Đã 44 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người cha già của dân tộc, lãnh tụ cách mạng vĩ đại của nhân dân Việt Nam, nhà văn hóa lỗi lạc của nhân loại vĩnh biệt chúng ta



tải về 81.16 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích81.16 Kb.
#35434

Đã 44 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người cha già của dân tộc, lãnh tụ cách mạng vĩ đại của nhân dân Việt Nam, nhà văn hóa lỗi lạc của nhân loại vĩnh biệt chúng ta. Nhưng sự nghiệp cách mạng của Người, trí tuệ và đạo đức của Người, tình cảm mênh mông và tấm gương vĩ đại của Người vẫn còn mãi mãi với chúng ta. Bác Hồ vẫn còn đó cùng với chúng ta, với cả dân tộc đang vững bước trên con đường đổi mới.






Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập

Hiếm thấy trong lịch sử có con người nào mà tên tuổi và sự nghiệp lại gắn bó với vận mệnh của cả một dân tộc, một đất nước như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có thể tìm thấy hình ảnh Người trong từng hơi thở của mỗi người dân và cũng có thể tìm thấy số phận mỗi người dân trong từng ý nghĩa của Người. “Bác Hồ” đó là tên gọi triều mến nhất, thiêng liêng nhất mà cả dân tộc đã dành để gọi vị lãnh tụ kính yêu của mình. Bác giản dị và gần gũi, không có khoảng cách nào giữa một người dân bình thường với vị lãnh tụ lại thân thương như vậy. Sinh thời, Bác đã trở thành một lẽ sống không thể thiếu được trong đời sống chính trị và tinh thần của đất nước. Người là một cá nhân, nhưng Người cũng là tất cả.

Đã có biết bao nhiêu anh hùng liệt sĩ, cán bộ, đảng viên và người dân trong đấu tranh cách mạng trước giờ phút hy sinh đã hô lớn “Hồ Chủ tịch muôn năm!”, “Bác Hồ muôn năm”. Lời hô kính yêu và tha thiết ấy trên chiến trường, ở Pháp trường như một lời thề đầy khí phách “tận trung với nước, tận hiếu với dân”. Đó cũng là niềm tin tưởng thắng lợi của cách mạng, lời cầu chúc sức khỏe của Bác lại nằm ngoài ý muốn của toàn Đảng, toàn dân ta. Vào những năm thập sáu mươi của thế kỷ XX, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đang ở vào giai đoạn quyết liệt nhất, nữa triệu quân Mỹ đã đổ bộ ồ ạt vào miền Nam, tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ tàn khóc nhất trong lịch sử dân tộc, tin tức về những người dân vô tội bị giết hại, những làng mạc trù phú ở miền Nam bị bom đạn tàn phá trở thành nỗi đau nhứt nhối thường xuyên của Bác. Cùng với tuổi tác, sức khỏe của Bác cứ mỗi ngày một suy giảm. Đã có một câu chuyện kể lại rằng, thấy Bác suy giảm sức khỏe vì hút thuốc lá nhiều, các bác sỹ đề nghị Bác không được hút thuốc lá nữa, Bác chấp hành. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, các bác sĩ lại phải để Bác hút thuốc trở lại vì bỏ thuốc, sức khỏe của Bác có phần sa sút hơn. Điếu thuốc là người bạn duy nhất của Bác trong những giờ phút riêng tư. Khi mọi người sau một ngày làm việc trở về với cuộc sống gia đình êm ấm của mình, với Bác điếu  thuốc cũng là niềm an ủi của mình.

Năm 1962, khi phái đoàn đầu tiên của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra thăm miền Bắc, trước khi trở về, thay mặt cho 14 triệu đồng bào miền Nam lúc đó, đoàn chỉ có một yêu cầu với Trung ương Đảng và nhân dân miền Bắc: “Phải cố gắng chăm sóc giữ gìn sức khỏe của Bác cho thật tốt, để đồng bào miền Nam có thể được gặp Người khi nước nhà hoàn toàn giải phóng”.

Giữa năm 1966, sau một chuyến đi địa phương trở về, Bác bị rối loạn tuần hoàn não, liệt nhẹ nữa người bên trái. Sang năm 1967, mắt trái của Người bị mờ, tay trái nắm không thật vững, tiếng nói yếu, giọng hơi bị khản. Bộ Chính trị rất lo lắng về sức khỏe của Bác.

Tháng 5-1967, sau lễ mừng thọ nhân ngày sinh thứ 77 của Bác, Bộ Chính trị đã triệu tập một cuộc họp bất thường để bàn việc bảo vệ sức khỏe của Bác và chuẩn bị giữ thi hài của Người lâu dài sau khi Bác qua đời. Cuộc họp do đồng chí Lê Duẩn chủ trì. Hội nghị đã xác định phải đảm bảo hai yêu cầu: phải tuyệt đối giữ bí mật, nếu không nhân dân sẽ hoang mang lo lắng và Bác sẽ phê bình Bộ Chính trị và không cho phép thực hiện; phải chọn một số cán bộ y tế giỏi gửi sang Liên Xô học tập về khoa học gìn giữ thi hài. Nhân sự cụ thể giao cho Ban Tổ chức Trung ương lựa chọn.

Hội nghị cũng nhất trí giao nhiệm vụ đặc biệt cho Quân ủy Trung ương vì quân đội sẵn có truyền thống nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ khó khăn phức tạp. Mặt khác, Bộ Chính trị cũng chỉ định đồng chí Nguyễn Lương Bằng thay mặt Trung ương Đảng trực tiếp theo dõi và chăm sóc sức khỏe của Bác.

Vốn là một người sống giản dị, Bác luôn lo lắng đến vận mệnh của dân tộc. Bác thường kêu gọi toàn Đảng, toàn dân ta thực hiện tiết kiệm. Bởi vậy, Bác chỉ có một nguyện vọng là sau khi Bác mất, hỏa táng thi hài, lấy tro đựng vào ba chiếc bình, đặt trên ba ngọn đồi thấp ở miền Bắc, Trung, Nam để đồng bào cả nước có thể đến với Bác và để Bác mãi mãi được gần gũi với dân. Bác còn dặn thêm rằng, trên mỗi ngọn đồi phải trồng thật nhiều cây có bóng mát và làm nhà để nhân dân có thể ngồi nghỉ khi lên viếng Bác.

Nhưng việc gìn giữ thi hài của Bác cho đời đời con cháu mai sau được chiêm ngưỡng lại là nguyện vọng thiêng liêng của toàn Đảng, toàn dân ta. Đó sẽ là phần thưởng vô giá mà Đảng ta dành lại cho các thế hệ tương lai của đất nước.

Để công việc triển khai sớm, Bộ Chính trị quyết định cử đồng chí Lê Thanh Nghị thay mặt Đảng và Chính phủ sang Liên Xô hội đàm đề nghị giúp đỡ, từ công tác đào tạo cán bộ đến việc giữ gìn thi hài Bác. Chuyến đi của đồng chí phải giấu kín không để Bác biết. Xuất phát từ lòng kính trọng và nhận rõ vị trí lớn lao của Bác đối với phong trào giải phóng dân tộc và phong trào cộng sản quốc tế, Đảng và Chính phủ Liên Xô khẳng định ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam tận tình về giữ gìn thi hài của Chủ tịch Hồ Chí Minh và xây dựng lăng của Người.

Chuyến đi đã đem lại một thành công lớn. Nhưng cũng bắt đầu từ đó, trong lòng mỗi người biết tường tận về sức khỏe của Bác, bắt đầu xuất hiện một khoảng trống, một khoảng trống còn mơ hồ nhưng không thể bù đắp được. Đó là sự thiếu vắng Bác trong tương lai mà mỗi người dân, mỗi người lính sẽ phải gánh chịu. Không ai muốn điều đó, nhưng lại không thể nghĩ đến nó.

Bởi trong cuộc đời của Bác có nhiều nỗi đau, nhưng nỗi đau lớn nhất là nỗi đau miền Nam chưa được giải phóng. Ngày 14-7-1969 khi tiếp nữ nhà báo Cu-ba Mác-ta Rô-hát, Bác đã đặt một bàn tay lên ngực mình nói rằng: nhân dân miền Nam, “mỗi nhà, mỗi người đều có một nỗi đau đó lại thì đấy là nỗi đau của tôi”. Ngày 17-7-1966, Người đã tuyên bố một chân lý bất hủ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Chân lý đó cho đến nay vẫn vang lên khắp hành tinh, trở thành lẽ sống, thành ngọn đuốc soi đường cho nhiều dân tộc chưa được độc lập, tự do thật sự. Miền Nam luôn ở trong trái tim Bác và Bác cũng luôn có trong trái tim của mỗi người dân miền Nam.

 Trong những tháng năm khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Bác thường xuyên gọi điện hỏi Đại tướng Võ Nguyên Giáp về tình hình chiến sự ở miền Nam. Được vào miền Nam là nguyện vọng da diết trong những năm cuối đời của Bác. Nhiều lần, Bác đề nghị Bộ Chính trị bố trí để Bác được vào thăm đồng bào miền Nam theo đường mòn Trường sơn, hoặc đường hàng không Hà nội-Phôm-pênh. Nhưng thấy sức khỏe của Bác không bảo đảm cho chuyến đi, nên Bộ Chính trị đã tìm mọi cách trì hoãn, vì trước đây sau chuyến đi thăm đồng bào Thái Bình trở về, Bác đã bị bệnh co thắt động mạch não. Mùa xuân năm 1968, theo lời mời của Đảng và Nhà nước Trung Quốc, Bác sang Bắc Kinh nghỉ ngơi và chữa bệnh. Đồng chí Lê Đức Thọ trước khi vào miền Nam công tác đã sang Bắc Kinh chào Bác. Khi nghe đồng chí Lê Đức thọ báo cáo chuyến đi sắp tới, Bác lại tha thiết đề nghị Bộ Chính trị bố trí Bác đi vào miền Nam. Bác bảo: “Chú vào trong đó bàn với chú Hùng (Phạm Hùng) bố trí để Bác vào thăm đồng bào miền Nam”. Đồng chí Lê Đức Thọ khéo léo từ chối, nói rằng: “Bác chỉ có thể đi đường hàng không qua Phnôm-pêng, muốn vậy phải làm hộ chiếu và người ta dễ nhận ra Bác vì Bác có râu. Bác bảo: thì Bác cạo râu đi. Nhưng cạo râu thì đồng bào miền Nam không còn nhận ra Bác nữa - đồng chi Lê Đức Thọ trả lời. Bác ngồi yên và rất buồn. Lát sau, Bác lại bào cho Bác đi đường biển. Hồi đó, tàu chở vũ khí tiếp tế cho chiến trường miền Nam vẫn cập cảng Xi-ha-núc-vin, Bác sẽ cải trang làm một thủy thủ hoặc được giấu dưới hầm tàu…Phương án đã được Bác vạch rất tỉ mỉ. Nhưng cũng không như những lần trước, đồng chí Lê Đức Thọ khéo léo trì hoãn, và hứa: tình hình còn rất khó khăn, Bộ Chính trị sẽ cố gắng thu xếp để đồng bào miền Nam có thể  sớm gặp được Bác. Lúc chia tay, Bác đã ôm chặt đồng chí Lê Đức Thọ mà khóc”.

Mùng một Tết nguyên đán năm 1969, Bác đến thăm Quân chủng Phòng không – không quân, sau đó đi theo quốc lộ 11 lên chức tết đồng bào huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây. Đây là chuyến đi xa cuối cùng của Bác. Buổi trưa, ngồi nghỉ ngay bãi cỏ trên đồi cây, Bác cười quay sang đồng chí Hoàng Hữu Kháng, Cục trưởng Cục Cảnh vệ nói vui: “Nhân dân mình chăm chỉ thật , mồng một Tết vẫn đi làm”. Quay sang phía đồng chí Bí thư Đảng ủy xã Bác hỏi: “Hợp tác xã có liên hoan chè chén không?” Nghe đồng chí Bí thư Đảng ủy xã báo cáo là nạn liên hoan chè chén đã được khắc phục, Người rất vui và khen: “Các cháu làm thế là đúng, là biết giữ gìn của cải cho xã viên”.

Sau chuyến đi đó trở về, các bác sỹ kiểm tra điện tim, thấy sóng tim của Bác bị đảo ngược. Trước những dấu hiệu không lành ấy, Bộ Chính trị quyết định mời các giáo sư và Bác sĩ Trung Quốc sang điều trị cho Bác. Tháng 5 năm 1969, Bác sửa chữa lần cuối cùng bản Di chúc nổi tiếng. Bản Di chúc này, Bác bắt đầu viết từ mùa hè năm 1965, Bác thường gọi là “tài liệu tuyệt đối bí mất”. Bác không muốn cho mọi người biết Bác đang làm cái công việc cuối cùng của một đời người. Đồng chí Vũ Kỳ, thư ký của Bác kể lại rằng, Bác thường viết vào những giờ nhất định trong ngày. Có lần đồng chí Trường Chinh gọi điện xin phép làm việc với Bác đúng vào giờ Bác đang viết bản Di chúc, biết Bác không thể tiếp khách vào giờ đó, đồng chí Vũ Kỳ đã khéo léo bố trí để đồng chí Trường Chinh đến ăn cơm trưa với Bác, vừa ăn vừa làm việc. Cũng trong tháng 5 rất đáng nhớ này, cán bộ cao cấp toàn quân đến thăm và mừng thọ Bác 79 tuổi. Đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng cùng dự. Đồng chí Võ Nguyên Giáp thay mặt tất cả anh em chúc Bác mạnh khỏe, sống lâu và hứa quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ để đón Bác vào thăm miền Nam. Đồng chí Vương Thừa Vũ thay mặt anh em ôm bó hoa lên mừng thọ Bác. Bác vô cùng cảm động nhận hoa và cảm ơn các chú ở quân đội luôn quan tâm tới sức khỏe Bác.

Chiều ngày 12-8, Bác lên nhà nghỉ Hồ Tây thăm phái đoàn ta từ Hội nghị Pa-ri mới về đang nghỉ tại đó. Ngày hôm sau Bác bị nhiễm phế quản, húng hắng ho, khi kiểm tra thấy bạch cầu tăng. Ngày 23 các bác sỹ phải dùng Pê-ni-xi-lin tiêm cho Bác. Tối hôm ấy khoảng 9 giờ, Bác thấy đau trong lồng ngực. Các bác sỹ đình chỉ tiêm và làm điện tim ngay, thấy rõ rệt có phản ứng nhồi máu cơ tiêm, các bác sỹ tiêm thuốc cho Bác. Ngày 28-8, tim Bác bắt đầu loạn nhịp. Trong những ngày đêm căng thẳng ấy, các đồng chí trong Bộ Chính trị túc trực bên Bác. Chiều 30-8, Bác hỏi đồng chí Phạm Văn Đồng: “các chú nhớ phải bắn pháo hoa để mừng chiến thắng”. Ngày 31, các đồng chí phục vụ nấu cho Bác một cháo thật ngon, Bác ăn được một ít, ai cũng mừng. Nhưng tối hôm đó, lễ kỷ niệm Quốc khánh ở Hội trường Ba Đình diễn ra trong không khí đầy lo âu trên nét mặt các đồng chí trong Bộ Chính trị. Nghe tin bộ đội tên lửa Hà Nội bắn rơi máy bay không người lái của Mỹ ngày 30-8, nên hôm đó (ngày 31-8) Bác bảo Văn phòng gởi tặng lẵng hoa, đó là lẵng hoa cuối cùng của Bác mà các chiến sỹ tên lửa sư đoàn 361 được đón nhận.

Chín giờ 47 phút ngày 2-9 trái tim Bác ngừng đập. Cho đến những giây phút cuối cùng ấy, đồng bào miền Nam và Tổ quốc Việt Nam thiêng liêng vẫn mãi mãi còn lại trong trái tim của Người.

Mồng 2 tháng 9, ngày Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa hai mươi bốn năm trước đây, nay cũng vào ngày giờ này Bác kính yêu vĩnh biệt chúng ta!.

Đây là một sự trùng hợp thật kỳ lạ, không sao giải thích được. Lịch sử sẽ mãi mãi ghi nhớ buổi sáng ngày 2-9-1969, ngày dân tộc và đất nước Việt Nam từ giã một con người vĩ đại nhất. Người con mà ngay cả lúc sinh thời đã đi vào truyền thuyết, huyền thoại. Có lẽ, trong thời đại mới của chúng ta, sau cái mất của Lê-nin, chưa có sự ra đi nào lại gây chấn động lớn đối với loài người tiến bộ như sự ra đi của Bác. Khi đài phát thanh vừa đưa tin, đất trời như ngưng lại trong mỗi nỗi đau khôn xiết và cái cảm giác trống vắng như bao phủ lên non sông đất nước.

Năm ấy, trong những ngày lễ tang Bác, trời đổ mưa tầm tã. Vòm trời Ba Đình như trĩu nặng một nỗi buồn. Thiên nhiên cũng đau nỗi đau của con người. Những giọt nước mắt hòa lẫn với nước mưa “Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa” chảy mãi như không bao giờ hết trong niềm tiếc thương vô hạn của nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế dành cho Bác.

Ngày 29-8-1975, lễ khánh thành Lăng Bác được tổ chức trọng thể tại Hội trường Ba Đình. Từ ấy đến nay đã có trên hàng triệu người từ mọi miền đất nước và khách quốc tế vào Lăng viếng Bác.

Mỗi lần đến với Bác, mỗi người đều cảm thấy Bác vẫn còn đó cùng với chúng ta, với cả dân tộc đang vững bước trên con đường đổi mới.

                                                                                                                                                                                                                                        ĐINH TRANG



     (sưu tầm)


tải về 81.16 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương