ĐỀ CƯƠng tuyên truyền kỷ niệM 120 NĂm ngày thành lập tỉnh sơn la



tải về 151.59 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích151.59 Kb.
#12982

ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN

KỶ NIỆM 120 NĂM NGÀY THÀNH LẬP TỈNH SƠN LA

(10.10.1895 - 10.10.2015)


_______

SƠN LA

QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH, XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN




I- KHÁI QUÁT VỀ TỈNH SƠN LA


1. Vị trí địa lý

Tỉnh Sơn La nằm ở tọa độ địa lý từ 200 39' đến 220 02' vĩ độ Bắc và từ 1030 11' đến 1050 02' kinh độ Đông; tiếp giáp với 7 tỉnh: phía Bắc giáp hai tỉnh Yên Bái, Lào Cai; phía Đông giáp hai tỉnh Hòa Bình, Phú Thọ; phía Tây giáp hai tỉnh Lai Châu, Điện Biên; phía Nam giáp tỉnh Thanh Hóa và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Với diện tích tự nhiên 14.174,4 km2 - là tỉnh có diện tích rộng, đứng thứ 3 các tỉnh trong cả nước.

Tỉnh Sơn La có trục đường quốc lộ 6 đi qua, là tuyến giao thông chính, ngoài ra còn có các tuyến đường quốc lộ 37, 4G, 279…liên kết các vùng, có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của tỉnh nói riêng, vùng Tây Bắc nói chung. Đồng thời, tỉnh có đường biên giới dài 250 km, tiếp giáp với nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; có dòng sông Đà rất giầu tiềm năng phát triển thủy điện, giao thông thủy và sinh thái Tây Bắc, vì thế có vị thế quan trọng về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của vùng Tây Bắc.

2. Dân số, dân tộc, phân bố dân cư

Sơn La là vùng đất cổ. Qua kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học khảo cổ học, dân tộc học, lịch sử…đã chứng minh: từ hàng vạn năm trước đây, vùng đất Sơn La đã có con người sinh sống. Trải qua quá trình lịch sử, dân số và phân bố dân cư không ngừng phát triển. Năm 1921, dân số tỉnh Sơn La có 86.000 người1, năm 1960 (sau gần 40 năm), dân số 128.200 người, tăng 42.200 người. Trong các thập niên 60, 70, 80 của thế kỷ XX, dưới tác động của các cuộc chuyển dân từ miền xuôi lên, dân số có sự gia tăng đáng kể. Vào thời điểm ngày 01/4/1975, sau 14 năm (so với thời điểm ngày 01/3/1960), dân số có 326.500 người, tăng 198.300 người. Từ ngày 01/4/1975 đến ngày 01/4/2014, sau 39 năm dân số có 1.169.600 người, tăng 843.100 người, thuộc tỉnh có dân số trung bình.

Do nhu cầu phát triển, thành phần các dân tộc Sơn La ngày càng đa dạng, trong đó có 12 dân tộc chủ yếu, gồm dân tộc Thái 53,2%, dân tộc Kinh 17,61%, dân tộc Mông 14,61%, dân tộc Mường 7,57%, dân tộc Sinh Mun 1,98%, dân tộc Dao 1,77%, dân tộc Khơ Mú 1,17%, dân tộc Lào 0,17%, dân tộc Kháng 0,8%, dân tộc La Ha 0,74%, dân tộc Hoa 0,02%, còn lại là các dân tộc khác. Mật độ dân số và sự phân bố dân cư, thành phần dân cư có nhiều chuyển biến mới, đặc biệt sau các cuộc di dân quy mô lớn vào những thập niên 60, 70, 80, 90 của thế kỷ XX. Năm 1963, mật độ dân số tỉnh Sơn La 18 người/km2, năm 2014 là 83 người/km2.

Với quy mô dân số, mật độ dân số và phân bố dân cư ở tỉnh Sơn La trong suốt chiều dài lịch sử đã góp phần phản ánh rõ quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Sơn La.



3. Đơn vị hành chính và tên gọi

Vùng đất tỉnh Sơn La ngày nay, thời kỳ Hùng Vương thuộc bộ Tân Hưng, nước Văn Lang. Trải qua quá trình phát triển, đơn vị hành chính tỉnh Sơn La cũng có sự thay đổi.

Từ khi thực dân Pháp xâm chiếm vùng Tây Bắc (1886-1891), Sơn La thuộc phủ Gia Hưng - tỉnh Hưng Hoá. Ngày 27/02/1892, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập Tiểu quân khu Vạn Bú gồm: Phủ Vạn Yên với các Châu Mộc, Châu Phù Yên và Phủ Sơn La gồm các châu: Sơn La, Châu Yên, Mai Sơn, Châu Thuận, Tuần Giáo, Điện Biên.

Ngày 10/10/1895, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định chuyển tiểu quân khu Vạn Bú thuộc đạo quan binh thứ 4 là vùng đất quân quản sang chế độ dân sự. Với việc chuyển Vạn Bú sang chế độ dân sự, chính quyền thuộc địa cho rằng địa bàn này đã được bình định. Ngày 10/10/1895 trở thành thời điểm ra đời của tỉnh Sơn La1, tỉnh lỵ đặt tại Pá Giạng, tổng Hiếu Trai.

Ngày 7/4/1904, tỉnh lỵ chuyển từ Vạn Bú về Sơn La và ngày 23/8/1904, đổi tên tỉnh Vạn Bú thành tỉnh Sơn La. Sau cách mạng tháng Tám 1945, trong kháng chiến chống Pháp, Sơn La lần lượt thuộc các Chiến khu II, Khu XIV, Liên khu Việt Bắc, Khu Tây Bắc. Từ năm 1948 đến tháng 01/1952, Sơn La và Lai Châu hợp nhất thành liên tỉnh Sơn - Lai. Ngày 12/01/1952, tách liên tỉnh Sơn - Lai thành 2 tỉnh Sơn La và tỉnh Lai Châu. Năm 1953, huyện Sông Mã được thành lập.

Sau hoà bình lập lại, từ tháng 5/1955 đến tháng 10/1962, các châu của Sơn La thuộc Khu Tự trị Thái - Mèo, không có cấp tỉnh. Ngày 26/10/1961, thị xã Sơn La - thị xã đầu tiên của vùng Tây Bắc được thành lập. Ngày 24/12/1962, tỉnh Sơn La chính thức được lập lại gồm: thị xã Sơn La và 7 huyện: Thuận Châu, Quỳnh Nhai, Mường La, Sông Mã, Yên Châu, Mộc Châu, Mai Sơn2. Tháng 01/1976, Khu Tây Bắc giải thể, tỉnh Sơn La trực thuộc Trung ương, hai huyện Phù Yên và Bắc Yên3 chuyển về thuộc tỉnh Sơn La. Ngày 02/12/2003, Thủ tướng Chính Phủ ban hành Nghị định số 148-NĐ/CP về việc tách huyện Sông Mã thành 2 huyện: Sốp Cộp và Sông Mã. Ngày 03/9/2008, Chính phủ ban hành Nghị định 98/2008/NĐ-CP thành lập thành phố Sơn La trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Sơn La. Ngày 10/6/2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 72/NQ-CP về chia tách địa giới hành chính huyện Mộc Châu để thành lập huyện Vân Hồ. Đến nay tỉnh Sơn La gồm 11 huyện, 01 thành phố với 204 xã, phường, thị trấn.



II- QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

1. Phong trào đấu tranh chống xâm lược đến năm 1930

Lịch sử đấu tranh của nhân dân các dân tộc Sơn La đã hình thành từ thời chống phong kiến phương Bắc đô hộ, tiếp đến nhiều lần đánh đuổi quân xâm lấn biên giới từ phía Tây và Tây Bắc, bảo vệ vững chắc vùng biên cương của Tổ quốc.

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược nước ta. Năm 1873, thực dân Pháp đánh chiếm Bắc kỳ lần thứ nhất, lần thứ hai vào năm 1882. Nghĩa quân thuộc các vùng châu Mộc, Mường La, Mai Sơn, châu Thuận, Phù Yên… đã tham gia đạo quân do Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy, đánh thực dân Pháp ở trận Cầu Giấy - Hà Nội, gây cho địch nhiều tổn thất to lớn.

Sau khi cơ bản bình định xong các tỉnh vùng đồng bằng, tháng 2/1886, thực dân Pháp đánh lên Tây Bắc, ngày 3/12/1887, chúng đánh chiếm Sơn La.

Dưới tác động của chính sách cai trị thực dân Pháp, nền kinh tế Sơn La lạc hậu, hầu như không có chuyển biến gì. Đời sống nhân dân chủ yếu dựa vào nương rẫy và săn bắt, hái lượm tự nhiên. Văn hoá, giáo dục, y tế không được mở mang, phát triển. Sau gần 30 năm thống trị, đến tháng 2/1917, thực dân Pháp mới cho mở một trường tiểu học ở tỉnh lỵ, 99% dân số không biết chữ quốc ngữ, số người biết chữ Thái không đáng kể. Cùng với chính sách ngu dân, thực dân Pháp ra sức đầu độc nhân dân bằng các tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, nghiện hút thuốc phiện, khuyến khích các tập tục mê tín dị đoan. Đời sống nhân dân khổ cực, lao động nhọc nhằn, ốm đau không có thuốc và không được chạy chữa, nạn dịch bệnh xảy ra triền miên.

Phát huy truyền thống kiên cường chống giặc ngoại xâm, nhân dân các dân tộc Sơn La dưới sự lãnh đạo của các thủ lĩnh châu mường đã đứng lên khởi nghĩa vũ trang chống thực dân Pháp xâm lược ngay từ những ngày đầu. Những cuộc đấu tranh của nhân dân các dân tộc đã góp phần to lớn làm thất bại kế hoạch nhanh chóng bình định Tây Bắc của thực dân Pháp.

Các cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ, thu hút đông đảo nhân dân các dân tộc Thái, Mường, Mông, Dao…, diễn ra ở khắp các địa bàn, dưới nhiều hình thức. Có những cuộc đấu tranh rộng lớn, kéo dài nhiều năm, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Điều đó thể hiện ý chí quật cường của nhân dân các dân tộc, tình đoàn kết gắn bó giữa các dân tộc anh em trong bảo vệ quê hương, Tổ quốc. Tuy nhiên, do thiếu đường lối chính trị đúng đắn, trình độ tổ chức còn non kém cho nên các phong trào đấu tranh yêu nước bị khủng bố đàn áp đẫm máu và tan rã.

2. Quá trình vận động cách mạng, đấu tranh giành chính quyền (1930- 1945).

Ngày 3/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phong trào cách mạng chống lại chế độ thực dân, phong kiến tay sai liên tiếp nổ ra. Hòng dập tắt phong trào cách mạng, thực dân Pháp ra sức lùng sục, khủng bố, bắt bớ, lập thêm nhiều nhà tù để giam cầm, khủng bố các chiến sĩ cộng sản. Cuối năm 1930, thực dân Pháp đày lên Nhà tù Sơn La nhiều chiến sĩ cách mạng kiên trung của Đảng, trong đó có nhiều người là ủy viên Trung ương Đảng, Xứ ủy viên, Tỉnh ủy viên như Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng… Âm mưu của thực dân Pháp là dựa vào rừng núi xa xôi hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, nơi "rừng thiêng, nước độc" này có thể tiêu diệt thể xác, ý chí của những người Cộng sản Việt Nam. Thâm độc hơn chúng mua chuộc, dùng các thủ đoạn chia rẽ dân tộc, lợi dụng sự bất đồng về ngôn ngữ và phong tục tập quán để ngăn cản việc tuyên truyền cách mạng của các tù chính trị.

Nhưng chính từ nơi ngục tù tăm tối, các chiến sĩ cộng sản đã biến nhà tù thành trường học cách mạng, tỏa ánh sáng cách mạng của Đảng tới nhân dân các dân tộc. Trải qua đấu tranh sinh tử với quân thù, các chiến sĩ cách mạng đã có nhiều kinh nghiệm tổ chức và đấu tranh ở trong cũng như ngoài nhà tù. Xuất phát từ yêu cầu phải thống nhất chỉ đạo hoạt động đấu tranh trong tù, cuối tháng 12 năm 1939, Chi bộ Nhà tù Sơn La được thành lập, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh chính trị ở Sơn La, là hạt giống đỏ gieo mầm cách mạng trong vùng Tây Bắc, là tiền đề quan trọng cho sự ra đời của Đảng bộ Sơn La sau này.

Chi bộ Nhà tù ngay từ ngày đầu thành lập đã tập trung chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ: Lãnh đạo mọi hoạt động trong tù, đề ra phương hướng tổ chức các cuộc đấu tranh. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho đảng viên và quần chúng; đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, huấn luyện đảng viên về lý luận Mác - Lênin và phương pháp đấu tranh cách mạng; xây dựng và phát triển các tổ chức quần chúng cách mạng bên trong, bên ngoài nhà tù; tìm cách bắt liên lạc với xứ ủy và Trung ương Đảng.

Sau một thời gian tuyên truyền, vận động, ánh sáng cách mạng từ Chi bộ Nhà tù Sơn La đã lan tỏa, ảnh hưởng sâu, rộng trong các tầng lớp nhân dân ở khu vực tỉnh lỵ, châu lỵ Mường La, dẫn đến sự ra đời của 2 tổ chức cách mạng đầu tiên ở Mường La và ở tỉnh lỵ. Từ tỉnh lỵ, phong trào cách mạng nhanh chóng phát triển ra các vùng tiếp giáp như vùng Chiềng Xôm (nay thuộc thành phố Sơn La), vùng Mường Chanh (Mai Sơn), bản Lầm, Tranh Đấu (Thuận Châu)…Đến đầu năm 1945, toàn tỉnh đã có hơn 60 cơ sở cách mạng ở các châu, tạo tiền đề vững chắc để tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng thắng lợi khi thời cơ chín muồi.

Ảnh hưởng trực tiếp từ chiến khu Vần - Hiền Lương (nay thuộc tỉnh Yên Bái và tỉnh Phú Thọ), từ tháng 5/1945 phong trào cách mạng ở huyện Phù Yên phát triển nhanh. Ngày 23/7/1945, có sự phối hợp của một Chi đội giải phóng quân Chiến khu, đội tự vệ cách mạng, nhân dân huyện Phù Yên đã đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Phù Yên là huyện đầu tiên của tỉnh Sơn La khởi nghĩa giành được chính quyền, đã khích lệ cao trào kháng Nhật cứu nước trong toàn tỉnh lên mạnh mẽ.

Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng đồng minh vô điều kiện. Thời cơ ngàn năm có một cho nhân dân Việt Nam vùng lên giành độc lập dân tộc. Nắm bắt thời cơ, ngày 21/8/1945, tại Sơn La, đồng chí Chu Văn Thịnh triệu tập, chủ trì cuộc họp quán triệt nội dung lời kêu gọi khởi nghĩa của Hồ Chủ tịch, mệnh lệnh của Tổng bộ Việt Minh, bàn những vấn đề cấp bách về tổ chức lực lượng vũ trang khởi nghĩa, kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền ở các châu và tỉnh lỵ. Từ tối ngày 22/8 công tác chuẩn bị, kế hoạch khởi nghĩa ở các châu đã được chuẩn bị khẩn trương. Từ ngày 23/8 khởi nghĩa giành chính quyền bắt đầu diễn ra ở các châu Mường La, Mai Sơn, Yên Châu, Thuận Châu…đến ngày 25/8/1945, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng ở tỉnh lỵ diễn ra thắng lợi. Ngày 26/8/1945, tại lễ mít tinh, đồng chí Chu Văn Thịnh - Chủ nhiệm tỉnh bộ Việt Minh thay mặt Ủy ban cách mạng lâm thời tỉnh Sơn La tuyên bố trước toàn thể nhân dân các dân tộc: khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng hoàn toàn thắng lợi, xóa bỏ chính quyền thực dân, phong kiến, thành lập chính quyền cách mạng; kêu gọi nhân dân các dân tộc đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau xây dựng cuộc sống, ủng hộ chính phủ, ủng hộ Việt Minh.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi là mốc lịch sử quan trọng trong phong trào đấu tranh ở Sơn La. Làm nên thắng lợi vĩ đại ấy là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, đó là sức mạnh đoàn kết, lòng yêu nước, ý chí căm thù, tinh thần bất khuất chống giặc của nhân dân…Trong đó, sự lãnh đạo của Chi bộ nhà tù Sơn La đóng vai trò quyết định.

Thực tiễn lịch sử cho thấy, với tính chất khác biệt của Nhà tù Sơn La; các thế hệ cách mạng tiền bối bị giam cầm nơi đây; với khí tiết đấu tranh của những người Cộng sản đã biến nhà tù thành trường học cách mạng, đồng thời đem ánh sáng cách mạng lan tỏa khắp vùng Tây Bắc…với ý nghĩa đặc biệt đó, ngày 31/12/2014, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định công nhận Di tích nhà tù Sơn La là Di tích cấp quốc gia đặc biệt.

3. Thời kỳ đấu tranh bảo vệ chính quyền, kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi (1945- 1954)

Vừa giành được chính quyền, chúng ta lại phải đương đầu với hơn 20 vạn quân Tưởng từ phía Bắc tràn xuống nước ta lấy danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật nhưng thực chất chúng âm mưu bóp chết chính quyền non trẻ và xâm lược nước ta.

Tại Sơn La, ngày 31/8/1945, quân Tưởng nhân danh đồng minh đã kéo đến phá hoại chính quyền cách mạng. Trong khi đó, quân Pháp từ biên giới Trung Quốc vào chiếm tỉnh lỵ Lai Châu (cũ) và Thượng Lào rồi đánh xuống Sơn La với âm mưu chiếm toàn bộ Tây Bắc trong thời gian nhanh nhất. Ngày 3/01/1947, chúng đánh chiếm tỉnh lỵ

Nhân dân các dân tộc Sơn La dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng đã cùng với lực lượng vũ trang Chiến khu II anh dũng chiến đấu cầm chân, ngăn chặn bước tiến nhanh của kẻ thù. Nhiều cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, gây cho thực dân Pháp nhiều tổn thất như trận Mường Mùn (Tuần Giáo), ở Chiềng Pấc (Thuận Châu)…Do tương quan lực lượng bất lợi cho ta, lực lượng vũ trang địa phương và bộ đội chủ lực được Trung ương tăng cường phải thực hiện phương châm tác chiến vừa đánh vừa kiềm chế và tiêu hao sinh lực địch, vừa khôn khéo rút lui để bảo toàn lực lượng, đánh lâu dài. Đến tháng 10/1947, thực dân Pháp cơ bản kiểm soát được các địa bàn trong tỉnh, trừ Mường Bang, Mường Lang, Mường Do của huyện Phù Yên.

Tình hình chiến sự diễn biến ác liệt. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, phong trào kháng chiến ở địa bàn tỉnh Sơn La đã sớm được củng cố, thúc đẩy phát triển. Tháng 10/1946, Chi bộ đảng tỉnh Sơn La thành lập, là bước phát triển quan trọng về tổ chức bộ máy lãnh đạo. Từ đây, các chủ trương quan trọng, cấp bách đã được triển khai thực hiện kịp thời, có hiệu quả, trọng tâm như gấp rút đào tạo cán bộ, xây dựng căn cứ kháng chiến ở Mộc Hạ (Mộc Châu) và ở các địa bàn chiến lược, thành lập các đội vũ trang tuyên truyền, bí mật vào vùng hậu địch để vận động quần chúng xây dựng các cơ sở cách mạng; xây dựng bộ đội địa phương và phát triển rộng rãi lực lượng dân quân du kích; đẩy mạnh đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị, cản phá các cuộc phản kích, khủng bố của địch vào các khu căn cứ kháng chiến; diệt tề, trừ gian và phá thế kìm kẹp của địch.

Với sự nỗ lực lớn của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc, sự quan tâm lãnh đạo của Trung ương Đảng, từ cuối năm 1947, phong trào kháng chiến của tỉnh từng bước được củng cố và ngày càng lớn mạnh, phát triển rộng khắp. Do đó, tỉnh Sơn La được Trung ương Đảng, Liên khu ủy X giao nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, giúp đỡ đội xung phong Lào Bắc1 xây dựng địa bàn đứng chân, tổ chức lực lượng tiến vào gây cơ sở cách mạng ở tỉnh Sầm Nưa (Lào). Bản Lao Khô thuộc xã Chiềng On (nay thuộc xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu) được chọn để Đội xung phong Lào Bắc đứng chân. Nhân dân bản Lao Khô dù chịu sự kìm kẹp của thực dân nhưng đã phát huy tốt vai trò trong việc bảo vệ, giữ bí mật, giúp đỡ lương thực, thực phẩm cho Đội. Đến cuối năm 1948, Đội xung phong Lào Bắc đã xây dựng được các cơ sở đứng chân trên các địa bàn tỉnh Sầm Nưa.

Sự hình thành các khu căn cứ Lao Măng, Lao Hùng ở tỉnh Sầm Nưa có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cách mạng Lào và Việt Nam. Các khu căn cứ Lào - Việt "dựa lưng", che chắn cho nhau, đoàn kết kháng chiến chống thực dân Pháp.

Trước sự phát triển nhanh chóng của phong trào kháng chiến ở tỉnh Sơn La và các địa bàn tỉnh Sầm Nưa đã đẩy giặc Pháp vào thế co cụm phòng thủ, mở ra điều kiện mới để tiến tới giải phóng.

Tháng 9/1952, Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở Chiến dịch giải phóng Tây Bắc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, quân và dân các dân tộc hăng hái tham gia chuẩn bị chiến trường, tổ chức tốt công tác vận tải và tiếp tế lương thực, thực phẩm cho bộ đội chủ lực, chuẩn bị lực lượng để tiếp quản vùng giải phóng, những việc phải làm ngay sau khi giải phóng; đẩy mạnh hoạt động chiến đấu phối hợp với bộ đội chủ lực tiêu diệt địch.

Chiến dịch Tây Bắc kết thúc, ngày 22/11/1952, tỉnh Sơn La cơ bản được giải phóng. Tháng 8/1953, chiến dịch Thượng Lào thắng lợi, thực dân Pháp buộc phải rút khỏi Nà Sản, Sơn La hoàn toàn được giải phóng.

Sau ngày giải phóng, công tác củng cố chính quyền, tuyên truyền, vận động nhân dân tăng gia sản xuất, xây dựng đời sống mới; đóng góp sức người, sức của phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ được đẩy mạnh. Mặc dù âm mưu, nhất là hành động phá hoại của tàn quân phỉ diễn biến phức tạp, nhưng nhân dân các dân tộc không nao núng, không ngại hy sinh, gian khổ, ngày đêm băng rừng, trèo đèo cao, vượt suối sâu để vận chuyển lương thực, đạn dược cho bộ đội, góp phần vào công tác chuẩn bị chiến dịch giải phóng Điện Biên. Trải qua 56 ngày đêm chiến đấu vô cùng gian nan và anh dũng, ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta. Tỉnh Sơn La đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là hậu phương trực tiếp của chiến dịch quyết chiến chiến lược, góp phần làm niên chiến thắng "Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Riêng về lương thực, thực phẩm, tỉnh Sơn La đã đóng góp 3.607 tấn gạo (vượt chỉ tiêu 52 tấn), thịt các loại trên 144 tấn (vượt chỉ tiêu 84 tấn), mỡ gần 3 tấn (vượt 2,5 tấn); rau các loại 140 tấn1. Riêng huyện Thuận Châu, huyện tiếp giáp với mặt trận Điện Biên Phủ, đồng bào đã huy động được 950 tấn gạo, 61 tấn thịt, 37 tấn rau các loại.

Những thành tích xuất sắc của Đảng bộ, quân và nhân dân các dân tộc tỉnh Sơn La trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã được Đảng, Nhà nước, tặng nhiều phần thưởng cao quý. Tính đến nay, toàn tỉnh đã có 20 tập thể, 6 cá nhân được Nhà nước phong tặng, truy tặng danh hiệu: Anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Bản Lao Khô được Nhà nước quy hoạch, xây dựng khu bảo tồn, xếp hạng di tích cấp quốc gia.



4. Sơn La góp phần thực hiện thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam và thống nhất nước nhà (1954 - 1975)

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi". Tuy nhiên, theo Hiệp định Giơnevơ, nước Việt Nam tạm thời chia làm hai miền Nam, Bắc. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ quá độ tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền Nam vẫn đang chìm dưới ách thống trị của đế quốc và tay sai.



Ngay sau khi được giải phóng, nhân dân các dân tộc ở các châu dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Bác Hồ, Khu tự trị Thái - Mèo đã bắt tay ngay vào khôi phục nền kinh tế bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, hoàn thành khẩu hiệu "người cày có ruộng". Trong lần duy nhất lên thăm Sơn La, Tây Bắc nhân dịp kỷ niệm 5 năm ngày Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/1959), tại Thuận Châu, Bác Hồ nói: "Từ khi hòa bình lập lại, đồng bào các dân tộc, bộ đội và cán bộ lại càng đoàn kết chặt chẽ, ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, cải thiện đời sống, giữ gìn an ninh trật tự. Đảng và Chính phủ rất vui lòng trước những thành tích đó"1.

Dù thời gian chuyến thăm Sơn La, Tây Bắc không nhiều nhưng hình ảnh, những lời dạy bảo của Bác có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo ra sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đem ánh sáng và sức mạnh thúc giục mọi người tiến lên không ngừng trong công cuộc đấu tranh giành độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.



Sau 10 năm khôi phục, cải tạo và xây dựng CNXH (1954 - 1965), Sơn La đã có một bước tiến dài. Từ một nền kinh tế nông nghiệp phân tán, rất nghèo nàn lạc hậu, đã trở thành một địa phương có nền kinh tế bước đầu phát triển. Mạng lưới giao thông vận tải; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp như cơ khí, điện, vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm, in ấn…Với chủ trương điều chỉnh nhân lực miền xuôi lên miền núi phát triển kinh tế, bảo vệ Tổ quốc, Sơn La đã đón hàng chục vạn lao động của các tỉnh Hưng Yên, Thái Bình, Hà Tây, do đó hệ thống nông, lâm trường bắt đầu hình thành, phát triển. Cơ sở vật chất kỹ thuật tuy nhỏ bé, nhưng đã tạo ra những tiền đề và làm thay đổi căn bản bộ mặt kinh tế - xã hội. Đời sống vật chất, tinh thần, văn hóa, giáo dục đều có bước tiến quan trọng. Sự nghiệp giáo dục phát triển nhanh, hàng ngàn giáo viên miền xuôi tình nguyện lên Sơn La xây dựng văn hoá - giáo dục miền núi; hệ thống Trường Thanh thiếu niên dân tộc được hình thành. Hầu hết các xã có trường cấp I, trường cấp II và một số huyện có trường cấp III, chữ Thái được cải tiến, bộ chữ Mông ra đời, các trường nghiệp vụ và kỹ thuật được hình thành. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm, hầu hết các xã có trạm xá, túi thuốc và cán bộ y tế hướng dẫn nhân dân thực hiện phong trào vệ sinh phòng bệnh. Sơn La góp phần cùng với các tỉnh miền Bắc trở thành chỗ dựa vững chắc về vật chất và tinh thần cho cuộc đấu tranh giải phóng của đồng bào miền Nam ruột thịt.

Cuối năm 1964 đầu năm 1965 chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ bị phá sản về căn bản; Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ", một hình thức cao của chiến tranh thực dân kiểu mới, đưa quân ồ ạt vào miền Nam Việt Nam. Ngày 5/8/1964, đế quốc Mỹ gây ra sự kiện "vịnh Bắc Bộ" tạo cớ để leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc. Tháng 02/1965, đế quốc Mỹ chính thức tiến hành cuộc chiến tranh bắn phá lần thứ nhất miền Bắc.

Thực hiện sự chỉ đạo của Ban chấp hành Trung ương Đảng, tháng 5/1965, Đảng bộ tỉnh ra Nghị quyết chuyển công tác từ thời bình sang thời chiến, vừa xây dựng, vừa sẵn sàng chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

Ngày 14/6/1965, không quân Mỹ đã đánh phá dữ dội trung tâm kinh tế Mộc Châu, mở đầu cuộc đánh phá có tính chất huỷ diệt đối với Sơn La. Từ năm 1965 đến 1968 và năm 1972, đế quốc Mỹ đã huy động gần 6.000 lần tốp máy bay đánh phá trên các địa bàn, trọng điểm bị đánh phá như cầu Tà Vài, cầu Chiềng Đông (Yên Châu), cầu Nà Hay (Thuận Châu); trung tâm hành chính ở thị xã và thị trấn; các cơ sở bệnh viện, trường học đều là mục tiêu đánh phá. Đồng thời đế quốc Mỹ tăng cường triển khai chiến tranh tâm lý, tung gián điệp, biệt kích, kích động các phần tử phản động địa phương phao tin đồn nhảm, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước… nhằm gây mất ổn định chính trị ở vùng biên giới phía Tây Bắc.

Với ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo sâu sát của Tỉnh ủy, quân và dân đã tổ chức chiến đấu sáng tạo, anh dũng, giành thắng lợi ngay từ trận đầu. Ngày 14/6/1965, quân và dân Sơn La đã bắn cháy, rơi trên địa bàn huyện Mộc Châu 02 máy bay giặc Mỹ, liên tiếp trong các ngày 20, 22, 26/6/1965 bắn cháy 7 chiếc máy bay Mỹ. Trong năm 1965, bộ đội cao xạ địa phương và dân quân tự vệ đã bắn rơi 54 máy bay giặc Mỹ, được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cờ luân lưu “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì cho quân và dân các dân tộc Sơn La.

Mặc dù chiến tranh diễn ra hết sức ác liệt, nhưng nhân dân các dân tộc trong tỉnh luôn đoàn kết một lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng, vừa chủ động chiến đấu, phục vụ chiến đấu vừa đẩy mạnh sản xuất, góp phần chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Từ năm 1965 đến năm 1974, toàn tỉnh đã tiễn đưa 10.949 thanh niên nhập ngũ, chiếm 38% tổng số nam nữ thanh niên, chiếm 2,7% dân số trong tỉnh (so với dân số năm 1974); lực lượng dân quân tự vệ phát triển, chiếm 13% so với dân số; bắn rơi 76 máy bay giặc Mỹ, bắt gọn 60 vụ biệt kích, thám báo. Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Quốc tế đối với cách mạng Lào.

Ghi nhận công lao to lớn trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng và Nhà nước đã tặng Đảng bộ, quân, nhân dân các dân tộc tỉnh Sơn La những phần thường cao quý, trong đó 9 đơn vị, 5 cá nhân được Nhà nước phong tặng, truy tặng danh hiệu: Anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; 4 cá nhân, 4 tập thể được Nhà nước phong tặng danh hiệu: Anh hùng lao động. Đảng và Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào tặng Huân chương Tự do - Huân chương cao quí nhất cho Đảng bộ, quân và dân tỉnh Sơn La.

5. Sơn La trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện (1975- 2015)

5.1. Sơn La thực hiện nhiệm vụ khôi phục phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh (1975 - 1985)

Năm 1975, sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cách mạng Việt Nam bước sang thời kỳ mới - thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1976), lần thứ V (1980), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Sơn La lần thứ IV (năm 1976), lần thứ V (năm 1977), lần thứ VI (năm 1980) và lần thứ VII (1983), trong 10 năm (1976 - 1985) phấn đấu, tỉnh Sơn La đã giành được những thành tựu quan trọng. Để phù hợp với tình hình, phát huy hiệu quả trong công tác quản lý, sau khi Khu Tây Bắc giải thể và hai huyện Phù Yên, Bắc Yên sáp nhập vào tỉnh Sơn La, tỉnh đã tiến hành thành lập, giải thể, sáp nhập, điều chỉnh địa giới hành chính, đổi tên gọi một số xã, phường, thị trấn. Đồng thời, gắn với thực hiện chủ trương tổ chức lại sản xuất theo hướng mở rộng sản xuất, công tác quy hoạch cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn tỉnh, từng huyện được điều chỉnh bổ sung nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng kinh tế - xã hội ở từng địa bàn, từng vùng. Với nhiều biện pháp đồng bộ, Sơn La đạt tốc độ phát triển khá nhanh trên nhiều lĩnh vực. Sản xuất nông nghiệp đã có bước tiến bộ đáng kể về thâm canh, tăng vụ, bước đầu phá thế độc canh và chuyển biến theo hướng toàn diện. Năm 1985 so với 1975, sản lượng lương thực quy ra thóc tăng gần 5 vạn tấn, đàn trâu bò tăng trên 5,2 vạn con, diện tích cây công nghiệp tăng gấp 2 lần, tăng sản phẩm xã hội trên 34 lần, trong đó nông nghiệp tăng trên 53 lần và công nghiệp tăng trên 10 lần, thu ngân sách từ nguồn địa phương tăng trên 26 lần, hình thành 2 vùng sản xuất tập trung Mộc Châu và Mai Sơn.

Sự nghiệp văn hóa, giáo dục và đào tạo, y tế ngày càng được mở rộng, phát triển nhanh. Công tác xây dựng Đảng được chú trọng, tất cả các cơ quan, đơn vị, xí nghiệp, trường học.. đều có đảng bộ hoặc chi bộ, đa số các bản có chi bộ, tổ đảng, đảng viên. Công tác an ninh, đảm bảo quốc phòng được chú trọng, bảo vệ vững chắc sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Trong 10 năm, (1976 -1985) Sơn La cũng như cả nước trải qua thời kỳ mô hình quản lý cũ, tập trung quan liêu, bao cấp nặng nề. Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng những thành quả phấn đấu đạt được trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của Đảng bộ, quân và nhân dân các dân tộc là rất quan trọng, tạo nền tảng vững chắc để Sơn La bước vào thời kỳ mới, thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện.

5.2. Sơn La 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới.

Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX, từ thực tế Việt Nam và bối cảnh quốc tế, Đảng ta đã nhận thức ra và công khai vạch rõ những sai lầm, khuyết điểm và đề ra đường lối đổi mới trên một số lĩnh vực. Đánh dấu sự mở đầu công cuộc đổi mới toàn diện từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng vào năm 1986. Các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, lần thứ VIII, lần thứ IX, lần thứ X và lần thứ XI tiếp tục phát triển sâu sắc hơn, toàn diện hơn đường lối đổi mới, phù hợp với xu thế phát triển, đặc điểm tình hình thực tế đất nước.

Sơn La những năm đầu bước vào thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo gặp không ít khó khăn, thách thức. Ảnh hưởng cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền những tháng cuối năm 1985, đời sống kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn. Vào thời điểm đầu năm 1986, Sơn La có khoảng 15 vạn dân thiếu đói; gần 1 vạn lao động trong tỉnh chưa có việc làm ổn định. Công cuộc di dân tái định cư vùng lòng hồ sông Đà để xây dựng nhà máy thuỷ điện Hoà Bình là nhiệm vụ cách mạng to lớn đối với tỉnh.

Tuy nhiên vượt lên khó khăn, thách thức, nhìn lại 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Sơn La đã đạt được những thành tựu to lớn: Kinh tế - xã hội của tỉnh có sự chuyển biến căn bản. Sơn La đã trở thành tỉnh phát triển khá trong khu vực miền núi phía Bắc và đang nỗ lực phấn đấu sớm trở thành tỉnh khá trong vùng trung du và miền núi phía Bắc; trên những hướng lớn tỉnh đã mở được thế phát triển đi lên; kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển ngày càng năng động và hiệu quả; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; bình đẳng giữa các dân tộc về quyền lợi và nghĩa vụ, về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và cơ hội phát triển ngày càng được thực hiện tốt; khối đoàn kết các dân tộc không ngừng được củng cố; quốc phòng, an ninh được củng cố vững chắc, tạo tiền đề quan trọng để tỉnh tiếp tục phát triển nhanh, bền vững hơn trong giai đoạn tiếp theo. Các thành phần kinh tế đều có bước phát triển. Kinh tế nhà nước giữ vị trí quan trọng trong đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, đóng góp lớn vào thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được sắp xếp, sau chuyển đổi hoạt động sản xuất kinh doanh đạt kết quả tích cực; kinh tế tập thể và hợp tác xã tiếp tục phát triển, góp phần thúc đẩy kinh tế hộ, tạo liên kết hợp tác giữa các thành viên, mở rộng sản xuất kinh doanh, phát triển ngành nghề; kinh tế tư nhân phát triển mạnh trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ, xây dựng, khai khoáng và đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, chế biến nông lâm sản; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào khai khoáng, chế biến nông sản góp phần tạo việc làm, tăng thu ngân sách, tạo môi trường cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật.



Sản xuất nông, lâm nghiệp có sự chuyển dịch quan trọng từ thuần nông, quảng canh, tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hóa, phát huy lợi thế so sánh, gắn với thị trường, nhất là các thị trường cao cấp, nâng cao giá trị và hiệu quả kinh tế; một số sản phẩm đã có thương hiệu trên thị trường trong nước và nước ngoài, như các sản phẩm từ sữa, chè, cà phê, nhãn, xoài.... Việc đầu tư thâm canh, đưa các giống mới và áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất được đẩy mạnh, hình thành các vùng nguyên liệu tập trung có diện tích hợp lý, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, tăng giá trị cạnh tranh trên thị trường; đã hình thành một số mô hình hiệu quả như: phát triển chăn nuôi bò sữa, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại huyện Mộc Châu... Mối liên kết giữa Nhà nước - Nhà doanh nghiệp - Nhà nông - Nhà khoa học được hình thành, bước đầu tạo chuỗi sản xuất cho các sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản. Giá trị thu nhập trên 01 ha đất canh tác tăng đáng kể, năm 2015 ước đạt 34 triệu đồng và 115 triệu đồng trên 01 ha nuôi trồng thủy sản, có mô hình cho thu nhập hơn 01 tỷ đồng/ha. Giá trị sản xuất nông lâm nghiệp, thủy sản đạt 10.875 tỷ đồng (ước đạt năm 2015), gấp 8 lần năm 2005. An ninh lương thực và thực phẩm được đảm bảo; đời sống người làm nông nghiệp được nâng lên.

Chương trình xây dựng nông thôn mới đã đạt một số kết quả bước đầu quan trọng. Xây dựng nông thôn mới có thể coi như một cuộc cách mạng đổi mới với nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Trong 5 năm (2010 - 2015), đã huy động, lồng ghép, bố trí được hơn 40.000 tỷ đồng đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng trên địa bàn nông thôn (điện, nước sinh hoạt, trụ sở xã, nhà văn hóa, trường lớp học, nhà ở công vụ giáo viên, nhà bán trú cho học sinh, trạm y tế, chợ nông thôn,...). Các nguồn lực trong dân được huy động hiệu quả, cùng với hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước để đầu tư xây dựng các tuyến đường giao thông phục vụ dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội. Đến năm 2015 đã có 3 xã đạt chuẩn nông thôn mới và phấn đấu đến năm 2020 có ít nhất 20 xã đạt chuẩn nông thôn mới.

Sản xuất công nghiệp duy trì tốc độc tăng trưởng, tiềm năng, lợi thế được phát huy. Công nghiệp điện, khai khoáng, chế biến nông lâm sản, một số cụm công nghiệp Mộc Châu, Mai Sơn, Phù Yên... đã được định hình khá rõ nét, góp phần từng bước thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trọng tâm là công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn phù hợp với điều kiện của tỉnh; tiểu thủ công nghiệp và một số ngành nghề truyền thống được khôi phục và phát triển. Giá trị sản xuất công nghiệp đến năm 2015 ước đạt 5.764 tỷ đồng.

Hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch phát triển mạnh mẽ cả về quy mô, ngành nghề và thị trường. Kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ, trung tâm thương mại, siêu thị đến các chợ đầu mối, chợ trung tâm tại các đô thị, chợ huyện và chợ xã, ở các cụm dân cư; bảo đảm cung ứng các nhu cầu cơ bản cho đồng bào các dân tộc vùng cao, biên giới. Thương mại, dịch vụ quốc tế, đặc biệt trong hợp tác kinh tế với các địa phương nước bạn Lào ngày càng được đẩy mạnh, góp phần khai thác tiềm năng, củng cố quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt - Lào, phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định biên giới, bảo đảm quốc phòng, an ninh chính trị trong tình hình mới. Du lịch có sự phát triển mạnh cả về số lượng khách, loại hình và sản phẩm; hạ tầng du lịch được tập trung quy hoạch và đầu tư. Năm 2014, Quy hoạch tổng thể phát triển Khu du lịch quốc gia Mộc Châu được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, góp phần quan trọng định hướng cho sự phát triển du lịch của tỉnh. Giá trị sản xuất ngành dịch vụ đến hết năm 2015 ước đạt 16.280 tỷ đồng; giai đoạn 2011 - 2015 đạt bình quân 43,3 triệu USD/năm.

Huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển đạt hiệu quả, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hoàn thiện. Những giải pháp huy động, sử dụng các nguồn lực đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng được triển khai đồng bộ, hiệu quả. Có những mô hình mới, cách làm hay trong việc huy động các nguồn lực, khơi dậy phong trào nhân dân hiến đất, góp tiền, vật liệu, công sức xây dựng hạ tầng nông thôn, nhất là đường giao thông. Giai đoạn 2010 - 2015 đã huy động được 65.300 tỷ đồng cho đầu tư phát triển. Hệ thống giao thông, thủy lợi, điện, trường học, trụ sở làm việc, cơ sở y tế, chỉnh trang đô thị tại các huyện, thành phố được quan tâm đầu tư đúng mức, được nhân dân đồng tình ủng hộ.

Các vùng kinh tế hình thành rõ nét theo hướng phát huy lợi thế. Vùng kinh tế động lực dọc Quốc lộ 6 đã phát huy vai trò đầu tàu kinh tế, định hình được kinh tế đô thị, phát triển mạnh dịch vụ, du lịch, các cụm công nghiệp, vùng nguyên liệu chế biến nông sản hàng hóa tập trung, rau, hoa chất lượng cao. Vùng kinh tế dọc sông Đà cơ bản định hình trong phát triển dịch vụ vận tải đường sông, công nghiệp điện, khai khoáng, nuôi trồng thủy sản, trong đó nuôi và chế biến cá Tầm đang mở ra triển vọng tích cực. Vùng cao biên giới được quan tâm đầu tư các nguồn lực hoàn thiện hạ tầng, hỗ trợ sản xuất, phát triển kinh tế rừng, sắp xếp và ổn định dân cư, đã xuất hiện một số mô hình bảo vệ rừng gắn với phát triển lâm sản ngoài gỗ, cây dược liệu có hiệu quả.

Công tác sắp xếp, ổn định dân cư các xã, bản đặc biệt khó khăn, vùng tái định cư các công trình thủy điện được quan tâm. Đặc biệt, Sơn La đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hai cuộc đại di dân tái định cư để phục vụ xây dựng hai công trình thế kỷ: thủy điện Hòa Bình và thủy điện Sơn La. Riêng thủy điện Sơn La, đã di chuyển 12.584 hộ với 54.282 nhân khẩu của ba huyện Mường La, Quỳnh Nhai, Thuận Châu đến nơi ở mới. Vùng tái định cư các công trình thuỷ điện cơ bản được đầu tư đồng bộ, khoa học và công tác khuyến nông được triển khai tích cực; đời sống và sản xuất của nhân dân vùng tái định cư từng bước ổn định, được cải thiện, nội bộ đoàn kết thống nhất, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Giáo dục và đào tạo, văn hoá và các lĩnh vực xã hội có tiến bộ; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện; bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng hơn. Các cấp học, bậc học phát triển nhanh về quy mô và số lượng, xã hội hoá được đẩy mạnh. Từ tháng 12/2007, toàn tỉnh được công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục trung học cơ sở; hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi (tháng 12/2014); tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp các năm duy trì ở mức cao, nhiều học sinh đạt các giải cao tại các kỳ thi học sinh giỏi cấp Quốc gia, tỉnh có học sinh đạt Huy chương Vàng Olympic Vật lý quốc tế. Công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, nâng cao dân trí đạt nhiều kết quả quan trọng.

Cơ sở vật chất trường học không ngừng được đầu tư hoàn thiện. Việc tổ chức bán trú và nấu ăn tập trung cho học sinh thuộc các xã, bản còn đặc biệt khó khăn được triển khai tích cực, hiệu quả, góp phần giảm mạnh tình trạng học sinh bỏ học; chất lượng học và dạy học được nâng cao.



Các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề phát triển mạnh, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh và vùng Tây Bắc.

Sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân được quan tâm chăm lo đúng mức; mạng lưới cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế được đầu tư nâng cấp. Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình, vệ sinh an toàn thực phẩm, công tác y tế dự phòng, chế độ bảo hiểm y tế được triển khai thực hiện ngày một hiệu quả, góp phần cải thiện chất lượng chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, nhất là các đối tượng chính sách, người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, người dân tộc thiểu số, người cao tuổi, giảm thiểu các bệnh xã hội. Toàn tỉnh có 22,1 giường bệnh và 5,8 bác sỹ/1 vạn dân, 143 xã có bác sỹ, tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 93%.

Văn hoá, thể dục - thể thao tiếp tục phát triển. Truyền thống và bản sắc văn hoá tốt đẹp của đồng bào các dân tộc được gìn giữ và phát huy; nhiều lễ hội truyền thống được phục dựng gắn với phát triển du lịch; phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” phát triển cả về bề rộng và chiều sâu; các thiết chế văn hoá, thể thao, sinh hoạt cộng đồng được đầu tư và phát huy hiệu quả tích cực. Mức hưởng thụ văn hoá, tinh thần của nhân dân được cải thiện mạnh mẽ. Sự nghiệp thể dục - thể thao tiếp tục phát triển, có những tiến bộ mới; cuộc vận động “toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” phát triển sâu rộng ở mọi địa bàn và đạt kết quả tốt. Đặc biệt, năm 2015, Trung ương Đảng, Chính phủ nhất trí cho Sơn La xây dựng Tượng đài Bác Hồ với nhân dân các dân tộc Tây Bắc gắn với Quảng trường Tây Bắc tại thành phố Sơn La và Quyết định công nhận khu di tích Nhà tù Sơn La là di tích cấp quốc gia đặc biệt. Đây là những sự kiện chính trị, văn hóa, lịch sử quan trọng có tác động tích cực đến tư tưởng và đời sống tinh thần của nhân dân.

Hiệu quả hoạt động khoa học - công nghệ được nâng cao, cơ chế quản lý được đổi mới. Tăng cường ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học vào quản lý, giảng dạy, khám chữa bệnh và sản xuất, ứng dụng công nghệ mới, vật liệu mới, tiết kiệm tài nguyên, góp phần tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp, chế biến và bảo quản hàng hóa nông sản. Triển khai thực hiện đề án hỗ trợ xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm chính của tỉnh.

Chính sách xã hội thực hiện tốt, cơ bản đảm bảo an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân; đời sống các đối tượng chính sách được cải thiện và nâng lên đáng kể. Năm 2015, thu nhập bình quân đầu người đạt 26,4 triệu đồng. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 22% năm 2015. Trong đó 5 huyện nghèo giảm từ 49,6% năm 2010 xuống khoảng 25% năm 2015; hỗ trợ xoá được 15.270 nhà ở tạm (bình quân 5.090 hộ/năm). Thực hiện có hiệu quả việc hỗ trợ xây nhà ở cho người có công với cách mạng.

Chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước thực hiện tốt. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các dân tộc được nâng lên. Công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách về tôn giáo phát huy hiệu quả. Giáo Hội phật giáo Việt Nam tỉnh được thành lập, đi vào hoạt động, đang xúc tiến xây dựng Trung tâm hành chính - văn hoá Phật giáo tỉnh; chấp thuận việc đăng ký thí điểm sinh hoạt tôn giáo theo điểm nhóm đối với đạo Tin Lành tại 04 huyện, từng bước hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp luật.

Quốc phòng được đảm bảo; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; quan hệ hợp tác với các tỉnh Bắc Lào, các tổ chức quốc tế được mở rộng, góp phần quan trọng vào ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội.

Quốc phòng được đảm bảo, không để xảy ra sự việc bất ngờ; nền quốc phòng toàn dân, biên phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân được tăng cường; tiềm lực quốc phòng được nâng lên, xây dựng khu vực phòng thủ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Khả năng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ địa bàn được tăng cường; giải quyết kịp thời, có hiệu quả an ninh biên giới. Công tác xây dựng lực lượng vũ trang được tăng cường và củng cố. Nguyên tắc kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh chặt chẽ, tạo sức mạnh tổng hợp đáp ứng yêu cầu xây dựng đi đôi với bảo vệ địa bàn.

An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Thực hiện có hiệu quả chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới; chủ động phòng ngừa, đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; công tác bảo vệ chính trị nội bộ được đảm bảo, góp phần quan trọng tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.

Hợp tác quốc tế được duy trì và mở rộng, kinh tế đối ngoại và chủ động tìm kiếm, nghiên cứu học tập, kêu gọi các đối tác đầu tư, chuyển giao công nghệ, hợp tác sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh được chú trọng, đối ngoại nhân dân được phát huy và mang lại hiệu quả tích cực. Quan hệ hữu nghị đặc biệt và hợp tác toàn diện với các tỉnh Bắc Lào, nhất là giữa Sơn La với tỉnh Hủa Phăn và Luông Pha Băng được duy trì và phát huy hiệu quả, góp phần xây dựng tuyến biên giới Việt Nam - Lào hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển toàn diện.



Xây dựng Đảng đạt nhiều kết quả tích cực; bộ máy chính quyền các cấp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động được nâng lên, pháp chế xã hội chủ nghĩa được tăng cường; phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; khối đoàn kết các dân tộc được củng cố vững chắc.

Đảng bộ tỉnh Sơn La (thời điểm 30/6/2015) có 998 tổ chức cơ sở đảng, 4.719 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở với tổng số 71.533 đảng viên. Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng được coi trọng và tăng cường, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Công tác tổ chức và cán bộ, chất lượng đội ngũ cán bộ có bước chuyển biến tích cực. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng được tăng cường, có hiệu lực, hiệu quả hơn. Phương thức lãnh đạo của cấp ủy các cấp có bước chuyển biến tích cực cả về lề lối và tác phong công tác.

Bộ máy chính quyền các cấp tiếp tục được kiện toàn, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp được nâng lên; phương thức hoạt động có sự đổi mới tích cực. Công tác chỉ đạo, điều hành của Uỷ ban nhân dân các cấp có chuyển biến; trong ngành công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ bức thiết, tồn đọng kéo dài. Phân định ngày càng rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp, các đơn vị; phân cấp mạnh theo hướng tăng nhiệm vụ, quyền hạn đi đôi với trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các đoàn thể chính trị - xã hội là nòng cốt trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực tham gia xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ trực tiếp, đồng thời góp ý kiến xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền ở địa phương.

Thành tựu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ quốc phòng, giữ gìn an ninh, xây dựng hệ thống chính trị đạt được trong 40 năm (1975 - 2015), nhất là trong 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới rất to lớn. Giành được những kết quả vẻ vang đó là sức mạnh tổng hợp, công lao, ý chí phấn đấu bền bỉ của nhân dân các dân tộc, của mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ lực lượng vũ trang, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ.

III- PHÁT HUY THÀNH QUẢ 120 NĂM, SỚM XÂY DỰNG SƠN LA TRỞ THÀNH TỈNH PHÁT TRIỂN KHÁ TRONG VÙNG TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC

1. Trải qua chặng đường 120 năm (1895 - 2015), đặc biệt từ khi có Đảng lãnh đạo, Đảng bộ, nhân dân các dân tộc đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, hy sinh, góp phần cùng đất nước và dân tộc lập nên những thắng lợi vẻ vang, giành và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước ngày càng "Đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".

Những thành quả của 120 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển, nhất là những kết quả to lớn đạt được trong 30 năm đổi mới là hành trang cho Đảng bộ, nhân dân các dân tộc vững bước tiến lên, đưa Sơn La trở thành một tỉnh phát triển toàn diện, cùng cả nước thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giầu, nước mạnh, dân chủ, văn minh.



2. Thực tiễn lịch sử 120 năm xây dựng và phát triển đã để lại những kinh nghiệm quý báu:

- Quán triệt sâu sắc đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, xây dựng tỉnh Sơn La đổi mới và phát triển toàn diện.

Ngược dòng lịch sử, chúng ta thấy, ngay sau khi thực dân Pháp đặt chân lên miền Bắc, vùng Tây Bắc, nhân dân các dân tộc Sơn La - Tây Bắc đã liên tiếp nổi dậy đấu tranh chống xâm lược, chống ách thống trị, bóc lột của thực dân và tay sai với ý chí quật cường, không cam chịu làm nô lệ. Từ khi Chi bộ nhà tù Sơn La ra đời, ánh sáng cách mạng của Đảng đã tỏa sáng, soi đường, dẫn dắt nhân dân các dân tộc vùng lên tổng khởi nghĩa, cùng cả dân tộc làm nên thắng lợi vĩ đại Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nhân dân từ thân phận nô lệ trở thành người chủ đất nước, bản mường, làm chủ xã hội.

Tinh thần quyết tâm giữ vững nền độc lập dân tộc, thành quả cách mạng tiếp tục được phát huy cao độ trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Hàng vạn con em các dân tộc hòa cùng dân công hỏa tuyến nối tiếp nhau, vận chuyển hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm được ra chiến trường, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thành tựu to lớn trong 30 năm thực hiện đường lối đổi mới ở Sơn La là minh chứng sinh động, khẳng định, chỉ có đi theo con đường độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn là con đường duy nhất đúng đắn để nhân dân các dân tộc vững bước trên con đường đổi mới đi tới phồn vinh, hạnh phúc, phát triển tiến bộ.



- Phát huy cao nhất sức mạnh đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường của toàn dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, vươn lên thoát khỏi đói nghèo.

Quá trình đấu tranh cách mạng và thực tiễn lịch sử đã vun đắp nên truyền thống đoàn kết các dân tộc. Chính nhờ sức mạnh đoàn kết, tự lực, tự cường, chủ động và sáng tạo, nhân dân các dân tộc đã đã viết nên những trang sử hào hùng, vượt qua sự khủng bố ác liệt và kéo dài của thực dân Pháp, phát xít Nhật, vượt qua cuộc kháng chiến chống chiến tranh phá hoại có tính hủy diệt của đế quốc Mỹ, cùng cả dân tộc Việt Nam bảo vệ vững chắc nền độc lập, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội, làm nên thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong 30 năm đổi mới



- Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu lực quản lý điều hành của chính quyền và hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể nhân dân.

Sự phát triển của tỉnh Sơn La hơn một thế kỷ gắn liền với lịch sử ra đời và phát triển lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Kinh nghiệm thành công qua các thời kỳ cách mạng cho thấy, nhờ chú trọng công tác xây dựng Đảng mà trong các bước chuyển giai đoạn, những biến cố thăng trầm của đất nước và địa phương, Sơn La luôn vững vàng, kiên định đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ đã chọn. Vì vậy, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải luôn được coi trọng, là nhiệm vụ then chốt, bảo đảm cho mọi thành công của sự nghiệp cách mạng.

Thực tiễn cho thấy, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng gắn liền với xây dựng, củng cố và tăng cường hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp, hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã phát huy truyền thống yêu nước, đại đoàn kết toàn dân trong quá trình đấu tranh xây dựng và phát triển. Trong bối cảnh tình hình mới, nhiệm vụ xây dựng, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cấp chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể nhân dân đòi hỏi Đảng bộ tỉnh càng cần tăng cường lãnh đạo, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động sát hợp với nhu cầu, lợi ích của đoàn viên, hội viên, trên cơ sở đó tập hợp rộng rãi và nâng cao tính tự giác của đoàn viên, hội viên; xây dựng tổ chức bộ máy vững mạnh; tổ chức triển khai hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước.

- Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, đảm bảo quốc phòng, an ninh, thực hiện tốt công tác đối ngoại.

Là tỉnh miền núi, biên giới có vị trí chiến lược quan trọng của vùng Tây Bắc, vì vậy Sơn La luôn chú trọng công tác an ninh chính trị, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, biên phòng toàn dân gắn kinh tế với quốc phòng. Mặc dù âm mưu và thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch diễn biến phức tạp ở mỗi giai đoạn lịch sử, nhưng nhờ thực hiện tốt yêu cầu xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, huyện, gắn kinh tế với quốc phòng và thực hiện tốt chính sách đối ngoại của Đảng, Sơn La đã đấu tranh hiệu quả, làm thất bại chiến lược âm mưu "Diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.



3. Kế thừa thành tựu 120 năm, đặc biệt là thành tựu của 30 năm đổi mới, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và cách mạng, năng động và sáng tạo, tập trung thực hiện tốt những nhiệm vụ trọng tâm:

- Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

- Hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực thu hút đầu tư phát triển kinh tế, trọng tâm là xây dựng kết cấu hạ tầng; chú trọng hạ tầng các đô thị và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất, chế biến, tiêu thụ các sản phẩm nông lâm nghiệp.

- Đẩy mạnh cải cách hành chính, chỉ số cải cách hành chính của tỉnh từ năm 2016 nằm trong nhóm trung bình và đến năm 2020 nằm ở nhóm các tỉnh đạt kết quả khá trong vùng Trung du và miền núi phía Bắc.

- Đầu tư hạ tầng và củng cố hệ thống chính trị các xã, bản đặc biệt khó khăn.

- Đẩy mạnh phát triển kinh tế, trọng tâm là tạo sự đột phá trong kinh tế nông lâm nghiệp.

- Phát triển kinh tế du lịch, trọng tâm là hoàn thiện cơ chế để thu hút các nguồn lực đầu tư hoàn thành các tiêu chí chủ yếu Khu du lịch Quốc gia Mộc Châu, tạo điểm nhấn, động lực phát triển kinh tế du lịch toàn tỉnh, tiểu vùng Tây Bắc.

- Thu hút nguồn lực, tập trung đầu tư một số dự án trọng điểm là “Tượng đài Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Tây Bắc” tại Quảng trường Tây Bắc và Trung tâm hành chính của tỉnh tại thành phố Sơn La; Khu di tích lịch sử đặc biệt Việt Nam - Lào tại bản Lao Khô; Khu di tích quốc gia đặc biệt Nhà tù Sơn La; Khu trung tâm hành chính - văn hoá Phật giáo tỉnh.

- Đảm bảo quốc phòng, an ninh; tập trung thực hiện tốt công tác phòng chống và kiểm soát ma tuý.

Kỷ niệm 120 năm thành lập tỉnh Sơn La trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thi đua lập thành tích chào mừng đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Sơn La lần thứ XIV, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, chúng ta càng hiểu rõ hơn giá trị lịch sử 120 năm đấu tranh xây dựng và phát triển; nhận thức đầy đủ trách nhiệm của thế hệ hôm nay trong việc vận dụng và phát huy truyền thống vẻ vang 120 năm trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.



IV- KHẨU HIỆU TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 120 NĂM NGÀY THÀNH LẬP TỈNH SƠN LA (10/10/1895 -10/10/2015)

1. Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm !

2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm!

3. Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại !

4. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta !

5. Nhiệt liệt chào mừng Kỷ niệm 120 năm Ngày thành lập tỉnh Sơn La (10/10/1895 -10/10/2015) !

6. Nhiệt liệt chào mừng đại biểu về dự Lễ Kỷ niệm 120 năm Ngày thành lập tỉnh Sơn La (10/10/1895 -10/10/2015) !

7. Giữ gìn và phát huy giá trị di tích Quốc gia đặc biệt Nhà tù Sơn La!

8. Sơn La 120 năm xây dựng, phát triển và hội nhập !

9. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Sơn La thi đua lập thành tích chào mừng kỷ niệm 120 năm Ngày thành lập tỉnh Sơn La (10/10/1895 -10/10/2015) !

10. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ra sức thi đua, quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo !

11. Nhân dân các dân tộc Sơn La đoàn kết, xây dựng quê hương phát triển, văn minh giàu đẹp !

12. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Sơn La quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2015 - 2020!

13. Tất cả vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh!

14. Nhà tù Sơn La - di tích Quốc gia đặc biệt !

15. Đảng bộ và nhân dân tỉnh Sơn La quyết tâm gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị di tích Quốc gia đặc biệt Nhà tù Sơn La !




1 Số liệu thống kê Việt Nam thế kỷ XX, NXB thống kê, HN 2004, mục (dân số phân theo địa phương).

1 Lúc này gọi là tỉnh Vạn Bú.

2 Huyện Phù Yên chuyển về tỉnh Nghĩa Lộ.

3 Huyện Bắc Yên thành lập năm 1964, trên cơ sở tách ra từ huyện Phù Yên.

1 Đội xung phong Lào Bắc được thành lập ngày 20/02/1948, do đồng chí Caysỏn Phômvihản làm đội trưởng.

1 Biên niên sự kiện Lịch sử Đảng bộ tỉnh Sơn La tập I (1939 - 1954); in tại công ty TNHH Tùng Long; SL 2014; tr 232.

1 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; t 9; tr 435.



tải về 151.59 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương