời ở Mỹ với sự góp mặt của 5 tờ báo, thì ngày nay, 50 tập đoàn lớn đang kiểm soát hầu hết các phương tiện truyền thông đại chúng của nước Mỹ. Theo một nghiên cứu của tờ The Washington Post, trong những năm tới, chắc chắn toàn bộ báo chí Mỹ sẽ tập trung trong 12 tập đoàn lớn nhất. Ở các nước châu Âu, tình trạng cũng diễn ra tương tự. Nhiều tờ báo nhỏ hoặc là đóng cửa, hoặc là trở thành bộ phận của các công ty lớn. Nhiều tờ báo nổi tiếng cũng không thể tồn tại độc lập mà đã phải bán lại cho các tập đoàn xuyên quốc gia.

+ Năm 1999, ở Mỹ trong tổng số 1489 tờ báo hằng ngày thì chỉ có 269 tờ nghĩa là 18% là những tờ báo độc lập còn lại thì đều thuộc quyền ở hữu của các tập đoàn báo chí. Tổng số các tờ báo hàng ngày cũng tiếp tục giảm. Năm 1998 đã có 20 tờ báo hằng ngày đóng cửa, tính đến tháng 2/1999 chỉ còn 1489 tờ báo. Trong 10 năm trở lại đây đã có 153 tờ báo hằng ngày chấm dứt tồn tại.Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc này cũng phải kể đến sự thâu tóm của các tập đoàn báo chí đối với các tờ báo độc lập.



- Sự ra đời của hàng loạt các tập đoàn báo chí lớn:

Tỉ lệ tài chính trong những phương tiện truyền thông đại chúng chính




Lượng tiền mặt khổng lồ cho các hoạt động sáp nhập và thôn tính gần đây

Giá của thị trường chứng khoán với tư cách là lượng tiền mặt tăng lên

Báo in

9.5 lên 14

7.9

Truyền hình

10.6 lên16.1

7 - 8

Hệ thống điện tín

9.4 lên 11.1

8.5

Nguồn: Levingston, Steven and Terence O’Hara. “M cClatchy’s Paper Chase: Family Owned Chain to by Knight, Plans to Sell off 12 Dailies.” Washington Post, 14 March 2006, p. D1.

Bảng trên thể hiện rõ những số liệu tài chính được trích dẫn theo nguồn của các tập đoàn báo chí thời gian gần đây mà hình thành trên con đường thôn tính, mua lại, sáp nhập. Có thể nhận thấy trong cả lĩnh vực báo in và truyền hình thì các công ty càng ngày càng có xu hướng thích “trở nên to ra” nếu như việc đó đem lại lời ích thiết thực cho họ.(trích lời của Levingston, Steven and Terence O’Hara trong “M cClatchy’s Paper Chase: Family Owned Chain to by Knight, Plans to Sell off 12 Dailies.”)

+ Trong xu hướng tích tụ và tập trung tư bản ngày nay, các công ty báo chí truyền thông ngày càng bành trướng mạnh mẽ bằng cách mua lại, sáp nhập, thôn tính các công ty nhỏ hơn không đủ sức cạnh tranh để thành lập nên các tập đoàn báo chí. Với việc bỏ ra hàng tỷ đô la, các ông chủ này đã đẩy nhanh những sự tập hợp mới trong lĩnh vực báo chí, truyền thông đại chúng, tạo ra quy mô hoạt động, sức mạnh ảnh hưởng vượt ra ngoài biên giới quốc gia, phạm vi khu vực. Điều này dẫn đến sự ra đời của hàng loạt các tập đoàn báo chí lớn trên toàn thế giới đặc biệt là ở các nước TBCN phát triển. Theo số liệu của Công ty nghiên cứu thị trường Dialogic, trong 5 tháng đầu năm 2007, trên toàn thế giới đã ghi nhận 372 bản hợp đồng sáp nhập, mua lại giữa các công ty, tập đoàn báo chí truyền thông với tổng giá trị lên đến 93,8 tỷ USD. Đáng chú ý nhất là hợp đồng sáp nhập giữa Google và Double Click, trị giá 3,1 tỷ USD hồi tháng 4-2007, hợp đồng sáp nhập giữa Yahoo với Right Media trị giá 680 triệu USD.

+ Thế giới đang chứng kiến sự tập trung cuồng nhiệt các phương tiện truyền thông. Từ nhiều năm nay, trong thế giới phương Tây, những ông trùm tư bản ngự trị trong ngành truyền hình, báo chí và điện ảnh như Ruppert Murdoch, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc News Corp; Gerald Levin, Chủ tịch Hãng American Online (AOL) Time Warner; Thomas Middelhoff, đứng đầu Tập đoàn Bertelsmann; hay Jean - Marie Messier, Chủ tịch Vivendi Universal, đã và đang tiến hành cái gọi là “cuộc chạy đua bành trướng khổng lồ” bằng cách mua lại, sáp nhập, thôn tính các công ty nhỏ hơn không đủ sức cạnh tranh. Bỏ ra hàng tỷ Đôla Mỹ, các ông chủ này, phần lớn là người Mỹ, đã đẩy nhanh những sự tập hợp mới trong những ngành chiến lược và do vậy, đã tương đồng hoá trên toàn hành tinh việc xuất bản âm nhạc, các chương trình truyền hình và cả những bộ phim truyện dài trực tiếp xuất xưởng từ Hollywood. Quyền lực chi phối của các tập đoàn này gần như mọi mặt của đời sống văn hoá.

Ví dụ như: Công ty Điện lực General Electric năm 1986 đã mua mạng truyền hình Mỹ NBC; Công ty Viễn thông khổng lồ Mỹ AT&T năm 1999 đã nắm quyền kiểm soát hệ thống truyền hình “cáp” TCI, rồi đến năm 2004 là mạng Mediaone. Từ năm 1995, Tập đoàn Viacom đã thôn tính Công ty Điện ảnh Paramount, và Hãng Truyền hình CBS; Walt Disney đã mua các hãng TV, ABC, Tập đoàn Time Warner đã hợp nhất với Turner Broadcasting; Tập đoàn Bertelsman và Audiofina đã thành lập Tập đoàn CLT-UFA. Năm 2000, Tập đoàn AOL tuyên bố hợp nhất với Time Warner. Còn Vivendi và Canal Plus, một tập đoàn tư bản Pháp đã hợp nhất với Seagram, trở thành Mỹ hoá và là tập đoàn truyền thông lớn thứ hai thế giới. Rupert Murdoch đã len chân vào ngành Truyền hình phải trả tiền theo yêu cầu tại Italia và Đức.

Năm 2004, tính theo doanh số, trên thế giới có 7 tập đoàn truyền thông lớn được xếp hạng như sau: AOL Time Warner: 38 tỷ USD;  Vivendi Universal:  27 tỷ USD;  News Corporation: 25,5 tỷ USD;  Walt Disney: 25 tỷ USD (Bao gồm hãng ABC Network, Disney Channel, Walt Disney Pictures, Infoseck...) Viacom:  23 tỷ USD;  Comcast: 19 tỷ USD (Bao gồm CBS, MTV, Paramount....)



- Sự tập trung quyền lực báo chí vào tay một số ít nhân vật:

+ Quá trình tiến công vào các phương tiện thông tin đại chúng đã dẫn đến sự tập trung tất cả các mạng lưới báo chí vào tay một số ít nhân vật. Theo tính toán của các chuyên gia Mỹ thì có 50 tập đoàn lớn đang kiểm soát hầu hết các phương tiện thông tin đại chúng ở Mỹ: 20 tập đoàn trong số đó nắm một nửa tổng số các tờ báo trên cả nước, 4 tập đoàn kiểm soát ngành truyền hình, 10 tập đoàn kiểm soát ngành phát thanh, 12 tập đoàn thống trị ngành xuất bản sách, 4 tập đoàn ngự trị trong ngành điện ảnh. Đầu những năm 1980 nếu như tất cả các thành phố Mỹ đều có những tờ báo ngày thì 98% trong số đó đặt dưới quyền kiểm soát của một trung tâm. Trong tổng số 1700 tờ báo hằng ngày ở Mỹ có hơn 1000 báo thuộc sở hữu của các tập đoàn báo chí.

+ Khi thâu tóm hoặc sáp nhập các tờ báo khác vào tập đoàn của mình, thường thì tính chất, định hướng, sắc thái cũng thay đổi theo tùy thuộc vào quan điểm, chính kiến của chủ sở hữu chúng. Ví dụ tiêu biểu là dưới đế chế báo chí của Rupert Murdoch, sau khi ông mua lại các tờ báo như New York Post, Chicago, The Sunday Times… thì ngay sau đó đã có những thay đổi chính sách của bạn biên tập cũng như nội dung của tờ báo. Chính vì vậy, khi Rupert Murdoch quyết định mua lại tờ nhật báo phố Wall thì một trong những Giám đốc của hãng, ông Dieter von Holtzbrinck đã từ chức để phản đối vì lo lắng ảnh hưởng của thoả thuận đến sự độc lập trong biên tập của tờ nhật báo phố Wall.Tờ nhật báo phố Wall được biết đến với các bài tường thuật và bình luận có giá trị. Tuy News Corp đã hứa sẽ tôn trọng và bảo vệ vị trí của tờ báo nhưng News Corp và Dow Jones đã thỏa thuận thành lập một ủy ban đặc biệt gồm 5 người sẽ quyết định việc tuyển dụng hoặc sa thải Tổng biên tập tờ nhật báo phố Wall, các biên tập viên và Tổng biên tập tờ Dow Jones Newswires. Ủy ban này sẽ là một phần của những thỏa thuận sau cùng và được quyết định dựa trên ý kiến thống nhất của cả hai phía News Corp và Dow Jones trong thời gian sắp tới.

- Sự thống trị của các tập đoàn này đến thị trường báo chí trong nước và quốc tế:




Tính đến năm 2004, ở Mỹ chỉ còn 5 tập đoàn truyền thông chi phối hệ thống truyền thông Mỹ

+ Hoạt động xuất bản các tờ báo và các tạp chí lớn nhất ở một số nước có nền báo chí phát triển cao đều tập trung vào tay các tập đoàn báo chí lớn(các côngxoocxiom xuất bản, các tờ - rớt báo chí…). Ví dụ: tập đoàn báo chí “Ganet”: năm 1966 tập đoàn này sở hữu 26 tờ báo hàng ngày và 6 tờ báo chủ nhật. Trong những năm 1980, nó có ảnh hưởng đối với 88 tờ báo hằng ngày và 23 tờ tuần báo, 13 đài phát thanh và 17 đài truyền hình. Chỉ riêng việc thôn tính “Evening News Association” đã cho phép tập đoàn này mua lại hàng chục tờ báo, 2 đài phát thanh và 5 đài truyền hình. Ngoài ra tập đoàn này còn có cổ phần trong một loạt công ty điện ảnh, các tổ chức thăm dò công luận, các mạng lưới truyền hình, bao gồm cả truyền hình cáp và truyền hình vệ tinh ở 35 nước. Cũng tương tự như vậy, tập đoàn “Capital city communication” trước đây đã từng sở hữu 40 ấn phẩm định kỳ, 12 đài phát thanh và 7 đài truyền hình, thì đến nay đã mua lại dãng truyền hình “BBC”. Điều này đã đem lại cho tập đoàn này thêm 12 đài phát thanh và 5 đài truyền hình cộng với hệ thống cung cấp các chương trình của mình cho 1596 đài phát thanh và 214 đài truyền hình nữa. Qua các con số trên ta có thể phần nào hiểu được bàn tay của các tập đoàn đã bao phủ gần như toàn bộ nền báo chí của một nước và bắt đầu vươn ra các nước khác, các châu lục khác. Sự thịnh vượng của đế chế báo chí Rupert Murdoch cũng là một bằng chứng rõ nét cho sự thống trị của các tập đoàn báo chí đến với nền truyền thông.

+ Những tập đoàn báo chí lớn thường xuyên bắt tay với những tổ chức ngân hàng độc quyền quốc gia hoặc xuyên quốc gia. Chính sự bắt tay, xâm nhập lẫn nhau về quyền lợi giữa giới tư bản công nghiệp và các phương tiện thông tin đại chúng đã đem lại những khoản lợi nhuận chưa từng thấy trước đây. Một nghiên cứu của giáo sư Piter Phillips, trường Đại học Sonoma cho thấy 118 người là thành viên hội đồng quản trị của 10 tập đoàn báo chí lớn nhất nước Mỹ cũng đồng thời có mặt ở hội đồng quản trị của 288 tập đoàn kinh tế khác. Trong khi các tập đoàn The tribune, New York Times Gannett đều có thành viên ở hội đồng quản trị của tập đoàn Pepsi, thì Coca Cola J.P. Morgan lại có đại diện chia xẻ ghế hội đồng quản trị của cả NBC Washington Post. Thực tế này cho thấy sự liên kết rất chặt chẽ giữa các tập đoàn báo chí với các tập đoàn kinh tế. Điều này khiến cho các trùm truyền thông này dễ dàng mua lại lại sáp nhập với các công ty hoặc các tờ báo mà họ muốn qua việc sử dụng những mối quan hệ chính trị cũng như thương mại của mình trong việc đạt được những ấn phẩm, hay công ty mà họ muốn có.

Chương II: Tập đoàn báo chí

1. Khái niệm về tập đoàn báo chí:

Đối với báo chí thế giới, các thuật ngữ như ngành báo chí newspaper industry, ngành truyền thông media industry và kinh tế báo chí media economics từ lâu đã trở thành quen thuộc.  Đó là vì tiến trình lịch sử của báo chí thế giới đến khoảng giữa thế kỉ 19 đã có một bước ngoặt lớn, những người làm báo bắt đầu chú ý đến mục tiêu kinh tế trong hoạt động báo chí và biết cách tổ chức điều hành hoạt động báo chí (Mặc dù vậy, ở thời buổi quảng cáo chưa phát triển, phương cách hữu hiệu để đạt được mục tiêu kinh tế mới chỉ là cải tiến nội dung để  tăng doanh số phát hành.) 

Có thể thấy rõ bước ngoặt nêu trên khi nghiên cứu nền báo chí Mĩ – một trong những nền báo chí mạnh nhất thế giới, đặc biệt là ở giai đoạn sau cuộc nội chiến 1865 – 1867.

Thật vậy, đứng trên quan điểm lịch sử, chúng tôi nhận thấy thực trạng báo chí ngày nay ở một số quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, có nhiều điểm tương đồng với thực trạng báo chí nước Mĩ hơn 100 năm về trước, nổi bật là khuynh hướng báo chí làm kinh tế.

Bối cảnh đó cho phép chúng tôi nhận diện cái nôi hình thành các tập đoàn báo chí – truyền thông ở Mĩ (nơi xuất phát của các tập đoàn truyền thông lớn nhất thế giới hiện nay) thông qua ba hiện tượng: sự ra đời của nghề làm báo mới new journalism (phân biệt với thuật ngữ new media trong thời đại Internet), sự giàu có của nghề làm báo vàng yellow journalism, và sự hình thành các hệ thống báo dây chuyền newspapers chains.
            Nghề làm báo mới ở Mĩ ra đời đưa đến sự phát triển rầm rộ của báo chí Mĩ. Vào thời kì đó, báo chí trở thành “những công ty hùng mạnh, giàu có, tự đảm bảo được về phương diện kinh tế và nhờ đó, phát huy tốt hoạt động làm báo”. Đến cuối thế kỉ 19, báo chí Mĩ đã trở thành một nền kinh doanh lớn, có tính độc lập tương đối trong đời sống xã hội. Những nhận định trên cho thấy  xuất phát điểm của các tập đoàn báo chí truyền thông phải là những công ty hùng mạnh, tự chủ được về tài chính.

Nghề làm báo vàng đánh dấu sự xuất hiện của những “Citizen Kane” trong làng báo thế giới, những con người biết cách đem lại sự hùng mạnh cho các tờ báo trên phương diện làm kinh tế. Báo chí Mĩ thời kì này đã “mấp mé”, “manh nha” hoạt động theo mô hình tập đoàn. Bằng những tờ báo mạnh, W.Randolph Hearst – ông vua của nghề làm báo vàng, đã “thật sự thành công, đem lại gia tài đồ sộ”. Hearst không “dừng lại ở lĩnh vực làm báo, ông ta còn chuyển sang lĩnh vực xuất bản, lĩnh vực tạp chí và ở bất kì lĩnh vực nào cũng thành công”, đặc biệt là với các tờ hướng đến nhóm đối tượng riêng biệt như Beautiful House (Nhà Đẹp), Good House Keeping (Nội Trợ Giỏi), … Những nhận định trên cho thấy hướng phát triển của các “công ty hùng mạnh” chính là từ việc gia tăng số lượng các ấn phẩm làm ăn hiệu quả, đồng thời mở rộng kinh doanh sang các lĩnh vực có liên quan đến báo chí.

Bước sang thế kỉ 20, một bước tiến gần hơn với mô hình tập đoàn báo chí, đó chính là hiện tượng báo dây chuyền, nổi bật với tên tuổi của hai nhân vật E.W.Scripps và Hearst. Hiện tượng báo dây chuyền ra đời nhằm “khai thác mối liên kết, mối quan hệ giữa nhiều tờ báo để hỗ trợ nhau về phương diện nghề nghiệp”. Điều đó có thể coi là một nhu cầu tất yếu. Sự liên kết này diễn ra trên cơ sở các tờ báo có chung một chủ sở hữu (ông trùm), hoặc thuộc về một liên minh báo chí nào đó (vương triều báo chí). Scripps cũng chính là người đưa ra công thức để thành lập hệ thống báo chí:



- Người điều hành những tờ báo của dây chuyền phải là những người trẻ tuổi và đứng tên đồng sở hữu (có chân trong liên minh báo chí), ở vai trò làm chủ bút, hoặc chủ báo.

- Phối hợp hài hoà giữa hai hành vi sáp nhập (mua lại các tờ báo) và sáng lập. Chỉ nên sáng lập và mua báo ở những thành phố hạng trung, để tránh tình trạng cạnh tranh thua lỗ.

- Bán báo giá rẻ, phải trả tiền cho hệ thống phát hành. (Vào thời của Scripps, báo có giá đồng loạt 1 xu.)

- Vận động cho những mục đích, những lợi ích chung của xã hội, đặc biệt là tầng lớp người nghèo.

Đây chính là những điều căn bản mà các tập đoàn báo chí lớn trên thế giới hiện nay vẫn thường ứng dụng trong chiến lược kinh doanh của mình.

Giả thuyết “ba hiện tượng” được kiểm nghiệm qua lịch sử (tự soạn thảo và đăng tải trên Internet) của một số tập đoàn báo chí lớn trên thế giới. Cho đến nay, theo quy luật phát triển của nền kinh tế báo chí, hai hệ thống báo dây chuyền của  E.W.Scripps và Hearst đã phát triển lên thành các tập đoàn The E.W.Scripps Company và Hearst Corporation tiếng tăm trên đất Mĩ.

Như vậy, con đường phát triển tất yếu của ngành công nghiệp báo chí – truyền thông là từng bước chuẩn bị những yếu tố cần thiết để trở nên lớn mạnh: đầu tiên là đổi mới tư duy theo hướng chú trọng mục tiêu kinh tế (nghề làm báo mới), mở rộng hoạt động kinh doanh sang các lĩnh vực truyền thông khác (nghề làm báo vàng), mở rộng năng lực quản lý, điều hành đối nội và đối ngoại ở hàng loạt tờ báo (hiện tượng báo dây chuyền), tham gia năng động vào nên kinh tế như những doanh nghiệp thực thụ (các tập đoàn báo chí hùng mạnh). Nền báo chí Mĩ đã tuân theo quy luật phát triển đó, được đánh giá là một trong những nền báo chí mạnh nhất thế giới, sở hữu nhiều tập đoàn báo chí – truyền thông hàng đầu nhất thế giới. Đối với Mĩ, ngay từ buổi đầu rẽ vào bước ngoặt kinh tế, người ta đã coi báo chí – truyền thông là một trong những ngành công nghiệp nặng và cho phép nó phát triển đến mức tối đa.

 Hiện nay, báo chí xuất bản bằng tiếng Anh của Việt Nam dịch cụm từ “tập đoàn báo chí” là “press group”. Tuy nhiên, thông qua một số trang web khác, đặc biệt là trang web của Hiệp hội báo chí thế giới (World Association of Newspapers - WAN), có thể thấy “press groups” được sử dụng để chỉ “các nhóm báo in”, không tính đến các loại hình báo khác. Trong phần giới thiệu các thành viên của mình, WAN đã đề cập đến “nine regional and world-wide press groups”, nghĩa là “chín nhóm báo in có quy mô toàn cầu và quy mô khu vực”. Trang web nghiên cứu thị trường MarketResearch.com có phạm vi nghiên cứu trải rộng trên toàn cầu, đặc biệt là ở Mĩ, Anh, châu Âu và châu Á cho thấy rõ hơn ý nghĩa của thuật ngữ này. Trong báo cáo về “Báo chí Trung Quốc” (China Newspaper Industry) xuất bản vào 08/04/2005, MarketResearch.com dùng thuật ngữ “press group” để chỉ Guangzchou Daily Press Group, mà Việt Nam vẫn quen gọi là tập đoàn báo chí Quảng Châu. Như vậy, “press group” thông thường được sử dụng để gọi các tổ chức có hạt nhân là một cơ quan báo in nổi tiếng lâu đời, và cơ quan này có tham gia các hoạt động kinh doanh bổ trợ khác.

Tuy nhiên, về mức độ phổ biến trong việc chỉ các tập đoàn báo chí – truyền thông, “press group” phải nhường bước cho một số thuật ngữ khác. Trong buổi đến thăm và làm việc ở Khoa Ngữ văn & Báo chí (ĐH KHXH & NV TP.HCM) vào ngày 22/02/2006, Giáo sư Richard Shafer (ĐH North Dakota, Mĩ) có lời khuyên nên sử dụng các thuật ngữ “media conglomerate”, “media convergence” để có thể tiếp cận vấn đề cần nghiên cứu.

Theo wikipedia, “media conglomerate” dùng để chỉ các tổng công ty sở hữu một con số lớn các công ty con hoạt động trong những loại hình truyền thông khác nhau như truyền hình, phát thanh, xuất bản, điện ảnh, và Internet. Xét trên khía cạnh thuật ngữ kinh tế, “conglomerate” chỉ một công ty lớn (tổng công ty) bao gồm nhiều công ty con có vẻ ngoài là các doanh nghiệp không liên quan gì đến nó. Cuốn từ điển bách khoa trên mạng này cũng cho biết: “Một vấn đề được đặt ra, kể từ năm 2006,  là liệu các công ty truyền thông (media companies) có thật không liên quan nhau hay không.”. Và theo wikipedia, người ta còn sử dụng thêm thuật ngữ “media group” (theo lối hiểu như press group nhưng bao trùm trên tất cả các loại hình truyền thông, không riêng gì loại hình báo in)

Trang web wikipedia đưa ra một số “media conglomerate” lớn trên thế giới như: AT&T, Berlusconi Group, Bertelsmann, Canwest Global, General Electric, Hearst Corporation, Lagardère Media, Liberty Media, News Corporation, Sony, Time Warner, The Times Group (phân biệt với Nhóm báo Times của tập đoàn News Corporation), Viacom, Vivendi Universal, Walt Disney Company, … Tác giả Robert W McChesney trong bài viết “The New Global Media: It’s a Small World of Big Conglomerate” (1999)  cũng cho biết thị trường truyền thông toàn cầu nằm dưới quyền thống trị của 8 tập đoàn xuyên quốc gia cai trị thị trường truyền thông Mĩ: General Electric (GE), AT & T/Liberty Media, Disney, Time Warner, Sony, News Corporation, Viacom và Seagram, cộng với Bertelsmann, một tập đoàn của Đức. Tuy lĩnh vực kinh doanh chính của GE và AT&T không phải là lĩnh vực truyền thông nhưng GE sở hữu tập đoàn truyền thông nổi tiếng NBC, AT & T có công ty con Liberty Media, và cả hai tập đoàn này đang có dự định thu nạp các tài sản truyền thông nếu thấy cần thiết.

Thuật ngữ “media convergence” (hội tụ truyền thông) có những thuật ngữ tương đồng như “media consolidation” (tập hợp truyền thông) và “concentration of media ownership” (sự tập trung trong lĩnh vực sở hữu truyền thông). Đây là một thuật ngữ phổ biến trong giới phê bình truyền thông cũng như các nhà làm luật khi đề cập đến phương thức sở hữu các phương tiện truyền thông của các doanh nghiệp.

Thuật ngữ “media convergence” có sự liên hệ mật thiết với thuật ngữ “media conglomerate” ở chỗ sự tập trung sở hữu trong lĩnh vực truyền thông thường kéo theo sự hình thành các “media conglomerate”. Khi một doanh nghiệp sở hữu nhiều loại hình truyền thông khác nhau, nó được xem như là một “media conglomerate”. Sáu “media conglomerate” hiện thời là Disney, Viacom, Time Warner, News Corp, Bertelsmann, và General Electric sở hữu hơn 90% thị trường truyền thông toàn cầu.

Như vậy, hiện tượng “media convergence” hay “concentration of media ownership” chính là khởi điểm để hình thành các “media conglomerate” (các tập đoàn truyền thông) ở các nước phương Tây. Một lần nữa, giả thuyết về con đường hình thành các tập đoàn truyền thông trên thế giới được khẳng định thông qua chính bản thân các thuật ngữ.

Ngoài ra, trên thế giới còn sử dụng một số thuật ngữ  khác dùng để chỉ “tập đoàn báo chí” như: media organization, media group, media mega-group, media empires, media giants, media corporations … Nhưng đó là thuật ngữ dành cho các nhà nghiên cứu. Đối với bản thân các “tập đoàn báo chí”, tên gọi của tập đoàn phụ thuộc vào hình thức đăng ký kinh doanh. Có nơi gọi mình là company, có nơi lại gọi là group, có nơi gọi là corporation, có nơi gọi là holdings, … Do đó, việc có hay không có để danh xưng “tập đoàn báo chí” không quan trọng bằng nội lực thực sự của mỗi doanh nghiệp truyền thông.

Ở nước ta vẫn sử dụng lẫn lộn hai thuật ngữ “báo chí” và “truyền thông”, đôi khi đánh đồng chúng với nhau. Do đó, để hiểu cho đúng, phải xem “tập đoàn báo chí” là một thuật ngữ kinh tế, thuộc về kinh tế truyền thông, có nghĩa hẹp tương đương với thuật ngữ “press group” và nghĩa rộng tương đương với thuật ngữ “media conglomerate”.

Theo đó, “tập đoàn báo chílà một tập đoàn kinh tế hoạt động đa dạng trong lĩnh vực truyền thông, có thể có hạt nhân là một cơ quan báo in, báo hình, hoặc bất cứ loại hình báo chí nào khác, và cũng có thể tham gia vào một số lĩnh vực kinh doanh ngoài truyền thông.”

2. Nguyên nhân và dạng thức hình thành tập đoàn báo chí:

Thực chất, tập đoàn báo chí chính là tập đoàn kinh tế mà báo chí, truyền thông đại chúng là lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính, chủ yếu hoặc là một bộ phận tạo thành có ý nghĩa quan trọng, có vai trò độc lập tương đối. Trên thực tế, rất hiếm thấy tập đoàn truyền thông hay báo chí nào không có hoạt động sản xuất kinh doanh ngoài lĩnh vực báo chí, truyền thông đại chúng.



Tập đoàn kinh tế có thể hiểu là tổ hợp các công ty hoạt động trong một ngành hay những ngành khác nhau trong phạm vi một nước hay nhiều nước, trong đó có một “công ty mẹ” nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của các “công ty con” về mặt tài chính và chiến lược phát triển. Tập đoàn là một cơ cấu có chức năng liên kết kinh tế nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, tăng khả năng cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận. Về mặt tổ chức, với hình thức liên kết của nhiều công ty hoạt động trong cùng một ngành, hay những ngành khác nhau trong một nước hay nhiều nước, thông qua sự điều hành chung.

Sự hình thành của các tập đoàn báo chí cũng xuất phát từ chính những nguyên nhân đã hình thành các tập đoàn kinh tế:



Thứ nhất, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ, cho phép hình thành việc tổ chức sản xuất mới trên cơ sở vừa chuyên môn hoá vừa tăng cường liên kết giữa các nhà máy, doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế.

Thứ hai, sự cạnh tranh tất yếu dẫn đến việc liên kết dưới nhiều hình thức khác nhau để tạo ra sức mạnh to lớn hơn, các nguồn lực mạnh mẽ hơn cho các doanh nghiệp, tạo nên khả năng cạnh tranh lớn hơn và tránh rủi ro.

Thứ ba, do sự phát triển và tính chất của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn vào nghiên cứu, dự báo, hoạch định chính sách phát triển để đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Công việc này đòi hỏi nguồn lực to lớn mà chỉ có những đơn vị kinh tế có quy mô lớn mới có khả năng thực hiện.

Theo tác giả Robert W McChesney, có hai dạng thức tập đoàn báo chí truyền thông. Có thể thấy các tập đoàn báo chí ngày nay phát triển theo hai xu hướng chủ đạo sau:



+ Xu hướng thứ nhất là phát triển theo chiều dọc. Đó là sự phát triển nhằm đảm bảo sự bao quát đầy đủ các công đoạn sản xuất một loại hình sản phẩm truyền thông (lập chương trình, sản xuất, phát hành hoặc phân phối), hoặc sự bành trướng, liên kết trong “nội bộ” các loại hình báo chí truyền thông nhằm tăng cường ưu thế, sức mạnh trong cạnh tranh. Ví dụ như BBC chỉ tập trung vào phát triển tất cả các công đoạn của 3 loại hình dịch vụ chính của mình là phát thanh, truyền hình và trang web trên khắp toàn cầu. Ở Mỹ, có thể nói Gannett Co. Inc là tập đoàn báo chí truyền thông có số lượng đầu báo lớn nhất. Tập đoàn này đang sở hữu 90 tờ nhật báo (trong đó có USA today - một trong hai tờ có quy mô toàn quốc và Wall street Journal - tờ báo hàng đầu về tài chính, kinh tế ở Mỹ), 36 tờ báo định kỳ khác, kiểm soát 10 đài truyền hình, 16 đài phát thanh và một công ty quảng cáo lớn nhất nước Mỹ.

Hãng Turner Broadcasting System do Robert Edward Turner sáng lập năm 1963 lại thành công và nổi tiếng chủ yếu do sự nổi tiếng và phát đạt của kênh truyền hình CNN. Được thành lập và đi vào hoạt động từ 1-6-1960, đến nay CNN đã phủ sóng toàn cầu thông qua vệ tinh, cung cấp dịch vụ tin tức truyền hình cho hơn 55 triệu gia đình ở Mỹ và hàng tỷ dân của 92 nước trên thế giới. Năm 1995, CNN đã sát nhập vào Tập đoàn Time Warner - một đế chế truyền thông có tài sản trị giá 18 tỷ USD.



+ Xu hướng thứ hai là liên kết và bành trướng theo hàng ngang, đầu tư vào những ngành khác nhau, tạo sự liên kết những ngành báo chí truyền thông, công nghiệp, tài chính, dịch vụ rất xa nhau để hỗ trợ lẫn nhau, hạn chế rủi ro, tăng cường sức mạnh. Theo xu hướng đó, năm 1986, Công ty General Electric đã mua mạng truyền hình Mỹ NBC; Công ty Viễn thông khổng lồ Mỹ AT&T năm 1999 đã nắm quyền kiểm soát hệ thống truyền hình “cáp” TCI, rồi đến năm 2004 thôn tính tiếp mạng MediaOne. Từ năm 1995, Tập đoàn Viacom đã thôn tính Công ty Điện ảnh Paramount và Hãng Truyền hình CBS. Năm 2000, Tập đoàn AOL tuyên bố hợp nhất với Time Warner. Còn VivendiCanal Plus, một tập đoàn tư bản Pháp đã hợp nhất với Seagram, hay việc Rupert Murdoch đã len chân vào ngành truyền hình phải trả tiền theo yêu cầu tại Italia, Đức và đang chuẩn bị thực hiện hợp đồng sáp nhập với tập đoàn NewsCorp có trị giá vài tỷ USD.

Về phương diện này, hai tác giả Johannes von Dohnanyi và Christian Moller của nghiên cứu “The Impact of Media Concentration on Professional Journalism” (Tác động của sự tập trung truyền thông đối với nghề báo) cũng khái quát: “Sự tập trung có thể diễn ra theo chiều dọc, tức là tập trung các thể chế kinh tế độc lập với các công đoạn sản xuất khác nhau lại làm một tập đoàn, hoặc diễn ra theo chiều ngang, tức là sáp nhập các công ty giống nhau về công đoạn sản xuất.”



3.Những tập đoàn báo chí nổi tiếng trên thế giới:

Trước khi tìm hiểu về các tập đoàn báo chí nổi tiếng trên thế giới, chúng tôi tìm hiểu về Rupert Murdoch – một trong những người có đầu óc kinh doanh tài tình và nhạy bén với những chiến lược tuyệt vời. Tập đoàn truyền thông News Corporation của Rupert Murdoch chính là ví dụ điển hình về con đường hình thành các tập đoàn báo chí lớn trên thế giới.



3.1. Rupert Murdoch – huyền thoại của nền truyền thông thế giới – ông trùm của tập đoàn báo chí lớn trên thế giới.

Cái tên Rupert Murdoch đã trở thành một huyền thoại của nền công nghiệp truyền thông thế giới. Ông là một doanh nhân tài ba đã biến một tờ báo tỉnh lẻ thành một hãng truyền thông phục vụ một nửa dân số trên thế giới. Hiện nay, Murdoch có tài sản trị giá 5,1 tỷ USD, sở hữu những tên tuổi truyền thông lớn như 20th Century Fox, The Fox Network, HarperCollins, tờ The New York Post...

  • Trưởng thành từ một môi trường giáo dục nghiêm khắc

Rupert Murdoch sinh ngày 11/3/1931 tại Melbourne, Australia, trong một gia đình có bố là doanh nhân khá thành đạt hoạt động trong lĩnh vực báo chí. Được sống trong một môi trường có điều kiện vật chất khá thuận lợi, từ nhỏ, Rupert Murdoch đã được gia đình cho sang Anh học tập.

Do đó, mặc dù được sinh ra tại Australia nhưng tuổi thơ và học tập của Rupert Murdoch lại gắn liền với đất nước Anh. Bố của Rupert Murdoch là một người rất nghiêm khắc trong những vấn đề giáo dục con, ông hy vọng Rupert Murdoch được một ý thức làm việc độc lập, nghiêm túc ngay từ nhỏ.

Với hy vọng con trai sẽ đi theo nghề làm báo nên để có được một nền tảng kiến thức vững chắc, bố của Rupert Murdoch đã không tiếc tiền và công sức mời những người có kinh nghiệm lâu năm trong nghề báo về chỉ bảo cho con. Đặc biệt, ông còn luôn chứng tỏ cho Rupert Murdoch thấy cậu không thể ỷ lại vào thế mạnh của gia đình.

Có lẽ chính vì cách giáo dục có phần hà khắc của bố mà từ khi còn nhỏ, Rupert Murdoch đã có được một quyết tâm lớn trong học tập. Sau khi kết thúc chương trình học phổ thông với kết quả khá cao tại trường Worcester College, Rupert Murdoch đã tiếp tục thi đỗ vào khoa kinh tế của trường Đại học Oxford.

Trong thời gian học tập tại trường, ngoài việc duy trì tốt các nội dung trong chương trình học, Rupert Murdoch đã tham gia viết cho tờ báo của trường và nhiều tờ tạp chí dành cho sinh viên tại Oxford. Một trong những tờ tạp chí danh tiếng mà Rupert Murdoch đã từng là cộng tác viên khi còn là sinh viên chính là tờ Daily Express.

Những công việc ban đầu này đã giúp Rupert Murdoch có thêm những khoản thu nhập và tích luỹ được nhiều kiến thức thực tế đồng thời tạo cho Rupert Murdoch có được tình cảm, niềm say mê đối với nghề làm báo.

Khi đang học tập tại Anh, bố của Rupert Murdoch - ông Keith Arthur Murdoch đã là một doanh nhân có tiếng trong vùng. Là một người có học thức sâu về lĩnh vực kinh tế, ngay trong chiến tranh thế giới thứ nhất, Rupert Murdoch đã có những bài viết sắc sảo về chiến tranh và ông đã từng được coi là một trong những “nhà sử học của chiến tranh thế giới thứ I” tại Australia.

Thế chiến kết thúc, Rupert Murdoch đã bắt đầu nghiệp viết báo, bằng chính tài năng và vốn hiểu biết của mình, sau một thời gian làm việc, ông đã được bầu vào vị trí tổng biên tập tại chi nhánh Sydney Sun và Melbourne Herald thuộc quyền quản lý của tờ Times tại Luân Đôn.

Cũng bắt đầu từ thời điểm này, Keith Arthur Murdoch đã bắt đầu có những hoạt động đầu tư và sở hữu một số tờ báo địa phương. Một trong những số đó là Công ty News Limited với tờ tạp chí buổi chiều The News. Tuy nhiên, trong những năm cuối đời, do nhiều nguyên nhân, công việc của Keith Arthur Murdoch đã gặp nhiều khó khăn, bản thân ông đã phải chịu nhiều khoản thua lỗ và News Limited cũng phải đương đầu với những khoản nợ trầm trọng.

Năm 1952, khi đó vẫn đang học tại Oxford, Rupert Murdoch đã phải quay về Australia chịu tang bố và đảm nhiệm công việc phụ trách News Limited. Từ thời điểm này, Rupert Murdoch đã phải cùng một lúc làm hai công việc, vừa tiếp tục chương trình học tập, vừa điều hành hoạt động của News Limited.



  • Hồi sinh News Limited

Mặc dù đã có những hiểu biết nhất định về nghề báo, nhưng việc điều hành một doanh nghiệp đang phải chịu những khoản nợ đã trở thành rào cản rất lớn đối với Rupert Murdoch.

Phần lớn nhân viên đang làm việc tại tờ báo đều có chung một mối lo về sự sụp đổ của News Limited và không khí làm việc đã bắt đầu nguội dần. Do đó, Rupert Murdoch đã nhanh chóng bắt tay vào nghiên cứu chương trình khôi phục News Limited.

Để làm được điều này, Rupert Murdoch đã triệt để tận dụng khả năng thuyết phục và động viên nhân viên của mình tạo nhằm ra một luồng sinh khí làm việc mới cho toàn chi nhánh. Chỉ một thời gian không lâu sau đó, không khí làm việc hăng hái chưa từng thấy trước đó đã được đẩy mạnh và tạo được bước chuyển biến đến kinh ngạc tại tờ báo.

Nhiều người khi nhớ lại thời điểm đó đã phải thốt lên rằng “không hiểu tại sao Rupert Murdoch lại có thể thổi một sức sống mới cho News Limited”. Từ bước khởi đầu đầy ấn tượng đó, Rupert Murdoch đã bước đầu ổn định được hoạt động của News Limited, lượng phát hành và tiêu thụ các số báo của The News đã bắt đầu tăng.

Bước vào giai đoạn ngành sản xuất hàng hoá bắt đầu phát triển mạnh, các doanh nghiệp đều có nhu cầu lớn thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để quảng bá cho các sản phẩm của mình, chính điều này đã tạo ra những cơ hội thuận lợi cho Rupert Murdoch.

Không bỏ qua dịp may đó, Rupert Murdoch đã tìm cách thiết lập quan hệ với các doanh nghiệp có nhu cầu quảng cáo sau đó là tập trung vào xây dựng chuyên mục quảng cáo đi vào chiều sâu cho tờ tạp chí The News. Quyết tâm biến chuyên mục này thành nguồn phát triển, với nguồn vốn không phải là mạnh của mình, Rupert Murdoch vẫn quyết định mua lại tờ Sunday Newspaper đang trước nguy cơ phải đóng cửa để khôi phục hoạt động.

Song song với đó, Rupert Murdoch còn tiếp tục đầu tư một lượng vốn khá lớn vào nhập dây truyền kỹ thuật in báo khổ nhỏ tiên tiến trong thời điểm đó. Sau một loạt chương trình đầu tư đó, doanh thu từ các chuyên mục quảng cáo đã tăng lên rất nhanh, News Limited đã có được những khoản lãi và thanh toán được những khoản nợ trước đó đồng thời bắt đầu khuyếch trương hoạt động ra các khu vực lân cận.

Hướng tới mục tiêu chiếm lĩnh thị trường báo chí trong nước, trên cơ sở những thành công đã đạt được, Rupert Murdoch còn tiếp tục mua lại và thiết lập thêm nhiều tờ báo mới như TV Week, New Idea, The Australian, The Daily Telegraph... Một trong số đó là tờ TV Week đã từng được tổ chức Southdown Press tại Melbourne bầu chọn là tờ tạp chí truyền hình thành công nhất.

Nếu như bước khởi đầu chồng chất những khó khăn thì chỉ sau đúng 4 năm, trên cương vị là người đứng đầu công ty, Rupert Murdoch đã đưa News Limited trở thành một trong những doanh nghiệp báo chí truyền thông có tầm ảnh hưởng lớn nhất tại Australia. Hầu hết các khu vực từ thành thị tới các vùng nông thôn đều có sự xuất hiện các tờ báo của News Limited.

Hoàn tất chương trình chiếm lĩnh thị trường nội địa cùng một nguồn lực hùng mạnh, Rupert Murdoch tiếp tục khởi động chiến lược khuyếch trương hoạt động ra thị trường báo chí của các quốc gia trong và ngoài khu vực.


  • Xây dựng thành công Tập đoàn News Corporation

Chiến dịch lan toả ra thị trường ngoài nước đầu tiên được Rupert Murdoch thực hiện chính là Anh Quốc. Đây là một thị trường có tiềm năng khai thác rất lớn và hơn thế nữa là một thị trường Rupert Murdoch đã có nhiều năm gắn bó, có nhiều hiểu biết.

Để có thể đi vào hoạt động ngay khi tiến vào thị trường mới, Rupert Murdoch đã tìm cách mua lại tờ The News of the World, một trong những tờ tạp chí có tầm ảnh hưởng lớn tại Anh và nhiều khu vực trên thế giới. Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất đối với Rupert Murdoch trong thời điểm này chính là việc đối thủ “nặng ký” Robert Maxwell đã có thâm niên hoạt động tại Anh cũng đang tìm cách mua lại The News of the World.

Quyết dành phần thắng trong cuộc đua này, Rupert Murdoch đã phải bán đi nhiều cổ phần đầu tư tại nhiều doanh nghiệp và thậm chí là thế chấp nhiều tài sản tại Australia để vay thêm vốn của ngân hàng. Nhờ chiến lược tổng lực đó, Rupert Murdoch đã thành công với bản hợp đồng dành quyền sở hữu The News of the World. Tổng số lượng phát hành lên tới 6 triệu ấn phẩm tính riêng trong năm 1968, The News of the World đã trở thành một công cụ hữu hiệu không thể thiếu để Rupert Murdoch khuyếch trương hoạt động tại thị trường Anh Quốc.

Không dừng lại ở đó, nhờ biết triệt để khai thác ưu thế của The News of the World nên chỉ sau một thời gian không lâu sau đó, cùng với mức tăng trưởng mạnh của The News of the World, Rupert Murdoch đã không những tạo được chỗ đứng vững chắc tại thị trường Anh mà còn trả được những khoản vay thế chấp tài sản tại Australia.

Trong những năm tiếp theo, Rupert Murdoch còn thực hiện thành công bản hợp đồng mua lại tờ The Sun và tờ The Times danh tiếng và vươn lên trở thành một thế lực hùng mạnh trong lĩnh vực báo chí truyền thông tại Anh.

Có được những kinh nghiệm quý báu từ thị trường Anh, năm 1973, bắt đầu tiến vào thị trường Mỹ, ngay trong thời gian đầu tiên, Rupert Murdoch đã ngay lập tức mua lại tờ San Antonio Express-News. Thêm vào đó, nhằm giải toả sức ép cạnh tranh rất lớn từ các đối thủ mạnh tại thị trường Mỹ, một lần nữa, Rupert Murdoch sử dụng chiến lược đầu tư tổng lực vào thành lập tờ Star và liên tiếp thâu tóm nhiều tờ báo danh tiếng khác như New York Post, The Herald and Weekly Times Ltd., Fox Network, Fox News Channel...

Chưa thị trường nào Rupert Murdoch lại thực hiện nhiều thương vụ mua đi và bán lại như tại thị trường Mỹ. Mới đây, với sức mạnh tài chính của mình, Rupert Murdoch còn tiếp tục đầu tư 34% cổ phần tương đương với 6 tỷ USD vào hệ thống Hughes Electronics và mua lại Công ty Intermix Media Inc với mức giá 580 triệu USD. Qua những thương vụ kinh doanh dày đặc và nhanh đến chóng mặt đó, Rupert Murdoch đã chính thức đưa tên mình vào vị trí một trong những ông trùm báo chí truyền thông tại Mỹ.

Cùng với tốc độ phát triển mạnh mẽ đó, Rupert Murdoch đã biến News Limited thành tập đoàn báo chí truyền thông quốc tế News Corporation. Hiện nay, tính cả kênh truyền hình qua vệ tinh STAR TV (Asia) hoạt động tại các quốc gia thuộc khu vực châu Á bao gồm Singapore, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan và Việt Nam, News Corporation đã thiết lập được một mạng lưới tổng cộng hơn 170 chi nhánh trên 3 châu lục của thế giới.

Sau gần cả cuộc đời gắn bó với thương trường, Rupert Murdoch đã tạo dựng được khối tài sản cá nhân khổng lồ, trị giá 6,7 tỷ USD


  • Bí quyết thành công

 Giới báo chí được coi như là một cơ quan quyền lực thứ tư của mỗi đất nước (sau ba cơ quan hành pháp, tư pháp và lập pháp), bởi vậy các ông trùm truyền thông là những người không mấy ai thích. Rupert Murdoch là ông trùm báo chí đầu tiên trở thành “con quỷ” của cả thế giới. Ông là đối tượng của nhiều lời chỉ trích, về những tư tưởng chính trị hữu khuynh của ông, hay về thái độ ''ve vãn'' của ông đối với Trung Quốc bởi vì ông đang triển khai kế hoạch kinh doanh ở đất nước này. Tuy nhiên, trước búa rìu dư luận, Murdoch vẫn không hề nao núng, một trong những sức mạnh của ông là ông không quan tâm đến những lời chỉ trích này.

 Trưởng thành trong thời đại toàn cầu hoá, Murdoch là người nhạy bén hơn ai hết khi sớm nhận ra những cơ hội mà kỷ nguyên khoa học công nghệ mang lại, đó là máy tính, vệ tinh, công nghệ truyền tín hiệu không dây. Nhờ đó, ông là người đầu tiên tạo ra hãng truyền thông quốc tế, và thống trị các kênh truyền hình. Ông đã đầu tư những khoản tiền khổng lồ để xây dựng hệ thống truyền hình vệ tinh BSkyB ở Anh. Sau đó cũng chính ông phát triển hệ thống vệ tinh truyền hình trên khắp châu Á. Năm1998, dịch vụ LineOne của Murdoch đã trở thành AOL của châu  Âu.

 Murdoch có một phong cách làm việc khá độc đáo. Ông không phải là người thích nói ra những gì mình làm, tự thể hiện mình thông qua cách xử lý công việc hiệu quả và các mối quan hệ chính trị - kinh doanh đầy quyền lực. Đầu thập niên 1990, sự thống trị của News Corp bị lung lay do Murdoch đã đầu tư quá nhiều tiền vào kế hoạch truyền hình vệ tinh ở Anh, thêm vào đó là sự suy thoái của News Corp. Lần đầu  tiên, tập đoàn truyền thông này rơi vào khủng hoảng. Tuy nhiên, Murdoch có điểm thuận lợi là các ngân hàng lớn của thế giới đều rất tin tưởng vào tài năng kinh doanh của ông, vì thế họ đã đồng ý quay vòng nợ cho News Corp. Cuối cùng tập đoàn này đã thoát khỏi khủng hoảng và phục hồi. Kể từ đó, News Corp lại giành lại vị trí ưu thế số một của nó.

 Trong số các hãng mà Murdoch sở hữu, Star Television ở châu Á - mua năm 1993 – là hãng gặp nhiều khó khăn nhất. Hãng này rất có tiềm năng phát triển: các vệ  tinh truyền hình của nó phủ sóng từ Nhật Bản cho đến Trung Đông, qua Trung Á, và phục vụ 2/3 dân số thế giới. Tuy nhiên, Murdoch sớm nhận ra rằng hãng này không có thị trường toàn thể thống nhất mà chỉ có những thị trường theo kiểu khu vực địa phương mà thôi. Hiện, với kế hoạch xâm nhập thị trường Trung Quốc, ông hi vọng sẽ có thể khắc phục được khó khăn này.

 Ở tuổi thập cổ lai hy, với bảng thành tích phong phú hơn ai hết, Murdoch vẫn không ngừng cố gắng làm việc và vươn lên. Ông gọi những thành công là một loạt các trận chiến trong cuộc đấu tranh vì sự phát triển. Cuộc đẩu tranh ấy không bao giờ kết thúc. Điều đó làm cho News Corp. không ngừng lớn mạnh.

Tới năm 2007, bước sang tuổi 76, Rupert Murdoch đã vươn lên vị trí thứ 32 trong danh sách những doanh nhân thành đạt nhất thế giới. Mới đây, ông chủ của News Corporation lại vừa hoàn tất thương vụ mua lại Dow Jones với khoản tiền hơn 5 tỷ USD.



3.2. Tập đoàn báo chí của Mỹ:

  • Viacom:

Tiền thân của Viacom là CBS Films, một nhánh truyền hình của CBS, đến năm 1971 mới đổi tên thành VIACOM (Video&Audio Communication).

N
Tòa nhà của tập đoàn viacom
ăm 1985
, Viacom mua hãng Warner-Amex Satellite Entertainment (hay MTV Networks). Cùng năm Viacom cũng mua tập đoàn Showtime Networks (Bao gồm có Showtime và Kênh chiếu phim -Movie Channel)

Năm 1986, ông chủ của National Amusements (Giải trí quốc gia) mua lại Viacom và “mua” lại cả Sumner Restone - Giám đốc Viacom bấy giờ.

Từ đó, Restone tiến hành chiến dịch bành trướng, mua lại Paramout Pictures (1993) và Blockbuster Video (1994), tạo đà cho Viacom mua lại gã khổng lồ Spelling Entertainment (kiểm soát hãng ABC và NBC).

Sau đó, đội quân truyền hình đông đảo này sát nhập với Paramount Pictures tạo ra một Paramout Pictures hùng mạnh như ngày nay.

Năm 1999, Viacom mua BET(Black Entertainment Television) với giá 3 tỉ đô. Black Entertainment Television (BET) là hệ thống truyền hình cáp đàu tiên tập trung ở Bắc Phi được Robert L.Johnson tạo lập Vào năm 1979. Hệ thống này được khai trương vào tháng 1 năm 1980, lúc đầu phát sóng 2 tiếng một tuần. Sau 11 năm, BET trở thành công ty điều khiển đầu tiên được đưa vào danh sách trong thị trường chứng khoán NewYork. Năm 2007, BET đạt được lợi nhuận 65 triệu đôla và ngày càng mở rộng hơn thành những kênh truyền hình có liên quan đến BET và tạo thành một mạng lưới BET như : BET, các kênh truyền hình kĩ thuật số BET HipHop và BET Gospel.

Không dừng lại ở đó, năm 1999 Viacom tiến hành chiến dịch mua lại lớn chưa từng có: mua lại chính “phụ thân” CBS với giá khổng lồ là 34,5 tỉ USD. Từ đây Viacom là chủ sở hữu của mạng truyền hình cáp đồ sộ: TNN, Country Music Television, Eyemark, King World.



  • Lịch sử của CBS:

CBS là hệ thống truyền hình đầu tiên ra đời vào buổi bình minh của kỷ nguyên truyền hình. Nó thống trị lĩnh vực truyền hình trong những năm đầu kỷ nguyên và cho ra các tác phẩm đặc sắc như I Love Lucy, Dragnet, The Jack Benny Show, Gunsmoke (thập niên 1950), The Ed Sullivan Show, The Andy Griffith Show, Candid Camera (thập niên 1960) và các bộ phim truyền hình nhiều tập nổi tiếng như All In The Family, MASH, The Mary Tyler Moore Show (thập niên 1970).

CBS cũng đem đến cho khán giả Dallas, The Beverly Hillbillies, The Waltons, Hawaii Five O. Ngày 28/1/1983 CBS phát hành tập cuối cùng của bộ phim MASH, phá kỷ lục về số khán giả theo dõi trong lịch sử điện ảnh: 60 triệu người. Gần đây hơn là các bộ phim truyền hình nhiều tập Murphy Brown, Cybill, Medicine Woman, Chicago Hope và The Nanny. Hôm nay, CBS không còn có sự ưu thế như xưa nhưng bộ phim truyền hình nhiều tập 60 minutes của nó vẫn rất ăn khách và các chương trình tạp kỹ như Everybody Love Raymond, Becker vẫn có nhiều người xem. CBS cũng giữ chân được David Letterman, một tổ sư trong lãnh vực phỏng vấn đối thoại truyền hình trước sự mua chuộc của đối thủ ABC.

CBS TV City được xây năm 1952 tại địa điểm cũ của sân vận động Gilmore. Đây là nơi CBS ghi hình nhiều chương trình truyền hình được yêu thích nhất nước Mỹ, các bộ phim truyền hình nhiều tập và cả các chương trình phỏng vấn như Late Late Show (do Craig Kilborn chủ trì), Dennis Miller Live. Ngoài ra còn hai chương trình trò chơi thi đấu: Hollywood Squares và The Price Is Right. Các nghệ sĩ Jack Benny, Bing Crosby, Krank Sinatra, Doris Day, Steve Martin, George Burns, Elton John, Bob Hope...đều có các chương trình đặc biệt được ghi hình tại CBS TV City.

Ngày 17/10/1951, khi CBS công bố logo mới CBS Eye có hình con mắt của hãng, CBS cũng không ngờ logo này sẽ trở thành một biểu tượng của kỹ thuật giải trí Mỹ và được đánh giá là một trong các logo công ty ấn tượng nhất trong lịch sử thế giới. Ngày 20/10/1951, logo mới chính thức xuất hiện trên kênh TH của CBS và nó vẫn giữ nguyên hình dạng từ bao năm nay dù đã được thay đổi về màu sắc nhiều lần. Ngày 11/11/2001, CBS kỷ niệm 50 năm ngày phát hành chương trình TH hài I Love Lucy (bộ phim phát sóng ngày 15/10/1951, 5 ngày trước khi logo mới ra mắt khán giả TH). Nhân dịp này hãng sẽ giới thiệu lại quá trình tiến hoá của logo CBS Eye.




tải về 459.22 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương