Ủy ban nhân dân tỉnh hải dưƠng o0o quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh hải dưƠng giai đOẠN 2011- 2020


PHẦN THỨ NHẤT THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC CỦA TỈNH HẢI DƯƠNG



tải về 0.6 Mb.
trang2/10
Chuyển đổi dữ liệu17.08.2016
Kích0.6 Mb.
#21577
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

PHẦN THỨ NHẤT
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC CỦA TỈNH HẢI DƯƠNG

I. DÂN SỐ VÀ LAO ĐỘNG

1. Dân số và cơ cấu dân cư


Tại thời điểm điều tra 1/4/2009, tổng số nhân khẩu toàn tỉnh Hải Dương là 1.705.059 người, chiếm 2% dân số cả nước. Trong đó nam chiếm 48,9%, nữ chiếm 51,1%, nhân khẩu thành thị chiếm 19,1%, nhân khẩu nông thôn chiếm 80,9%. Như vậy Hải Dương là tỉnh đông dân thứ 11/63 tỉnh thành trong cả nước và đứng thứ 5/11 tỉnh thành trong vùng đồng bằng Sông Hồng

Qua 2 lần tổng điều tra dân số (1999 - 2009), dân số Hải Dương tăng thêm 52.686 người, bình quân mỗi năm tăng 0,3%. Tỷ lệ này tăng thấp hơn so với cả nước và vùng đồng bằng Sông Hồng và giảm mạnh so với thời kỳ 10 năm trước. Năm 2010, dân số trung bình tỉnh Hải Dương là 1.712.841 người, trong đó dân số thành thị là 327.149 người, dân số nông thôn là 1.385.692 người, và dân số nam là 839.326 người, dân số nữ là 873.515 người. Tốc độ tăng dân số tự nhiên hàng năm đạt 0,31% giai đoạn 2001-2010.

Tính đến thời điểm cuối năm 2010, số người trong độ tuổi lao động của Hải Dương là 1.106.865 người. Số người trong độ tuổi lao động của Hải Dương bình quân hàng năm trong giai đoạn 2001-2005 tăng 2,4% và 2006 - 2010 tăng 1,1%.

Theo nhóm tuổi: Chia theo nhóm tuổi, lực lượng lao động ở nhóm tuổi 55-54 chiếm tỷ lệ cao nhất (24,88%); tiếp đến là nhóm tuổi 35-44 (24,61%); thấp nhất là nhóm tuổi 55 trở lên (14,17%); các nhóm tuổi khác, tỷ lệ ở mức trên dưới 15%.

Theo giới tính: Năm 2010, trên địa bàn toàn tỉnh, lực lượng lao động nữ chiếm 51%.

Theo khu vực: thì lao động ở thành thị chiếm 16% và lao động ở nông thồn chiếm 84%. Như vậy có thể thấy lao động ở nông thôn vẫn chiếm một tỷ trọng rất lớn. Điều này đặt ra vấn đề phải tạo việc làm cho lao động ở nông thôn. Như vậy thì vấn đề đào tạo lao động trở nên vô cùng quan trọng.

Nhìn chung, tỷ lệ lực lượng lao động ở nhóm tuổi trẻ (15-24 và 25-34) có xu hướng giảm và tỷ lệ lực lượng lao động ở các nhóm tuổi cao (45-54 và 55 tuổi trở lên) có xu hướng tăng. Tuy nhiên, cũng như các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, lực lượng lao động của tỉnh Hải Dương thuộc loại trẻ, số người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ cao trong tổng dân số lên tới 64,6%.



Biểu 1. Quy mô dân số và lực lượng lao động trên địa bàn tỉnh

(giai đoạn 2000-2010)

Đơn vị: người



TT

Chỉ tiêu

2001

2005

2010

Tốc độ tăng trung bình (%/năm)

2001-2005

2006-2010

1

Dân số trung bình

1.662.744

1.685.512

1.712.841

0,27

0,27

 

- Nam

802.543

821.687

839.326

0,47

0,35

 

- Nữ

860.201

863.825

873.515

0,08

0,19

 

- Thành thị

230.899

266.444

327.149

2,91

4,06

 

- Nông thôn

1.431.845

1.419.068

1.385.692

-0,18

-2,52

2

Dân số trong độ tuổi lao động

929.039

1.046.093

1.106.865

2,40

1,10

 

Tỷ lệ so với dân số (%)

55,87

62,06

64,62

2,12

3,39

3

Lực lượng lao động làm việc

916.033

942.186

971.600

0,56

0,60

-

Chia theo giới tính

 

 

 

 

 

+

Nam

430.536

460.164

473.169

1,34

0,31

+

Nữ

485.497

482.022

498.431

-0,14

0,43

-

Chia theo khu vực

 

 

 

 

 

+

Thành thị

140.935

151.692

154.485

1,48

0,12

+

Nông thôn

775.098

790.494

817.115

0,39

0,42

-

Tỷ lệ so với dân số (%)

55,09

55,90

56,72

0,29

0,05

Nguồn: Cục Thống kê Hải Dương

Chỉ tiêu kế hoạch mức độ tăng dân số tự nhiên giai đoạn 2011-2015 là dưới 0,9%/năm và giai đoạn 2016-2020 là dưới 0,8%/năm1. Trên thực tế, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của Hải Dương trong giai đoạn 10 năm tới có thể thấp hơn so với con số kế hoạch. Như vậy, nguồn nhân lực của Hải Dương chủ yếu biến động do tăng tự nhiên về dân số. Hải Dương hiện có cơ cấu dân số vàng, với tỷ lệ người trong độ tuổi lao động năm 2010 là 64,6%.


2. Hiện trạng nguồn nhân lực

2.1. Số lượng, cơ cấu tuổi và giới của nhân lực


Nhìn chung, tỷ lệ lực lượng lao động ở nhóm tuổi trẻ (15-24 và 25-34) có xu hướng giảm và tỷ lệ lực lượng lao động ở các nhóm tuổi cao (45-54 và 55 tuổi trở lên) có xu hướng tăng. Tuy nhiên, lực lượng lao động của tỉnh Hải Dương thuộc loại trẻ, tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ loại cao.
Biểu 2: Lao động phân theo nhóm tuổi

Nhóm tuổi

2006

2007

2008

2009

2010

Số lượng

(người)


Tỷ lệ

Số lượng

(người)


Tỷ lệ

Số lượng

(người)


Tỷ lệ

Số lượng

(người)


Tỷ lệ

Số lượng

Tỷ lệ

(%)

(%)

(%)

(%)

(%)

Tổng số

1.056.001

100

1.072.724

100

1.075.944

100

1.091.291

100

1.106.865

100

15-24

178.464

16.9

161.445

15.05

163.113

15.16

166.531

15.26

169.904

15.35

25-34

244.887

23.19

206.714

19.27

226.271

21.03

229.280

21.01

232.331

20.99

35-44

236.122

22.36

282.126

26.3

266.834

24.8

269.549

24.7

272.399

24.61

45-54

197.367

18.69

273.330

25.48

269.847

25.08

272.604

24.98

275.388

24.88

55 trở lên

199.162

18.86

149.109

13.9

149.879

13.93

153.326

14.05

156.843

14.17

Nguồn: Cục Thống Kê tỉnh Hải Dương và Báo cáo “Đánh giá tình hình phát triển kinh tế tỉnh Hải Dương giai đoạn 2006 – 2010; đề xuất mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp giai đoạn 2011 – 2015”

2.2. Trình độ học vấn của nhân lực


Tỷ lệ lao động qua đào tạo của Hải Dương tới năm 2010 đã đạt tới mức 40% lực lượng lao động, tuy nhiên lao động đào tạo ở trình độ từ trung cấp nghề trở lên vẫn còn khá thấp (16% lực lượng lao động).

Hải Dương đạt thành tích tốt về đào tạo phổ thông. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp năm học 2008 - 2009 hệ THPT đạt 91,6%, hệ bổ túc THPT đạt 86,6%; duy trì thành tích là 1 trong 5 tỉnh đứng đầu cả nước về số học sinh giỏi2. Chương trình phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi đã hoàn thành từ năm 2000 và đạt chuẩn phổ cập THCS từ năm 2001. Trong giai đoạn 2006 - 2010 chỉ tập trung nâng cao chất lượng giáo dục phổ cập và từng bước thực hiện phổ cập bậc trung học. Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 năm 2009 đạt 99,99%, ước năm 2010 vẫn đạt 99,99%; hiệu quả đào tạo đạt 98,2%. Học sinh hoàn thành chương trình tiểu học vào lớp 6 đạt tỷ lệ 100%. Học sinh tốt nghiệp THCS vào THPT và GDTX năm 2009 đạt 85,56%, ước năm 2010 đạt 86%. Tỷ lệ thanh thiếu niên từ 15 - 18 tuổi tốt nghiệp THCS năm 2009 đạt 95,15% và ước năm 2010 đạt 95,3%3.

Biểu 3: Hiện trạng lao động theo trình độ đào tạo của Hải Dương

Đơn vị: người




 

2000

2005

2009

2010

I.TỔNG SỐ

888.666

942.186

961.315

971.600

Phân theo trình độ đào tạo

 

 

 

 

1. Chưa qua đào tạo

688.716

668.952

596.015

582.960

2. Sơ cấp nghề

15.107

23.554

42.983

48.580

3. Công nhân kỹ thuật không bằng

133.299

164.882

179.614

184.604

4. Trung cấp nghề

17.773

25.439

46.237

48.580

5. Cao đẳng nghề

2.665

3.768

8.058

8.355

6. Trung cấp chuyên nghiệp

15.995

26.381

30.300

30.702

7. Cao đẳng

8.442

13.190

19.730

20.403

8. Đại học

9.330

18.843

37.233

38.864

9. Trên đại học

177

565

1.144

1.457

II. CƠ CẤU (%)

 

 

 

 

1. Chưa qua đào tạo

77,50

71,00

62,00

60,00

2. Sơ cấp nghề

1,70

2,50

4,47

5,00

3. Công nhân kỹ thuật không bằng

15,00

17,50

18,68

19,00

4. Trung cấp nghề

2,00

2,70

4,81

5,00

5. Cao đẳng nghề

0,30

0,40

0,84

0,86

6. Trung cấp chuyên nghiệp

1,80

2,80

3,15

3,16

7. Cao đẳng

0,95

1,40

2,05

2,10

8. Đại học

1,05

2,00

3,87

4,00

9. Trên đại học

0,02

0,06

0,12

0,15

Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Hải Dương và ước tính của Quy hoạch

Cơ sở vật chất cho giáo dục được đầu tư nâng cấp, tỷ lệ phòng học kiên cố cao tầng đạt 74,2%. Hoàn thành đưa vào sử dụng 167/780 phòng học mới từ nguồn trái phiếu Chính phủ. Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia được chú trọng, đã có 308 trường đạt chuẩn, gấp 2 lần năm 2005. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên được nâng lên, tỷ lệ đạt chuẩn và trên chuẩn tăng nhanh. Cơ sở vật chất tiếp tục được bổ sung, nâng cấp và xây dựng mới. Tỷ lệ phòng học kiên cố bình quân các cấp học đạt 81,3%. Công tác xã hội hoá giáo dục, khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập được đông đảo các cơ quan, đơn vị và nhân dân tích cực hưởng ứng. Tỷ lệ học sinh khá, giỏi bậc tiểu học 81,1%, bậc THCS 55,5% , bậc THPT 45% 4.

Nhìn chung, trình độ học vấn phổ thông của lực lượng lao động tỉnh Hải Dương cao hơn mức trung bình của cả nước và tương đương với mức trung bình cao của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.

2.3. Các nhóm lao động trọng điểm và trình độ chuyên môn - kỹ thuật


Lao động có việc làm và đang làm việc ở các ngành trong nền kinh tế quốc dân tăng khá, song cơ cấu còn bất hợp lý. Số lao động làm việc tại các ngành công nghiệp, dịch vụ chiếm tỷ lệ thấp, trong khi lao động thuộc khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm tỷ trọng lớn. Khả năng thu hút lao động nông nghiệp sang các ngành nghề phi nông nghiệp còn nhiều khó khăn và hạn chế. Lao động có tay nghề, có kỹ năng, được đào tạo trong các lĩnh vực còn thấp cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là khu vực nông thôn, khiến người lao động không hoặc khó có cơ hội chuyển nghề, tìm việc làm mới và phải chấp nhận những công việc giản đơn, cha truyền con nối, dựa hẳn vào đồng ruộng. Mặt khác, trong tiến trình công nghiệp hóa-hiện đại hoá, nhu cầu nâng cao năng suất lao động dẫn đến việc đào thải lực lượng lao động không có kỹ năng và chất lượng thấp, tạo ra thất nghiệp, trong khi khả năng đào tạo và bổ túc kỹ năng cho hàng loạt lao động hiện tại đang gặp nhiều khó khăn.

Tính chung cả tỉnh Hải Dương, tỷ lệ qua đào tạo nói chung của lực lượng lao động đã tăng từ 26,6% năm 2005 lên 40% năm 2010, trong đó: tỷ lệ đã qua đào tạo nghề tăng từ 30,9% lên 37,3%, tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và trên đại học tăng từ 0,9% lên 2,1%. Bình quân hàng năm tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng 3%/năm. Tỷ lệ đã qua đào tạo nói chung của lực lượng lao động tỉnh Hải Dương cao hơn so với mức bình quân chung của cả nước. Nhóm lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ đại học trở lên chiếm 3,37% năm 2008 và ngày càng có xu hướng tăng.

Cơ cấu trình độ chuyên môn của nhân lực còn nhiều bất cập. Tỷ lệ lao động có trình độ cao đẳng, đại học – lao động có trình độ trung cấp, chuyên nghiệp – lao động có trình độ sơ cấp, công nhân kỹ thuật của Hải Dương năm 2010 là 1: 1,1 : 3,5. Trong khi đó, một số nghiên cứu cho rằng tỷ lệ tối ưu nên ở mức 1 - 4 - 10.

2.3.1. Nhóm cán bộ - công chức - viên chức


Tính đến năm 2010, toàn tỉnh Hải Dương có trên 31 nghìn cán bộ, công chức, viên chức.

Trong đó, số cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước là 1.994 người, bao gồm 7 tiến sỹ (năm 2005 có 6 tiến sỹ), 129 thạc sỹ (năm 2005 có 67 thạc sỹ), 768 đại học (năm 2005 có 642 đại học), 5 cao đẳng (năm 2005 có 5 người). Có 260 người có trình độ cao cấp lý luận chính trị trở lên, 472 trung cấp chính trị.

Số lãnh đạo cấp tỉnh, Sở, huyện là 317 người, với cơ cấu trình độ là 6 tiến sỹ (năm 2005 có 5 tiến sỹ), 57 thạc sỹ (năm 2005 có 32 thạc sỹ) và 254 đại học (năm 2005 có 235 đại học). Số cán bộ cấp tỉnh có trình độ chuyên môn trên đại học chiếm 15,7%; đại học là 82,8%; cao đẳng, trung cấp là 1,4%; trình độ lý luận chính trị cao cấp, cử nhân chiếm 54,0%, trung cấp là 44,9%. Cán bộ cấp huyện có trình độ chuyên môn trên đại học là 16,3%; đại học chiếm 73,1%; cao đẳng, trung cấp chiếm 10,6%. Trình độ lý luận chính trị cao cấp, cử nhân chiếm 55,7%; trung cấp chiếm 36,8%.

Số cán bộ, công chức cấp xã là 4.766 người, bao gồm 550 người có trình độ đại học, 339 người có trình độ cao đẳng, 2.501 trung cấp và trình độ khác là 1.376 người. Có 32 người trình độ cao cấp lý luận chính trị trở lên, 650 trung cấp chính trị và 524 sơ cấp. Cán bộ cấp xã có trình độ chuyên môn trên đại học chiếm 0,1%; đại học chiếm 22,7%; cao đẳng, trung cấp chiếm 76,6%. Trình độ lý luận chính trị cao cấp, cử nhân chiếm 1,1%; trung cấp chiếm 92,5%.

Năm 2010, tổng số viên chức của tỉnh Hải Dương là khoảng 30.000 người, trong đó số viên chức ngành đào tạo tạo là 24.066 người, y tế là 4.856 người, và số còn lại là thuộc các ngành văn hóa - thể dục - thể thao. Về trình độ chuyên môn, lực lượng viên chức có 16 tiến sỹ, 548 thạc sỹ, 9.917 đại học.

Hải Dương luôn coi trọng việc gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chủ động xây dựng kế hoạch, đồng thời có những giải pháp cụ thể đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Để phục vụ tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nâng cao chất lượng đào tạo, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và các địa phương, đơn vị đã đặc biệt quan tâm tăng cường cơ sở vật chất và chế độ, chính sách phục vụ công tác đào tạo. Từ năm 2006 đến nay, toàn tỉnh đã cử 4.518 cán bộ đi đào tạo đại học; 629 người đi làm luận văn tiến sĩ, thạc sĩ chuyên khoa cấp II, chuyên khoa cấp I; 590 cán bộ đi học các lớp cao cấp, cử nhân chính trị; 1.560 cán bộ đi học trung cấp chính trị; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, quản lý hành chính nhà nước cho 28.930 lượt người. Một đặc điểm đáng chú ý, bao gồm cả tính tích cực và hạn chế, là đa phần cán bộ lãnh đạo tại Hải Dương là những người có quê quán tại Hải Dương. Trong số 317 lãnh đạo cấp tỉnh, Sở, huyện, có tới 308 người có quê Hải Dương. Trong số 593 lãnh đạo cấp Phòng của Sở và huyện, có tới 560 người có quê Hải Dương.

Như vậy, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh đã cơ bản được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. Nhìn chung, số công chức, viên chức có trình độ tiến sỹ, thạc sỹ ngày càng tăng, năm 2010 đạt tỷ lệ 2,73% so với năm 2005 là 1,91%. Cơ cấu về độ tuổi của đội ngũ lãnh đạo và đội ngũ kế cận là tương đối hợp lý và có tính kế thừa. Trong 5 năm thực hiện đề án “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới”, trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng; cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ khoa học nói chung của tỉnh được nâng lên rõ rệt.

Tuy nhiên, trước yêu cầu thực tiễn, đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Hải Dương vẫn còn một số điểm cần khắc phục như sau:

- Năng lực thực tiễn của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa tương xứng với trình độ đào tạo.

- Công tác tuyển dụng nói chung và công tác tuyển dụng viên chức sự nghiệp nói riêng vẫn còn có những bất cập, việc thi tuyển viên chức sự nghiệp còn phân tán, hình thức, gây lãng phí. Công tác đánh giá và quản lý cán bộ vẫn là khâu hạn chế, việc đánh giá cán bộ còn chung chung, thiếu cụ thể, thiếu khoa học. Công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ còn bộc lộ không ít những hạn chế, khuyết điểm. Một số nơi việc đánh giá cán bộ trong quá trình quy hoạch chưa chú trọng rà soát chuẩn bị nguồn, chưa thực sự phát huy dân chủ, chủ yếu vẫn dựa vào kết quả lấy phiếu tín nhiệm nên có hiện tượng co kéo, vận động thiếu lành mạnh.

- Công tác đào tạo, bồi dưỡng tuy đã đã được rất nhiều thành tích đáng ghi nhân, nhưng còn chưa thật sự gắn với quy hoạch cán bộ và chưa đáp ứng được yêu cầu, đặc biệt là đào tạo cán bộ cơ sở. Có tình trạng quá coi trọng bằng cấp (đặc biệt là đào tạo cao học) và đào tạo chưa đúng chuyên môn nghiệp vụ theo yêu cầu của thực tiễn. Một số ngành rất cần thiết như tài chính, đầu tư, luật... chưa có đủ cán bộ có trình độ trình độ trên đại học. Theo đánh giá chung, cán bộ, công chức Hải Dương, đặc biệt ở cấp huyện, còn cần phải cải thiện nhiều về trình độ ngoại ngữ. Trong bối cảnh hội nhập và tăng cường thu hút và quản lý đầu tư nước ngoài, việc gia tăng trình độ ngoại ngữ của cán bộ, công chức là một yêu cầu cấp bách.

- Đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn còn nhiều hạn chế bất cập do hình thành từ nhiều nguồn, cơ cấu chưa đồng bộ, trình độ, phẩm chất, năng lực lãnh đạo của một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn. Độ tuổi bình quân còn cao, phần lớn cán bộ lần đầu tham gia giữ chức vụ chủ chốt có tuổi đời cao hơn so với quy định. Hiện tại số cán bộ có độ tuổi từ 46 trở lên khá cao (chiếm tới 61,6%). Nhiều cán bộ chưa đạt chuẩn chức danh; còn 9,4% số cán bộ chưa học hết THPT; 49,9% chưa qua đào tạo để có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên; 25% chưa học trung cấp lý luận chính trị; 39,5% chưa học qua lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước. Số cán bộ biết sử dụng công nghệ thông tin còn thấp.


2.3.2. Nhóm lao động làm việc tại doanh nghiệp


Theo kết quả điều tra doanh nghiệp do Tổng cục Thống kê tiến hành năm 2010 (số liệu tính đến 31/12/2009), Hải Dương hiện có 3.063 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó có 127 doanh nghiệp FDI (liên doanh và 100% vốn nước ngoài), 2.892 doanh nghiệp ngoài nhà nước (bao gồm công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã) và 34 doanh nghiệp nhà nước (trung ương và địa phương).

Biểu 4: Lao động làm việc tại các doanh nghiệp đang hoạt động


phân theo loại hình doanh nghiệp

Đơn vị: người

(số liệu đến thời điểm 31/12 hàng năm)





2005

2006

2007

2009

Tổng số (người)

Tổng số

82.659

100.023

122.641

180.298

Doanh nghiệp Nhà nước

19.561

17.300

18.548

15.334

Doanh nghiệp ngoài nhà nước (bao gồm cả hợp tác xã)

40.977

52.439

60.414

88.578

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

22.121

30.284

43.679

76.386

Cơ cấu (%)

Tổng số

100

100

100

100

Doanh nghiệp Nhà nước

23,7

17,4

15,1

8,5

Doanh nghiệp ngoài Nhà nước

49,5

52,3

49,3

49,1

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

26,8

30,3

35,6

42,4

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Vào thời điểm cuối năm 2009, khu vực doanh nghiệp Hải Dương thu hút 180.298 lao động, với tốc độ tăng trưởng sử dụng lao động trên 17%/năm. Trong đó số lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp nhà nước đang trong xu hướng giảm dần (từ sử dụng 23,7% lao động khu vực doanh nghiệp năm 2005 xuống còn 8,5% năm 2009). Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang sử dụng phần lớn lực lượng lao động tại các doanh nghiệp Hải Dương.

Về cơ cấu giới, 55% số lao động làm việc tại khu vực doanh nghiệp là lao động nữ. Tuy nhiên, cơ cấu giới của lao động là rất khác nhau tại các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Tại khu vực doanh nghiệp nhà nước, đa phần lao động (trên 70%) là lao động nam. Tình hình tương phản tại khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khi có tới 81% là lao động nữ. Điều này cho thấy khu vực đầu tư nước ngoài đang chủ yếu sử dụng lao động giá rẻ, kỹ năng thấp tại tỉnh Hải Dương.

Nhìn chung, trình độ chuyên môn kỹ thuật của nhóm lao động làm việc tại khu vực doanh nghiệp đã có tiến bộ lớn trong thời gian gần đây. Tuyệt đại đa số người lao động làm việc tại khu vực doanh nghiệp đều đã qua đào tạo, hoặc đào tạo tại trường lớp hoặc đào tạo tại doanh nghiệp.

Biểu 5: Lao động nữ làm việc tại các doanh nghiệp đang hoạt động
phân theo loại hình doanh nghiệp

Đơn vị: người



(số liệu đến thời điểm 31/12 hàng năm)




2005

2006

2007

2008

2009

Tổng số (người)

Tổng số

39.006

48.968

60.887

76.007

99.209

Doanh nghiệp Nhà nước

5.907

5.222

5.370

5.244

4.634

Doanh nghiệp ngoài Nhà nước

17.389

20.935

22.215

27.367

32.251

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

15.710

22.811

33.302

43.396

62.324

Cơ cấu (%)

Tổng số

100.0

100.0

100.0

100

100.0

Doanh nghiệp Nhà nước

15,1

10,7

8,8

6,9

4,7

Doanh nghiệp ngoài Nhà nước

44,6

42,7

36,5

36,0

32,5

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

40,3

46,6

54,7

57,1

62,8

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Tuy nhiên chất lượng lao động không đồng đều và ở mức thấp. Hải Dương vẫn chưa có được một đội ngũ doanh nhân giỏi, tinh thông nghiệp vụ kinh tế thị trường, đáp ứng yêu cầu kinh doanh và hoạt động xuất nhập khẩu đang ngày càng đòi hỏi cao hơn. Đội ngũ lao động làm việc tại doanh nghiệp, cho dù có tỷ lệ khá cao đã qua lớp đào tạo nghề, thậm chí có chứng chỉ đào tạo nghề, nhưng nhìn chung vẫn không đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Khi tuyển dụng lao động, doanh nghiệp tiếp tục gặp khó khăn trong việc tìm kiếm các lao động có tay nghề phù hợp với công việc. Vì vậy, sau khi tiếp nhận doanh nghiệp, các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thường phải tổ chức đào tạo và đào tạo lại cho người lao động trước khi bố trí công việc chính thức.


2.3.3. Nhóm lao động làm việc tại khu vực nông nghiệp, nông thôn


Lực lượng lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp tại Hải Dương đang giảm về số lượng, tuy nhiên, lao động trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số lao động. Ngoài canh tác lúa nước, Hải Dương còn nổi tiếng với các nghề truyền thống như kim hoàn, chạm khắc gỗ, chế biến bánh kẹo...

Trong bối cảnh phát triển mới, cơ hội kiếm việc làm có thu nhập cao và điều kiện nâng cao trình độ, kỹ năng làm việc còn hạn chế. Trình độ văn hóa phổ biến mới tốt nghiệp THCS, nên hạn chế nhiều đến năng lực tiếp cận khoa học công nghệ và tiến bộ kỹ thuật; sản xuất vẫn mang nặng tư tưởng tiểu nông, manh mún, chưa bỏ được tập quán canh tác lạc hậu. Nhưng quan trọng hơn là mối liên kết giữa nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân còn rất lỏng lẻo. Vì thế, nông dân Hải Dương vẫn nặng về sản xuất tự phát, lúng túng trong việc lựa chọn sản phẩm phục vụ thâm canh, tổ chức sản xuất theo hướng thị trường khiến sản phẩm làm ra khó tiêu thụ, không được giá, đánh mất cơ hội cải thiện thu nhập. Chất lượng lao động nông nghiệp, nông thôn nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu phát triển: tỷ lệ được đào tạo thấp, thể lực, trí lực, tính kỷ luật, tác phong công nghiệp còn hạn chế.

Vừa tạo việc làm cho lao động nông thôn, vừa đẩy mạnh xuất khẩu lao động là phương châm chính mà Hải Dương lựa chọn. Những năm trước, tỉnh luôn duy trì việc xuất khẩu đạt trên 3.000 lao động/năm. Tuy nhiên, 3 năm trở lại đây chỉ xuất khẩu được hơn 1.000 lao động/năm.

Mặc dù các cấp, ngành, các tổ chức xã hội liên tục tìm giải pháp mở lớp đào tạo nghề cho nông dân, nhưng do trình độ văn hóa hạn chế, nhiều lao động bỏ dở khóa đào tạo, không tiếp cận được với nghề. Các trường cao đẳng, trung cấp và cơ sở đào tạo nghề nhìn chung gặp khó khăn trong việc tuyển học viên. Điều này cho thấy, lao động phổ thông khu vực nông thôn chưa có chuyển biến tích cực trong nhận thức nên chưa tìm đến các cơ sở đào tạo nghề, tự tạo cho mình cơ hội tìm việc làm. Nếu so với 4 tiêu chí trong 19 tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới: thu nhập bình quân đầu người/năm, tỷ lệ hộ nghèo, cơ cấu lao động và hình thức tổ chức sản xuất thì khó có xã nào ở Hải Dương đáp ứng được quy chuẩn. Nếu không có giải pháp tích cực trong việc tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động, đầu tư cho 12 xã được chọn thí điểm, mô hình nông thôn mới ở tỉnh này khó thành hiện thực trong thời gian sắp tới.


3. Đặc điểm tâm lý - xã hội, chăm sóc y tế và những kỹ năng mềm của nhân lực


Phần lớn lao động tại Hải Dương đang làm việc tại khu vực ngoài Nhà nước, trong đó đa số xuất thân từ nông thôn, đã quen với lối sản xuất nông nghiệp nên khi bước vào nền sản xuất công nghiệp, lao động chưa thể thích nghi ngay với môi trường làm việc mới. Do đó, trong giai đoạn đầu, việc chấp hành ý thức tổ chức, kỷ luật, pháp luật lao động còn hạn chế, cần thời gian để thích nghi. Lực lượng này chủ yếu làm việc theo sự phân công của cấp trên. Khi có sự hướng dẫn thì họ luôn có tinh thần hợp tác, phối hợp để hoàn thành công việc được giao (ví dụ: làm việc theo dây chuyền, theo nhóm, tổ…), đức tính của người lao động là cần cù, chịu khó, thông minh.

Trong những năm gần đây, công tác tuyên truyền, công tác quản lý được tăng cường, hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật của người dân nói chung và người lao động nói riêng được nâng lên. Thói quen làm việc tuân thủ những quy định, có kỷ luật đã có bước tiến bộ, đặc biệt trong các doanh nghiệp công nghiệp chế biến có quy mô lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong quá trình CNH - HĐH, các doanh nghiệp không ngừng mở rộng sản xuất, đầu tư máy móc, trang thiết bị hiện đại, làm việc theo dây truyền, ca kíp, … cộng với công tác giáo dục, áp dụng các quy trình quản lý chất lương, quản lý lao động khoa học, tiên tiến được quan tâm, coi trọng, góp phần nâng cao tinh thần hợp tác, năng suất lao động, chất lượng công việc, sản phẩm được nâng lên.

Công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân và nguồn nhân lực được quan tâm phát triển. Hệ thống y tế nhà nước ngày càng được củng cố và hoàn thiện từ tỉnh đến cơ sở. Mạng lưới y tế công lập có: 2 chi cục là Chi cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình và Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm; 51 đơn vị sự nghiệp, bao gồm: 01 Bệnh viện đa khoa tỉnh, 6 bệnh viện chuyên khoa tuyến tỉnh, 6 trung tâm chuyên khoa tuyến tỉnh; 13 bệnh viện đa khoa huyện/TP; 12 trung tâm y tế huyện/TP; 12 trung tâm dân số - kế hoạch hoá gia đình huyện/TP; Trường trung cấp y tế. Toàn tỉnh có 265 trạm y tế xã, phường, thị trấn (gọi chung là trạm y tế).

Về y tế ngoài công lập, hiện toàn tỉnh có 1.333 cơ sở hành nghề y và dược tư nhân, tăng 767 cơ sở so với năm 2005. Trong đó, có 01 bệnh viện đa khoa, 24 phòng khám đa khoa, 234 phòng khám chuyên khoa, 209 cơ sở dịch vụ y tế, 245 phòng chẩn trị y học cổ truyền, 19 cơ sở kinh doanh thuốc, 01 Trung tâm kế thừa ứng dụng y học cổ truyền và 580 cơ sở sản xuất, kinh doanh dược. Tổng số giường bệnh năm 2010 là 4.725 (không tính giường ngoài công lập và Viện quân y 7). Trong đó, tuyến tỉnh 1.720, tuyến huyện 1.595 và tuyến xã 1.060. Tổng số giường bệnh được cấp kinh phí do Sở Y tế quản lý là 3.315 (tuyến tỉnh 1.720, tuyến huyện 1.595); tỷ lệ giường bệnh được cấp kinh phí/10.000 dân năm 2010 là 27,58.

Hàng năm, các chỉ tiêu khám chữa bệnh, xét nghiệm đều vượt 20% - 30%. Công suất sử dụng giường bệnh luôn vượt 20%. 100% các bệnh viện công lập có khoa, khu vực khám chữa bệnh theo yêu cầu. 100% số trẻ dưới 6 tuổi được khám bệnh miễn phí. Đến hết năm 2009, tỷ lệ dân số có thẻ BHYT là 41%; năm 2010 có 58,5% dân số tham gia BHYT. Số người nghèo được cấp và khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT đạt tỷ lệ 100%. Số xã triển khai khám chữa bệnh cho người có thẻ BHYT đạt tỷ lệ 90,3%.



tải về 0.6 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương